Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TỔNG QUAN VỀ NGUYÊN LÝ CHO VAY VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN CHO VAY SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.28 KB, 23 trang )

TỔNG QUAN VỀ NGUYÊN LÝ CHO VAY VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN CHO VAY
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. KHÁI QUÁT CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG MẠI
1. Khái niệm, vai trò hoạt động cho vay
1.1 Khái niệm:
Theo nghĩa thông thường, cho vay là việc chuyển giao một số tiền hay tại
sản nhất định cho người khác sử dụng với điều kiện có hoàn trả lại. Khái niệm phổ
biến này được dùng rộng rãi trong đời sống thường ngày, từ những món tiền hay
tài sản có giá trị lớn cho tới những món tiền lớn hay đồ vật có gía trị nhỏ. Với khái
niệm này, hoạt động cho vay hay quan hệ vay mượn nói chung có 2 đặc điểm chính
là:
- Thứ nhất: Trong quan hệ ấy, chỉ có sự chuyển giao quyền sử dụng (tiền,
tài sản) mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu các tài sản hay số tiền đó.
- Thứ hai: người cho vay được hoàn trả lại sau một thời gian nhất định theo
sự thoả thuận giữa hai bên người cho vay và người đi vay.
Người cho vay có nhận được một khoản lãi nào không cũng phụ thuộc vào
sự thoả thuận này, và trong đời sống thường ngày không phải bao giờ người cho
vay cũng lấy lãi.
Còn đối với các Ngân hàng hay là các tổ chức tín dụng (TCTD) nói chung
thì cho vay là một nội dụng nghiệp vụ, đó là việc Ngân hàng giao cho khách hàng
một khoản tiền nhất định với điều kiện là họ phải hoàn trả lại cùng với một khoản
tiền vượt trội đóng vai trò là tiền lãi. Như vậy, ngoài hai đặc điểm vừa nêu đối với
cho vay nói chung, hoạt động cho vay của các Ngân hàng còn có đặc trưng thứ ba
là người cho vay luôn đòi hỏi một khoản tiền lãi ngoài khoản tiền gốc mà họ đã
cho vay, song với các Ngân hàng, bao giờ họ cũng thu lãi, ít nhất là phải đủ để trả
lãi cho người gửi tiền vào Ngân hàng, bởi vì họ cũng là những người kinh doanh vì
mục tiêu lợi nhuận. Ở Việt nam, theo quy chế cho vay ban hành kèm quyết định số
284/2001/QĐ-NHNN1, thì cho vay là một hình thực cung cấp tín dụng vào mục
đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi.
Như vậy ta cũng cần phân biệt giữa cho vay và cấp tín dụng: một Ngân hàng có thể
cấp cho khách hàng các khoản tín dụng bằng các nghiệp vụ cho vay, cho thuê tài


chính, bảo lãnh Ngân hàng, tín dụng chứng từ,.... cho vay chỉ là một hình thức cấp
tín dụng, song nó lại là một hình thức chủ yếu và quan trọng nhất của Ngân hàng.
Chúng ta thấy rõ điều đó qua phân tích vai trò của hoạt động cho vay.
1.2. Vai trò
Đối với bản thân Ngân hàng : Những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ-cho vay
luôn là hoạt động quan trọng nhất. Trước hết, đó là hoạt động đóng góp lớn nhất
vào thu nhập, và khoản mục cho vay luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài
sản của một Ngân hàng thương mại. Ở Mỹ các khoản cho vay thường chiếm
khoảng 70% tổng tài sản của các Ngân hàng thương mại và đem về từ 75-80% thu
nhập. Cũng lưu ý là ở Mỹ cũng như các nước có nền kinh tế thị trường phát triển
thì các Ngân hàng thương mại thường thực hiện rất nhiều nghiệp vụ, và tỷ trọng
thu về dịch vụ thường lớn hơn rất nhiều so với ở các nước kém phát triển khác.
Mặt khác, nếu nhìn từ góc độ lịch sử cho vay là một trong những hoạt động khởi
thuỷ của các Ngân hàng thương mại. Cùng với nghiệp vụ bảo quản vàng bạc và các
đồ vật quý giá, những người thợ vàng, nguồn gốc đầu tiên của các Ngân hàng cũng
tiến hành cho vay bằng vàng bạc để kiếm lợi, bởi họ phát hiện ra rằng ở một thời
điểm bất kỳ các biên lai trình để rút vàng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số tiền
vàng họ nắm giữ. Cho tới ngày nay dù xã hội đã phát triển với những bước tiến
nhảy vọt thì cho vay vẫn cứ là một trong ba hoạt động cơ bản chứng tỏ sự tồn tại
của một Ngân hàng thương mại, đó là nhận tiền gửi, cho vay và làm dịch vụ thanh
toán.
Nếu như cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các Ngân hàng, thì đối với
toàn bộ nền kinh tế quốc dân nó cúng giữ một vị trí thiết yếu không kém. Cùng với
hoạt động nhận tiền gửi, các Ngân hàng thương mại đã "tạo tiền" qua cho vay
nền kinh tế. Các lý thuyết đã chỉ ra phần lớn các khoản vay Ngân hàng đều tạo ra
các khoản tiền gửi Ngân hàng khác, và như vậy bằng cách cấp một kho tàng khối
tiền tệ ản vay, một khoản tiền gửi mới sẽ được tạo ra ở một Ngân hàng nào đó và
khối tiền tệ sẽ tăng lên. quá trình sẽ diễn ra theo chiều ngược lại khi Ngân hàng thu
nợ. Tất nhiên, khả năng tạo tiền của các nước là không giống nhau do tỷ lệ dự trữ ở
các Ngân hàng thương mại từ lượng tiền huy động được (gồm cả dự trữ bất buốc

và dự trữ tự nguyện) và tỷ lệ giữa tiền trong dân là khác nhau, song trong một
trừng mực nào đó thì khả năng ấy cũng phụ thuộc vào khả năng tăng dư nợ cho vay
của họ. Mặt khác, hoạt động cho vay còn làm giảm hệ số giữ tiền mặt trong nền
kinh tế, bởi các chủ thể có thể dễ dàng vay Ngân hàng cho các nhu cầu chi tiêu,
qua đó làm các tác động trên của hoạt động cho vay tới mức cung tiền được cho
bởi công thức: MS = m. H
sr
s
m
+
+
=
1
Trong đó: MS là mức cung tiền (M
1
)
H: là tiền cơ sở
m: là số nhân tiền tệ
s: tỷ lệ giữa tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi
r: tỷ lệ dự trữ thực tiễn
Hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại cũng tạo điều kiện thực
hiện thành công các chương trình kinh tế lớn của Nhà nước. Như chúng ta đều biết
trong nền kinh tế thị trường hiện đại này, bên cạnh yếu tố tự do của thị trường, của
"bàn tay vô hình" Chính phủ cũng đóng một vai trò tích cực trong các quá trình
kinh tế. Một trong những thể hiện của nó là sự khuyến khích đầu tư từ phía Chính
phủ vào một số lĩnh vực hoặc thành phần được cho là cần thiết, và một trong số các
ưu đãi thường được áp dụng là ưu đãi về tín dụng. Đối với nước Việt nam điều này
càng có ý nghĩa, bởi nó còn đáp ứng được yêu cầu của một nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN với cơ sở kinh tế là vai trò chủ đạo của các DNNN. Các Ngân
hàng có khả năng huy động để đầu tư tập trung, trọng điểm, tăng quy mô của các

doanh nghiệp, cải thiện kỹ thuật, công nghệ sản xuất đóng góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nâng cao hiệu
quả của nền sản xuất xã hội thông qua việc nâng cao hiệu quả việc sản xuất kinh
doanh của từng doanh nghiệp.
Về phía các doanh nghiệp: Vốn vay Ngân hàng là một nguồn quan trọng, góp
phần hình thành vốn tối ưu qua đó nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ta hiểu ngắn gọn
cơ cấu vốn tối đa của một công ty là cơ cấu vốn làm tối đa hoá gía trị thị trường
(hay giá cả cổ phiếu) của công ty đó, và cơ cấu vốn tối ưu này thì chi phí vốn bình
quân được cho bởi công thức sau đây là hợp nhất: WACC = Wd. Kd
(1-t) + Wp + WsKs
Trong đó
- WACC là chi phí vốn bình quân
REBIT
EBIT
DFL

=
-Wd, Wp, Ws lần lượt là tỷ trọng của nợ vay, vốn huy
đọng từ cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường (hay lợi nhuận giữ lại). Vốn vay có tác
dụng khuyếch đại lợi nhuận qua đòn cân nợ:
Đòn cân nợ DFL chính là thay đổi của thu nhập của
mối cổ phiếu thường thay đổi 1% của lợi nhuận hoạt động (EBIT); là lãi suất tiền
vay (R) là một loại chi phí hợp lý được trừ ra khỏi lợi nhuận hoạt động khi tính
thuế thu nhập doanh nghiệp. Do vậy theo công thức tính chi phí bình quân, doanh
nghiệp chỉ phải thực chịu mức lãi suất (1-t), trong đó Kd là lãi suất tiền vay và (t)
là thuế suất thuế thu nhập. Tuy vậy không phải doanh nghiệp sẽ dùng toàn bộ vốn
vay để tài trợ cho hoạt động của mình, bởi thường thì đến một giới hạn nào đó, các
Ngân hàng sẽ đòi hỏi lãi suất cao hơn để bù đáp mức rủi ro tăng lên mà họ phải
chịu; Hơn nữa càng sử dụng nhiều nợ vay thì quyền tự chủ kinh doanh của doanh
nghiệp càng bị ảnh hưởng. Như vậy, các doanh nghiệp cân nhắc một tỷ lệ vốn vay

hợp lý để có một cơ cấu vốn tối ưu, và các Ngân hàng thương mại đã giúp các
doanh nghiệp tìm ra một cơ cấu vốn có chi phí rẻ nhất.
Những để được một Ngân hàng cho vay, các doanh nghiệp lại phải có những
điều kiện nhất định. Một điều kiện thường thấy là các doanh nghiệp phải giải trình
tình hình tài chính được thể hiện qua sổ sách kế toán, các báo cáo tài chính, định
kỳ chuyển cho Ngân hàng các tài liệu thể hiện hoạt động kinh doanh và sử dụng
vốn vay. Chính bởi vậy nó tạo ra sức ép đối với các doanh nghiệp trong việc thực
hiện hoạch toán kinh doanh, góp phần quản lý giám sát nền kinh tế, lành mạnh hoá
môi trường kinh doanh. Sự sắn có của các khoản cho vay khiến các doanh nghiệp
an tâm hơn về vốn lưu động, có khả năng đầu tư nhiều hơn vào hàng dự trữ nếu
thấy có lợi mà vốn lưu động tự có của họ không đáp ứng nổi. Các khoản cho vay
lãi dài hạn của Ngân hàng lại tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào tài sản cố
định đầu tư vào sản xuất, cải tiến công nghệ nâng cao năng lực sản xuất. Và dù là
vay theo hình thức nào thì lãi suất vốn vay cùng sự kiểm tra giám sát Ngân hàng
thúc đẩy các doanh nghiệp quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả để có lãi hoàn trả
được nợ Ngân hàng, tạo uy tín để tiếp tục vay vốn Ngân hàng.
2. Phân loại các khoản cho vay
Tuy theo các tiêu thức phân loại chúng ta có các loại cho vay khách nhau:
2.1. Theo thời hạn cho vay
Theo tiêu thức này, người ta chia các khoản cho vay thành cho vay ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn. Mặc dù hầu hết các nước đều thống nhất về điều này, những
thời gian cụ thể được quy định theo từng loại lại không hoàn toàn đồng nhất. Ở các
nước phương Tây người ta cho vay ngắn hạn có thời hạn nhỏ hơn 1 năm; các
khoản cho vay trung hạn có thời hạn từ trên 1 năm tới 7 năm; các món cho vay dài
hạn có kỳ hạn dài hơn. Tuy vậy cũng có nhiều khoản cho vay có thời hạn tới 10
năm (như cho vay tiêu dùng) vẫn được coi là vay trung hạn. Còn ở Việt nam hiện
nay theo quy chế cho vay thì cho vay Ngắn hạn cũng có thời hạn đến 1 năm; cho
vay trung hạn có thể tới 5 năm; cho vay dài hạn có thời gian từ 5 năm trở lên
những không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy
phép thành lập đối với pháp nhân, không quá 15 năm với cho vay các dự án phục

vụ đời sống.
Phân loại các món vay theo thời hạn là phổ biến của mọi Ngân hàng. Họ sẽ
căn cứ vào đối tượng cho vay mà quyết định loại cho vay cho phù hợp (thuộc loại
ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và thời hạn cụ thể), từ đó mà áp dụng các phương
thức kiểm tra, kiểm soát món vay phù hợp. Với cách phân loại này, các Ngân hàng
sẽ xây dựng một cơ cấu hợp lý các khoản cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn,
từ đó tạo ra cơ cấu kỳ hạn tối ưu của tài sản, phù hợp với kỳ hạn của nguồn vốn
huy động, kết hợp tốt nhất giữa khả năng sinh lợi và khả năng thanh khoản.
2.2. Theo lĩnh vực đầu tư
Theo cách phân loại này ta có thể chia các khoản cho vay thành:
-Cho vay thương mại và công nghiệp
-Cho vay bất động sản
-Cho vay nông nghiệp
-Cho vay cá nhân
-Cho vay khác
Tuy theo điều kiện và yêu cầu quản lý ta có thể chia nhỏ hơn nữa các lĩnh vực
trên để được các loại cho vay với lĩnh vực hẹp hơn. Phân loại các món vay theo
lĩnh vực rất có ý nghĩa trong việc kết hợp giữa đa dạng hoá để giảm rủi ro với
chuyên môn hoá ở mức độ phù hợp. Các Ngân hàng thường dưa vào các lợi thế của
mình (lợi thế về vị trí, về trang thiết bị công nghệ, về quy mô, về đội ngũ cán bộ,...)
để chuyên môn hoá vào một hay một số lĩnh vực nhằm khai thác triệt để các lợi thế
ấy, dự báo tốt về động thái các ngành mình cho vay, khả năng hoàn trả đúng hạn
các khoản vay của khách hàng....Tuy vậy xu hướng của thế giới hiện nay vẫn là
hướng tới các Ngân hàng đa năng, trong đó sự chuyên môn hoá điễn ra ở cấp độ
các phòng ban hay bộ phần của Ngân hàng. Bằng cách chia các khách hàng vay ra
các lĩnh vực khách nhau, Ngân hàng có thể theo dõi động thái của nền kinh tế và
từng lĩnh vực để mở rộng cho vay vào lĩnh vực này hay rút bớt vốn khỏi lĩnh vực
kia.
2.3. Theo mức độ đảm bảo.
Các Ngân hàng có thể cho vay có hay không có đảm bảo tuỳ theo tín nhiệm

cũng như độ rủi ro của phương án xin vay vốn. Từ đảm bảo của khách hàng ở đây
chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo
lãnh của bên thứ ba. Các đảm bảo này có mục đích giảm bớt rủi ro mất mát trong
trường hợp người vay không trả được nợ hay không muốn trả nợ khi đáo hạn. Các
tài sản được đem ra thế chấp thường là các bất động sản trong khi ấy các tài sản
được cầm cố lại là những động sản nhỏ chứng khoán và các giấy tờ có giá khác,
vật tư... Yêu cầu cơ bản đối với các tài sản đưa ra cầm cố, thế chấp là chúng phải
có tính thị trường, tức là có khả năng thanh lý được. Thường thì các Ngân hàng cho
vay dưới mức giá trị thanh lý của các tài sản đảm bảo bởi khi mà giá trị các tài sản
ấy còn lớn hơn giá trị của món vay thì khách hàng còn có động lực trả nợ. Ở Việt
nam các Ngân hàng có thể cho vay tới 70 -75% giá trị tài sản thế chấp hoặc tới
90% giá trị các số tiết kiệm cầm cố. Tuy vậy cũng cần khẳng định mục đích của
các đảm bảo trên là tạo động lực buộc khách hàng trả nợ chứ chẳng Ngân hàng nào
muốn thanh lý những tài sản đảm bảo ấy để bù đáp cho những món vay không thể
thu hồi.
Trường hợp khách hàng có tín nhiệm, có tình hình tài chính vững mạnh và
lợi nhuận có được từ dự án sẽ cho vay là khả quan thì Ngân hàng có thể cho vay
không cần đảm bảo, điều mà các sở Việt nam gọi là cho vay tín chấp. Điều đó giải
thích tại sao nhiều Ngân hàng cấp những khoản cho vay lớn nhất lại không cần
đảm bảo. Đó là các khoản cho vay những khách hàng chủ yếu, những công ty có
quan hệ thường xuyên với Ngân hàng, có tình hình tài chính vững mạnh với lợi
nhuận tương đối ổn định bởi hệ thống quản lý có hiệu quả và các sản phẩm dịch vụ
được thị trường chấp nhận. Như vậy, để quyết định món vay là có đảm bảo hay
không có đảm bảo các Ngân hàng phải dựa vào các yếu tố nhất định như đã phân
tích.
2.4. Theo phương pháp hoàn trả
Các khoản cho vay còn có thể được hoàn trả một lần hay trả góp. Cho vay
hoàn trả một lần thì khoản tiền vay được hoàn trả toàn bộ một lần vào thời gian đáo
hạn theo hợp động tín dụng, lãi suất có thể được trả theo những thời hạn nhất định
(chẳng hạn theo tháng, theo quý hay năm). trong khi ấy, cho vay trả góp đòi hỏi

việc hoàn trả theo định kỳ theo nguyên tắc trả dần trong suốt thời gian thực hiện
hợp đồng, các khoản trả nợ có thể bằng nhau (trả theo niên kim cố định) hoặc
không bằng nhau tuỳ theo thoả thuận. Thông thường các Ngân hàng áp dụng
phương thức trả góp với các khoản cho vay trung dài hạn (TDH) để đầu tư vào các
dự án để mở rộng sản xuất kinh doanh hay đầu tư mới, hay đầu tư vào bất động sản
còn các khoản cho vay hoàn trả một lần lại thường được áp dụng với cho ngắn hạn
hơn, theo quy chế cho vay hiện nay, các khoản cho vay ngắn hạn được cấp hai hình
thức là cho vay theo món và hạn mức tín dụng.
2.5. Theo thành phần kinh tế
Ta cũng có thể phân các khoản cho vay ra thành cho vay DNNN và cho vay
ngoài quốc doanh. Đây là cách phân loại không được nhấn mạnh trong các nền
kinh tế TBCN nhưng đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước
Việt nam nó lại rất có ý nghĩa trong thực tiến. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, Nhà nước có chính sách khác nhau với từng khu vực kinh tế chẳng hạn việc
quy định các DNNN không cần phải có tài sản thế chấp khi vay vốn tại các
NHTMQD, các ưu tiên và hạn chế khác liên quan tới mở rộng hay thu hẹp tín dụng
Ngân hàng tới các thành phần kinh tế nói chung. Mặt khác, mối thành phần kinh tế
lại có những đặc điểm riêng biệt, và phải nói một cách công bằng là Ngân hàng sẽ
có thái độ ứng xử khác nhau trong hoạt động cho vay các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau. Đây cũng là điều hợp lý. Lưu ý là trong cách phân loại ta
cũng có thể phân chia chi tiết hơn nữa, chẳng hạn đối với cho vay ngoài quốc
doanh, cho vay cá nhân, cho vay công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
cho vay doanh nghiệp tư nhân, cho vay vốn đầu tư nước ngoài. Đối với cho vay
DNNN, bao gồm cho vay các DNNN độc lập và cho vay các Tổng công ty và
thành viên của chúng.
3. Các hình thức bảo đảm đối vật:
Hiện nay bảo đảm đối vật được thực hiện dưới hai hình thức là cầm cố và thế
chấp tài sản
3.1. Thế chấp tài sản
Thế chấp là phương tiện chuyên dịch quyền lợi về tài sản sang cho chủ nợ

với mục đích làm đảm bảo cho món nợ hoặc miến trừ một nghĩa vụ.
3.1.1 Tài sản được dùng làm thế chấp bao gồm:
- Đất đai, quyền sử dụng đất đai: Đó là quyền sử dụng đất ở, đất canh tác cho nông
nghiệp, lâm nghiệp được Nhà nước giao cho các hộ gia định, các cá nhân sử dụng
vào mục đích đã được pháp luật quy định; quyền sử dụng đất của các tổ chức trong
nước được Nhà nước giao cho thuê đất; quyền sử dụng đất được hình thành do
thừa kế, chuyển nhượng, chuyển đổi sử dụng đúng mục đích theo quy định của
pháp luật; quyền sử dụng đất của các tổ chức cá nhân nước ngoài, người Việt nam
định cư ở nước ngoài được phép đầu tư vào Việt nam được Nhà nước cho thuê đất.

×