THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VAY TRẢ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA
CHÍNH PHỦ TRONG THỜI GIAN QUA
I/ QUAN HỆ TÍN DỤNG CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC TỔ CHỨC
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ .
1./ Quá trình hình thành và phát triển của mối quan hệ tín dụng của
Việt Nam với các Tổ chức Tài chính Quốc tế .
a) Với Quỹ tiền tệ Quốc tế(IMF).
* Giới thiệu sơ lược.
Quỹ tiền tệ Quốc tế là một tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, được thành lập
từ hội nghị Bretton Wood năm 1945. Đây là một tổ chức tiền tệ lớn nhất bao gồm
176 nước thành viên và đóng vai trò quan trọng trong quan hệ tài chính tiền tệ quốc
tế. Quỹ tiền tệ Quốc tế được thành lập và hoạt động trên cơ sở hoạt động của các
nước hội viên qua hình thức hiệp định . Hoạt động và giao dịch của Quỹ được
thông qua hai vụ:
- Vụ tổng hợp : Vụ điều hành hoạt động của Quỹ.
- Vụ SDR (Special Drawing Rigts): Xác định quyền và nghĩa vụ của các
nước hội viên( quyền rút vốn đặc biệt). Đây là vụ quan trọng bởi nó xác lập được
quyền của các nước hội viên trong việc sử dụng số SDR cho phép (số SDR được
sử dụng phụ thuộc vào sự đóng góp cổ phần khi tham gia vào Quỹ của hội viên).
Việc thanh toán trên thị trường quốc tế sẽ dựa vào đồng SDR - là đồng tiền không
bị mất giá ( bởi nó được xác định từ rổ tiền tệ với 5 đồng tiền mạnh trên thế giới,
bao gồm: đô-la Mỹ, Mác Đức, Bảng Anh, France Pháp và Yên Nhật).
Khác với Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu á (sẽ được
trình bày ở phần sau), mục đích trực tiếp của Quỹ tiền tệ Quốc tế không phải là
phát triển mà là :
- Khuyến khích hợp tác tiền tệ quốc tế ( sử dụng một đơn vị tiền tệ chung
hay cùng sử dụng một đơn vị ngang giá với các đơn vị tiền tệ của tất cả các nước
hội viên thông qua một tổ chức . Chẳng hạn như liên minh tiền tệ Châu âu và sự ra
đời của đồng tiền chung Châu á trong tương lai.
- Tạo điều kiện phát triển cân đối mậu dịch quốc tế, tạo điều kiện để phát
triển các nguồn lực sản xuất của các nước hội viên, giải quyết công ăn việc làm,
nâng cao thu nhập cho các nước hội viên .
- Tăng cường sự ổn định tỷ giá của đồng tiền, tránh sự cạnh tranh về tỷ giá
giữa các đồng tiền thông qua phương thức cạnh tranh.
- Hạn chế về cạnh tranh tỷ giá giữa các đồng tiền có phương hại tới giải
quyết cán cân thanh toán, sự phương hại đến thịnh vượng của quốc gia cũng như
quốc tế.
- Giảm bớt mức độ bất quân bình trong cán cân thanh toán thông qua việc
tạo ra các điều kiện, phương tiện thanh toán quốc tế ( cho vay để bù đắp thiếu hụt
cán cân thanh toán ...)
*Quá trình hình thành và phát triển của mối quan hệ.
Ngay từ thời kỳ ngụy quyền Việt Nam đã chính thức là thành viên của IMF.
Tới năm 1979, quân Nhật chủ trì cùng 7 nước khác là: Phần lan, Thụy điển, Thụy
sĩ, Úc, Canada, Bỉ và Áo. Nhóm nước này đã viện trợ không hoàn lại cho Việt
Nam 56,2 triệu đô-la Mỹ cùng với 18 Ngân hàng Thương mại do Ngân hàng Ngoại
thương Pháp và Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Nhật bản chủ trì cho Việt Nam vay
bắc cầu 85,447 triệu đô-la Mỹ để trả hết nợ quá hạn vay của IMF một khoản là
100,179 ngàn SDR ( khoảng 140 triệu đô-La Mỹ ) vào tháng 10 năm 1998 .
Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành nhiều cuộc thương lượng ký kết và xử lý
hàng loạt khâu kỹ thuật để giải quyết vấn đề nợ quá hạn tạo cơ sở cho Ban Giám
đốc điều hành IMF thông qua chương trình kinh tế 1 năm, khôi phục quyền vay
vốn của Việt Nam tăng vốn cổ phần của Việt Nam tại Quỹ từ 176 triệu SDR lên
241,6 triệu SDR và quỹ quyết định cho Việt Nam vay theo ba thể thức: dự phòng,
chuyển tiếp kinh tế và điều chỉnh cơ cấu mở rộng trị giá lên tới 800 triệu đô-la Mỹ
trong đó lần một đã rút 102 triệu đô-la Mỹ để trả nợ vay bắc cầu.
Như vậy sau hơn 10 năm bị IMF đình chỉ quan hệ tín dụng, ngày 6/10/1998,
quan hệ vay vốn của Việt Nam với IMF được khôi phục lại và có nhiều triển vọng.
Đây là chìa khoá quan trọng khai thông quan hệ của chúng ta với cộng đồng tài
chính quốc tế.
b) Với Ngân hàng Thế giới(WB) và Ngân hàng phát triển Châu á(ADB).
* Giới thiệu chung.
Mặc dù Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng phát triển Châu á là hai tổ chức
khác biệt song do đều là hai tổ chức tài chính - phát triển do vậy ta sẽ xem xét nội
dung , các nguyên tắc và đặc điểm cho vay chung của cả hai tổ chức này(dưới đây
xin được gọi với một tên khác là các Ngân hàng ).
- Nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển của WB và ADB là tăng
cường đầu tư vào các nước đang phát triển, giúp những nước này thay đổi tình
trạng kinh tế nghèo nàn, nâng cao mức sống của đông đảo quần chúng nghèo khổ.
Chiến lược phát triển này chủ yếu biểu hiện ở những nước, những khu vực được
trợ vốn và các dự án xây dựng, đặc biệt là với các dự án phát triển nông nghiệp và
nông thôn ngày càng thể hiện rõ tư tưởng chiến lược phát triển này. Nhiều năm
gần đây, việc trợ vốn cho các nước đang phát triển vẫn bảo lưu các dự án xây dựng
đã trở thành truyền thống nhưng Ngân hàng luôn điều chỉnh những dự án này mục
đích là nhằm đặt trọng điểm vào các dự án xây dựng trực tiếp liên quan tới lợi ích
của tầng lớp nghèo khổ nhất trong các nước đang phát triển (WB cung cấp cho 163
nước thànhviên và ADB cung cấp cho các nước đang phát triển của khu vực Châu
á).
- Nguyên tắc cho vay : Căn cứ vào quy định trong hiệp định ngân hàng, WB
và ADB có một số nguyên tắc cho vay chung sau:
+ Ngân hàng chỉ cho vay với các nước thành viên. WB và ADB chỉ cung cấp
các khoản cho vay đối với Chính phủ các nước thành viên có thu nhập thấp hoặc
đối với các tổ chức công cộng và tư nhân được Chính phủ, Ngân hàng Trung ương
của nước thành viên bảo trợ. Các nước mới độc lập, dù dự tính chẳng bao lâu nữa
sẽ trở thành thành viên, cũng chỉ có thể xin vay sau khi đã chính thức trở thành
nước thành viên. Tuy nhiên trên thực tế vẫn có những trường hợp ngoại lệ, chẳng
hạn như trước khi Niu Ghinê giành được độc lập vào tháng 9 năm 1975, WB đã
cấp cho họ 5 khoản vay, đều do Chính phủ Oxtơraylia bảo trợ.
+ Thông thường các khoản vay của WB và ADB phải được dùng cho các dự
án cụ thể của nước vay nợ, các dự án này phải được Ngân hàng thẩm định và phê
chuẩn là có tính khả thi về kỹ thuật và kinh tế, phải được bàn bạc và thống nhất với
nước vay nợ đó, phải là những dự án thật sự ưu tiên nhất trong chương trình phát
triển kinh tế. Bởi vậy nước vay nợ phải cung cấp cho các tổ chức này tình hình và
tư liệu về kinh tế, tài chính có liên quan đến dự án và của chính dự án xin vay vốn.
Dự án vay vốn chỉ có thể được chấp nhận sau khi đơn vị có dự án đánh giá trước,
một nhóm thẩm định của Ngân hàng đã phân tích, đánh giá được hội đồng giám
đốc điều hành phê chuẩn. Trong quá trình thực hiện dự án thường mỗi năm Ngân
hàng sẽ tới kiểm tra đôn đốc và chỉ đạo kỹ thuật một hoặc hai lần , khi kết thúc dự
án phải có đánh giá mang tính chất tổng kết.
Các khoản cho vay không mang tính chất dự án thường là cấp ngoại tệ cho
nhu cầu nhập vật tư, thiết bị để giúp cho các công trình sản xuất đã có sẵn của
nước vay nợ. Cũng có một số ít khoản cho vay không mang tính dự án cụ thể được
cấp cho các nước vay nợ thực hiện tổng kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế của họ,
cũng có một số ít khoản cho vay này được cấp cho nước vay nợ duy trì kế hoạch
phát triển sản xuất sau thiên tai.
+ Chỉ cho vay đối với những nước thành viên có khả năng trả nợ. WB và
ADB là những tổ chức phát triển (cho các nước vay nợ để phát triển kinh tế ). Mặt
khác WB và ADB lại là những tổ chức tài chính, chủ yếu là vay vốn trên thị
trường tiền tệ thế giới rồi lại cho các nước thành viên vay, cho nên chúng phải đảm
bảo chắc chắn rằng đồng vốn cho vay phải thu về được đúng hạn.
- Đặc điểm cho vay:
Tôn chỉ của WB và ADB là cho vay sản xuất dài hạn đối với các nước đang
phát triển để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và nâng cao năng suất lao động của họ.
Các khoản cho vay này khác với các khoản cho vay của các Ngân hàng Thương
mại nói chung . Một cách khái quát,ta có đặc điểm sau:
+ Thời hạn cho vay tương đối dài thường là 40 năm ( trong đó khoảng 10
năm ân hạn ) . Phương thức trả vốn sau khi hết thời kỳ ân hạn nói chung là chia
bình quân cho các năm, cứ nửa năm trả một lần.
+ Lãi suất tương đối ưu đãi, thường ở mức 1 %/năm.
+ Ngoài ra còn một đặc điểm khác nữa là trong các dự án do WB và ADB tài
trợ luôn đòi hỏi phải có nguồn vốn đối ứng trong nước (vốn tham gia của nước đi
vay).
* Quá trình hình thành và phát triển mối quan hệ.
Trước năm 1998, WB chỉ cung cấp cho chúng ta một khoản tín dụng cho dự
án Thuỷ lợi Dầu Tiếng trị giá 60 triệu USD (vào 24/8/1978). Số lượng dự án do
ADB cung cấp nhiều hơn của WB: 7 dự án với tổng trị giá 27,385 triệu USD và đã
rút được 24 triệu USD
Tháng 10 năm 1998 ngay sau khi quan hệ vay vốn giữa Việt Nam và IMF
được trở lại bình thường, WB và ADB đã khẩn trương cùng phía Việt Nam chuẩn
bị đàm phán các hiệp định theo một số dự án. Ngân hàng Nhà nước đã chủ trì và
phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan tiến hành đàm phán và ký kết các hiệp định
vay. Kết quả là WB đã cho vay hai dự án về giáo dục tiểu học và dự án quốc lộ 1A
trị giá là 218 triệu đô-la Mỹ ( được ký kết vào ngày 1/11/1998)
Trong tài khoá năm 1998, 1999, IMF, WB, ADB dự kiến cho Việt Nam vay
khoảng từ 1 đến 1,5 tỷ đô-la Mỹ chi cho tài khoá. Tháng 10 năm 1998 các đơn vị
đứng đầu các tổ chức này đã thăm chính thức Việt Nam để cam kết việc bình
thường hoá quan hệ với Việt Nam , để có thể cho Việt Nam vay trong những năm
tiếp theo, đồng thời khẳng định những thành quả của Việt Nam đã đạt được trong
công cuộc đổi mới kinh tế và Việt Nam đã hoà nhập vào cộng đồng tài chính quốc
tế.
Tiếp đó ngày 8 - 10 /11/1998 tại thủ đô Paris, trung tâm chính trị và văn hoá
nổi tiếng trên thế giới đã chứng kiến một sự kiện vô cùng quan trọng đối với Việt
Nam là Hội nghị quốc tế đầu tiên của các nước và các Tổ chức Tài chính Quốc tế
tài trợ cho Việt Nam với sự có mặt của đông đảo các đạI diện của 24 quốc gia và
17 tổ chức quốc tế. Các nước và các tổ chức quốc tế đã tuyên bố tài trợ cho Việt
Nam tài khoá năm 1999là 1,86 tỷ đô-la Mỹ để giúp Việt Nam phát triển kinh tế -
xã hội. Đây là một sự kiện vô cùng quan trọng đối với Việt Nam trong công cuộc
đổi mới kinh tế đất nước
Và tới ngày 13,14/12/1998, chúng ta đã đủ điều kiện để giải quyết nợ qua
câu lạc bộ Paris với số tiền là 1 tỷ USD. Đây là một bước ngoặt lớn đánh dấu một
giai đoạn mới với nhiều triển vọng trong quan hệ vay nợ nước ngoài của Việt
Nam, là điều kiện để ta giải quyết nợ qua Câu Lạc Bộ London ( tới nay chúng ta đã
xử lý nợ qua câu lạc bộ London được 1,5 tỷ Rúp và hơn 3 tỷ đô-la Mỹ ).
Quan hệ tài chính, tín dụng của chúng ta ngày càng phát triển và không
ngừng được mở rộng với cả các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế khác. Biểu hiện
điều này như việc Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các Bộ , Ngành để đàm
phán và ký kết những hiệp định vay vốn: Quỹ KUWAIT cho vay dự án thuỷ lợi
Yazun trị giá 15 triệu USD, với Quỹ xuất khẩu dầu lửa (OPEC) ...
Đối với Ngân hàng Hợp tác Kinh tế Quốc tế (MBEC) và Ngân hàng Đầu tư
Quốc tế (MIB) của cộng đồng các nước XHCN trước đây, trong thời gian qua có
nhiều biến động lớn, có nguy cơ sụp đổ, chúng ta đã góp phần đấu tranh để duy trì
và điều chỉnh hoạt động của hai tổ chức này, cụ thể là đã trình Chính phủ giải
quyết trả trước số nợ với MBEC và cùng các ngành, địa phương xử lý nợ của
những công trình đã vay vốn của MIB.
Như vậy, sau gần 5 năm, tính cho tới 4/2003, chỉ tính riêng ba tổ chức là
IMF, WB, ADB đã ký cho Việt Nam vay vốn với tổng trị giá lên tới 3,6 tỷ USD. Số
vốn này được tài trợ cho các dự án trọng điểm trên mọi lĩnh vực như: giáo dục, cấp
nước, y tế, giao thông, điện, ...Đây là kết quả rất thành công của cả một sự cố gắng,
nỗ lực lớn của Chính phủ Việt Nam trong đó không thể không kể đến sự đóng góp
không nhỏ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Khái quát cơ chế tín dụng của các Tổ chức Tài chính Quốc tế.
Sau khi hiệp định vay có giá trị hiệu lực, Tổ chức cho vay (Tổ chức Tài
chính Quốc tế) sẽ tiến hành mở cho Chính phủ Việt Nam một tài khoản vay nhưng
đứng tên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tài khoản vay này sẽ được ghi nợ mỗi
khi người vay (Chính phủ Việt Nam) rút vốn vay để sử dụng, chi tiêu cho dự án
đầu tư đã được Tổ chức cho vay thống nhất. Thời hạn rút vốn của người vay
(Chính phủ đi vay) thường được quy định (cam kếta0 trong phạm vi là 5 năm (phải
rút hết số vốn vay đã cam kết). Tổ chức cho vay quy định một lịch trả nợ từ sau
thời gian ân hạn (thời gian chưa phải trả nợ sau khi đã hoàn thành thời gian rút
vốn) cho tới hết thời hạn vay.
2.1 Thủ tục giải ngân (rút vốn).
Do đặc điểm nguồn vốn cho vay của Tổ chức cho vay đối với nước đi vay
thường được tài trợ cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng làm thay đổi cơ cấu kinh
tế, các công trình phúc lợi xã hội với quy mô lớn. Do vậy hình thức giải ngân (cho
rút vốn) của Tổ chức cho vay được áp dụng với nước đi vay gồm 4 hình thức:
a) Thanh toán trực tiếp ( Direct Payment).
Theo hình thức này, bên vay sẽ yêu cầu bên cho vay thanh toán trực tiếp cho
người cung cấp hàng. Bên vay phải chỉ rõ trong đơn xin rút vốn vay ngày đến hạn
phải thanh toán với người cung cấp hàng. Hình thức này nói chung thích hợp với
việc thanh toán theo tiến độ thi công các công trình xây lắp lớn, các chi phí về tư
vấn và các khoản nhập khẩu nhỏ gọn không cần thiết phải mở thư tín dụng .
Khi nhận được thông báo để thanh toán của bên cho vay gửa trở lại, phải
kiểm tra xác nhận và gửi cho Bộ Tài chính (bản sao) để theo dõi quá trình rút vốn
và nhận nợ với nước ngoài.
b) Phương thức hoàn vốn (Reimbursement Procedure)
Phía bên vay đã thanh toán trước các chi phí phát sinh cho người nhận thầu
và cung ứng hàng hóa hoặc các khoản mua sắm , chi phí xây lắp nhỏ , lặt vặt mà
người vay đã đứng ra chi trước mà những chi phí này được Tổ chức cho vay chấp
nhận thuộc chi phí tài trợ của dự án.
Chủ dự án được Bộ Tài chính uỷ quyền có trách nhiệm làm các đơn xin hoàn
lại vốn, cũng như các chứng từ chứng minh đã thanh toán cho người nhận thầu và
cung cấp hàng hoá để gửi cho bên cho vay. Các thủ tục thanh toán và hoàn vốn
được thực hiện qua một ngân hàng thương mại được Bộ Tài chính và Ngân hàng
Nhà nước chỉ định và thông báo với phía cho vay.
Chủ dự án phải mở tài khoản riêng để theo dõi các chi phí đã ứng trước,
đồng thời căn cứ vào báo có của bên cho vay ( đã hoàn trả vốn ) để lập báo cáo chi
và thu hoàn vốn gửi cho Bộ Tài chính và Ngân hàng Thương mại được chọn (nếu
chi phí đó có liên quan tới vốn của Ngân hàng Thương mại).
c) Phương thức cam kết (Commitment Procedure).
Thủ tục cam kết được áp dụng rộng rãi trong việc thanh toán hàng nhập
khẩu bằng thư tín dụng thương mại (L/C) . Thư tín dụng do bên vay mở tại các
ngân hàng của nước cung cấp hàng phải được phía cho vay cam kết thanh toán
bằng một thư cam kết ( Commitment Letter)
Thực hiện hình thức này chủ dự án được Bộ Tài chính uỷ nhiệm phối hợp
với Ngân hàng Thương mại phục vụ mình mở các thư tín dụng theo hợp đồng
thương mại đã ký, đồng thời yêu cầu bên cho vay có thư cam kết việc thanh toán
các thư tín dụng đã mở.
c) Qũy tạm ứng ( Imporest Fund) hay còn được gọi là “ Tài khoản đặc biệt”
(Special Account).
Bên cho vay sẽ ứng cho bên vay một khoản tiền ứng trước và có thể được bổ
sung để thực hiện thanh toán cho các hoá đơn xây lắp hoặc hoá đơn cung cấp có
số tiền nhỏ hoặc các chi phí về ngoại tệ liên quan đến dự án vay như tư vấn, đào
tạo , học bổng, vé máy bay, chi phí khác,...
Bộ Tài chính hay chủ dự án do Bộ Tài chính uỷ nhiệm làm thủ tục đề nghị
bên cho vay thực hiện các thủ tục để lập quỹ tạm ứng ( gồm khoản tạm ứng lần
đầu, thủ tục thanh toán và bổ sung tài khoản tạm ứng tiếp sau) và mở một tài khoản
riêng tại ngân hàng để hạch toán ( gọi là tài khoản tạm ứng hay tài khoản đặc biệt)
để nhận tiền tạm ứng ,chi tiêu và quyết toán riêng tài khoản này với bên cho vay .
2.2 Các thủ tục, chứng từ để thực hiện việc giải ngân.
Chủ dự án ngoài việc làm đơn xin rút vốn vay phải gửi kèm các chứng từ có
liên quan đến việc thanh toán bằng vốn vay phù hợp với quy định của hợp đồng
vay đã ký. Các chứng từ thường được gửi kèm với đơn xin rút vốn cho bên vay là:
- Hợp đồng thương mại .
- Hoá đơn hàng hoá hoặc hoá đơn tư vấn hoặc báo cáo tổng hợp khối lượng
công việc đã hoàn thành do cơ quan giám định có thẩm quyền cấp .
Vận tải đơn hoặc phiếu gửi hàng.
Chứng từ đã thanh toán ( trong trường hợp phương thức hoàn vốn ) có thể là
hoá đơn đã nhận hàng hoặc báo cáo thanh toán của ngân hàng phục vụ bên vay.
- Bảo đảm thực hiện hợp đồng ( Performance Security) bảo lãnh của ngân
hàng ( trong trường hợp thanh toán ứng trước ).
II./ CƠ CHẾ QUẢN LÝ CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC KHOẢN VAY NỢ
NƯỚC NGOÀI CỦA CHÍNH PHỦ.
Theo nghị định 58/CP ngày 30/8/1998, việc quản lý các khoản vay nợ nước
ngoài của Chính phủ được giao cho Bộ Tài chính có trách nhiệm phối hợp với các
Bộ, ngành liên quan xây dựng hạn mức trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Mọi
nguồn vốn vay đều phải nộp vào Ngân sách Nhà nước, Bộ Tài chính có trách
nhiệm bố trí ngân sách hàng năm để trả nợ, trả phí, lãi đến hạn.
Tuy nhiên, do đặc điểm của vay nợ nước ngoài (bằng ngoại tệ, bằng hàng
hóa) cũng như vai trò của Ngân hàng Nhà nước với tư cách đại diện Chính phủ tại
các Tổ chức cho vay(IMF, WB, ADB...) có ảnh hưởng, liên quan trực tiếp tới
nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối, tỷ giá..., Chính phủ đã
xác định Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm tham gia quản lý và sử dụng các
khoản vay nợ nước ngoài của Chính phủ cùng với Bộ Tài chính như đã được đề
cập trong thông tư liên bộ số 09/ NH-TC ngày 30/5/1999. Theo thông tư này, Ngân
hàng Nhà nước là người đại diện Chính phủ Việt Nam nhận nợ trước các Tổ chức
cho vay thông qua tài khoản vay đứng tên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
1./ Cơ chế rút vốn các khoản vay của Chính phủ
Để phù hợp với thông lệ quốc tế, việc rút vốn vay nước ngoài (thuộc các
khoản vay của Chính phủ) cũng được thực hiện theo những phương thức khác nhau
tuỳ thuộc vào đặc điểm của các hợp đồng giao dịch hay từng giao dịch thanh toán:
(I) Thủ tục tạm ứng /tài khoản đặc biệt ; (ii) Thủ tục thanh toán trực tiếp; (iii) Thủ
tục phát hành thư cam kết ; (iv) Thủ tục hoàn vốn .
Việc rút vốn vay phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản như : Số tiền rút ra
từ tài khoản vay phải được sử dụng cho những mục đích đã đề ra trong hiệp định
vay, có lưu ý đến tính hiệu quả và tiết kiệm ; Nước đI vay phải được sự chấp thuận
của bên cho vay để rút vốn thanh toán cho những chi tiêu liên quan đến dự án khi
chúng thực sự phát sinh .
Tuy nhiên, ở đây chúng ta không đề cập tới khái niệm về các thủ tục mà đI
sâu xem xét việc áp dụng những thể thức này và các điều kiện để rút vốn hiện đang
được áp dụng theo quy định trong thông tư liên bộ số 09 / NH-TC . Theo quy định
này, trong 4 thể thức rút vốn thì Ngân hàng Nhà nước trực tiếp quản lý các khoản
rút vốn bằng tiền (thể thức tạm ứng) .Các thể thức còn lại do Bộ Tài chính, Ngân
hàng Thương mại hoặc chủ dự án trực tiếp rút.
2.1 Thể thức Ngân hàng Nhà nước trực tiếp quản lý: Thể thức tạm ứng/ đặc
biệt.
Với phương thức này bên vay có thể rút vốn làm nhiều lần: rút vốn lần đầu
về tài khoản tạm ứng và những lần rút vốn bổ sung tài khoản tạm ứng
* Rút vốn lần đầu về tài khoản tạm ứng
Căn cứ vào hạn mức tài khoản tạm ứng đã quy định trong Hiệp định vay
hoặc dự kiến chi tiêu từ tài khoản tạm ứng trong một khoảng thời gian nào đó
(thường là 6 tháng), chủ đầu tư chuẩn bị các thủ tục, điều kiện rút vốn sau đó lập
hồ sơ rút vốn ( theo quy định của Tổ chức Tài chính Quốc tế)
Hồ sơ rút vốn bao gồm:
- Công văn đề nghị rút vốn về tài khoản tạm ứng.
- Đơn rút vốn (theo mẫu).
- Dự kiến chi tiêu từ tài khoản tạm ứng (nếu không rút theo hạn mức)
Đơn rút vốn này chủ dự án không ký mà được gửi tới Bộ Tài chính. Bộ Tài
chính có trách nhiệm kiểm tra xem xét đảm bảo đúng quy định của tổ chức cho vay
và nếu đơn rút vốn được chấp thuận, Bộ Tài chính sẽ có công văn gửi Ngân hàng
Nhà nước và đề nghị Ngân hàng Nhà nước ký trên đơn rút vốn. Khi nhận được
công văn đề nghị rút vốn về tài khoản tạm ứng của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà
nước phải kiểm tra lại tính đúng đắn, sự phù hợp với quy định, nếu thoả mãn,
Ngân hàng Nhà nước sẽ trực tiếp ký và gửi hồ sơ rút vốn tới Tổ chức cho vay.
Khi tổ chức cho vay chấp nhận giải ngân thì việc giải ngân sẽ được thông
qua tài khoản ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước tại nước ngoài (thường là tại
Cục dự trữ liên bang Mỹ - State Bank of Việt Nam with Federal Reserve of
NewYork, USA). Cụ thể là khi tổ chức tài chính chấp nhận cho vay, Cục dự trữ
trích tiền từ tài khoản tiền gửi của tổ chức chovay chuyển vào tài khoản tiền gửi
ngoại tệ của Việt Nam - ghi có cho Tài khoản tiền gửi ngoại tệ đứng tên Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam. Đồng thời tại đơn vị hạch toán của tổ chức cho vay, Tài
khoản tiền gửi đứng tên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được ghi nợ ( Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam nhận nợ thay Chính phủ Việt Nam một khoản ).
Khi nhận được báo có của Cục dự trữ liên bang, Ngân hàng Nhà nước xuất
ngoại tệ từ Tài khoản tạm ứng sang Tài khoản dự án tại Ngân hàng Thương mại
phục vụ. Ngân hàng Thương mại phục vụ tiến hành chuyển từ ngoại tệ sang nội tệ
để chuyển cho chủ dự án.
* Rút vốn bổ sung tài khoản tạm ứng: Thực hiện trên cơ sở bổ sung các
khoản đã thực chi tiêu. Việc bổ sung tài khoản tạm ứng được tiến hành thường
xuyên để duy trì một khối lượng tiền định mức trong tài khoản tạm ứng . Điều này
có nghĩa là giả sử định mức trong tài khoản tạm ứng là 5 triệu USD. Do chi tiêu
cho công việc hết một triệu , chủ dự án làm đơn rút vốn bổ sung 1 triệu USD để
duy 5 triệu USD định mức trên tài khoản tạm ứng. Tuy nhiên tới cuối thời hạn rút
vốn thì lượng tiền định mức này giảm dần và khi hết thời hạn rút thì lượng định
mức này bằng không ( rút hết vốn của dự án ).
Thủ tục cụ thể như sau:
Chủ đầu tư lập hồ sơ xin rút vốn bổ sung tài khoản tạm ứng (ADB) / đặc biệt
(WB) chuyển tới Bộ Tài chính .
Hồ sơ gồm có :
- Công văn đề nghị rút vốn
- Đơn rút vốn (theo mẫu)
- Bảng sao kê chi tiêu
- Sao kê tài khoản dự án tại Ngân hàng Thương mại phục vụ
- Các chứng từ kèm theo chứng minh các khoản chi tiêu là hợp lệ.
Tiếp đó Bộ Tài chính xem xét hồ sơ xin rút vốn bổ sung tài khoản tạm ứng
gửi Ngân hàng Nhà nước. Nhận được văn bản này Ngân hàng Nhà nước tiến hành
các nghiệp vụ như đối với trường hợp rút vốn lần đầu vào tài khoản tạm ứng.
2.2 Thể thức Ngân hàng Nhà nước không trực tiếp quản lý.
a) Thể thức trực tiếp.
Người cung cấp phải hoàn thành hợp đồng hoặc từng hạng mục hợp đồng,
gửi đề nghị thanh toán kèm theo các chứng từ cần thiết cho chủ đầu tư.
Chủ đầu tư nhận được chứng từ trên phải lập hồ sơ xin rút vốn gửi tới Bộ
Tài chính.
Hồ sơ gồm có :
- Công văn đề nghị rút vốn thanh toán cho nhà cung cấp.
- Đơn rút vốn (theo mẫu)