CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG
KIỂM SOÁT NỘI BỘ
I. HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ.
1.1. Khái niệm về kiểm soát nội bộ (KSNB):
Kiểm tra,kiểm soát luôn là một chức năng quan trọng của quản lý và được
thực hiện bởi một công cụ chính yếu là hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. Việc
xác lập và duy trì một hệ thống kế toán thích hợp, kết hợp với quy chế kiểm soát
nội bộ khác để mở rộng kinh doanh và mở rộng loại hình kinh doanh thuộc trách
nhiệm quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Các nhà quản lý cần cung cấp
cho các cổ đông( hoặc Chính phủ) một sự bảo đảm thích hợp về công việc kinh
doanh được kiểm soát chính đáng. Đồng thời, bộ phận quản lý còn có trách nhiệm
cung cấp cho các cổ đông, Chính phủ và những người đầu tư tiềm tàng(ngân hàng,
chủ đầu tư, người liên doanh…) những thông tin tài chính trên cơ sở hợp thời. Một
hệ thống bao gồm rất nhiều chế độ và thể thức đặc thù được thiết kế để cung cấp
cho các nhà quản lý sự bảo đảm hợp lý là các mục tiêu và mục đích quan trọng đối
với doanh nghiệp. Những chế độ và thể thức này được gọi là các quá trình kiểm
soát, và kết hợp lại hình thành nên cơ cấu kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Như vậy hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ các chính sách, các thủ tục
kiểm soát do đơn vị thiết lập và duy trì nhằm điều hành toàn bộ các hoạt động của
đơn vị đảm bảo các mục tiêu sau:
- Bảo vệ tài sản và sổ sách kế toán.
- Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin.
- Bảo đảm duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp lý, các chính
sách có liên quan đến hoạt động của đơn vị.
- Bảo đảm hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý.
Cụ thể là :
* Bảo vệ tài sản và sổ sách kế toán.
Tài sản của đơn vị hiểu theo nghĩa rộng bao gồm:
- Các tài sản ghi trên bảng cân đối kế toán( tài sản cố định, hàng tồn kho, tiền
mặt, tiền gửi, các khoản đầu tư ngắn hạn, dài hạn, các khoản công nợ phải thu..).
- Các tài sản phi vật chất không có hình thái cụ thể nhưng có vai trò quan
trọng, tích cực trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của đơn vị như uy tín
doanh nghiệp, số lượng và quan hệ khách hàng, lợi thế thương mại, bầu không khí
làm việc, quan hệ công tác, quan hệ trong bộ máy lãnh đạo, giữa lãnh đạo với cán
bộ công nhân viên, chính sách thống nhất trong công tác điều hành…
Tài sản vật chất của đơn vị có thể bị trộm cắp, lạm dụng hoặc bị hư hại tình
cờ nếu không được bảo vệ bởi các hệ thống kiểm soát thích hợp. Điều này cũng
đúng đối với tài sản phi vật chất như các khoản công nợ phải thu, các tài liệu quan
trọng và sổ sách. Các thủ tục, quy trình, nghiệp vụ và nội quy bảo vệ phải dự kiến
các phương tiện bảo vệ vật chất chống lại mất mát, hư hao, ăn cắp, lãng phí… Các
phương tiện hoặc biện pháp này sẽ bảo vệ trực tiếp hoặc gián tiếp các tài sản vật
chất như hàng tồn kho, thiết bị, tiền… Các tài sản vô hình cần được bảo vệ và giữ
gìn bằng các biện pháp tổ chức, quy chế va những biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ.
* Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin.
Thông tin kinh tế tài chính do kế toán tổng hợp xử lý và trình bày là căn cứ
quan trọng cho việc hình thành và lựa chọn các quyết định kinh tế của các nhà
quản lý. Nhà quản lý phải có các thông tin chính xác để điều hành các mặt của hoạt
động kinh doanh. Một lượng lớn thông tin được sử dụng để đề ra các quyết định
kinh doanh then chốt, do vậy thông tin phải bảo đảm không được lạm dụng và sử
dụng sai mục đích. Các thông tin được cung cấp phải bảo đảm:
- Độ tin cậy của các tài liệu tài chính, kế toán do bộ phận kế toán chuẩn bị, do
Giám đốc ký duyệt hoặc báo cáo với Ban Giám đốc, với Hội đồng Quản trị.
- Tính thích đáng, phù hợp của các thông tin tài chính, kế toán. Các thông tin
này phải phản ánh đầy đủ, đúng và khách quan các nội dung chủ yếu của hoạt động
kinh tế.
* Bảo đảm duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các quy định pháp lý, các chính
sách có liên quan đến hoạt động của đơn vị.
Nhà quản trị xây dựng các thể thức và nguyên tắc để thoả mãn các mục tiêu
của Doanh nghiệp. Cơ cấu kiểm soát nội bộ được thiết kế để mang lại sự bảo đảm
chắc chắn các quyết định và chế độ quản lý được thực hiện đúng thể thức, đồng
thời giám sát mức hiệu quả của các chế độ và các thể thức đó. Nhân viên trong
công ty phải tuân thủ các chính sách, quyết định nội bộ, cụ thể là:
- Phát hiện kịp thời những rắc rối trong kinh doanh để hoạch định và thực hiện
các biện pháp đối phó.
- Ngăn chặn, phát hiện các sai phạm và các gian lận trong kinh doanh.
- Ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác và đúng thể thức về các nghiệp vụ của
hoạt động kinh doanh.
- Lập các báo cáo tài chính kịp thời, hợp lệ và tuân theo các yêu cầu pháp định
có liên quan.
* Bảo đảm hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý.
Các quá trình kiểm soát trong mọi tổ chức nhằm ngăn ngừa sự lặp lại không
cần thiết các nỗ lực và sự lãng phí trong mọi lĩnh vực kinh doanh, nhằm ngăn cản
việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tiềm năng. Định kỳ, nhà quản lý đánh giá kết
quả hoạt động để nâng cao hiệu năng quản lý, đảm bảo cơ cấu bộ máy đơn vị có đủ
năng lực điều khiển, chỉ huy đơn vị.
* Các mục tiêu chi tiết và nguyên tắc của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Đối với bất kỳ loại hình nghiệp vụ kinh tế nào trong một doanh nghiệp đều
có thể xảy ra một vài loại sai sót của quá trình ghi sổ. Có bảy mục tiêu mà một cấu
trúc kiểm soát nội bộ phải thoả mãn để ngăn ngừa các sai sót như vậy.
Cụ thể là:
STT CÁC MỤC TIÊU CHI TIẾT CỦA HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
1 Các nghiệp vụ kinh tế phải có căn cứ hợp lý( tính có căn cứ hợp lý).
2 Các nghiệp vụ kinh tế phải được phê chuẩn đúng đắn( mục tiêu về sự phê chuẩn).
3 Các nghiệp vụ kinh tế phải được ghi sổ một cách đầy đủ( mục tiêu về tính đầy đủ).
4 Các nghiệp vụ kinh tế phải được đánh giá đúng đắn( mục tiêu về sự đánh giá).
5 Các nghiệp vụ kinh tế phải được phân loại đúng đắn( mục tiêu về sự phân loại).
6 Các nghiệp vụ kinh tế phải được phản ánh đúng hạn( mục tiêu về tính đúng kỳ).
7 Các nghiệp vụ kinh tế phải được ghi đúng đắn vào sổ phụ và được tổng hợp chính
xác( mục tiêu về tính chính xác cơ học).
Bảy mục tiêu trên được áp dụng cụ thể cho từng nghiệp vụ trọng yếu trong
cuộc kiểm toán.
Cùng với mục tiêu trên, hệ thống kiểm soát nội bộ phải đảm bảo thực hiện
các nguyên tắc sau:
STT CÁC NGUYÊN TẮC TRONG KIỂM TRA, KIỂM SOÁT NỘI BỘ
1 Nguyên tắc phân công phân nhiệm
2 Nguyên tắc bất kiêm nhiệm
3 Nguyên tắc uỷ quyền phê chuẩn
Tóm lại, kiểm tra- kiểm soát là những hệ thống có chức năng xác minh, đánh
giá, nhận xét về đối tượng kiểm tra- kiểm soát. Hoạt động kiểm tra kiểm soát nảy
sinh và phát triển từ chính nhu cầu của quản lý. Các yếu tố của hệ thống kiểm tra-
kiểm soát bao gồm tất cả các yếu tố đối chiếu, xem xét, xác minh đối tượng của
quản lý. Tổ chức kiểm tra- kiểm soát thể hiện cả tính khoa học và tính nghiệp vụ kỹ
thuật về việc thực hiện các chiến lược và bước đi cụ thể trong hoạch định chính
sách và tổ chức bộ máy kiểm tra- kiểm soát ở cả tầm vĩ mô và vi mô của nền kinh tế.
1.2. Các nội dung của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Hệ thống kiểm soát nội bộ trong một doanh nghiệp thường được xem gồm 4
yếu tố cấu thành nên, đó là:
(1)
Môi trường kiểm soát
(2)
Hệ thống kế toán
(3)
Hoạt
động kiểm soát
(4)
Giám sát độc lập hoạt động kiểm soát.
Môi trường kiểm soát (MTKS): Là thái độ, khả năng, sự nhận biết và các hoạt
động của người quản lý, các chính sách, thủ tục kiểm soát, tính trung thực và giá trị
đạo đức, cơ cấu tổ chức, sự phân công trách nhiệm, phân chia quyền lực, chính
sách về nhân sự. MTKS là thành phần quan trọng nhất trong bốn thành phần của hệ
thống KSNB, nếu thiếu MTKS hữu hiệu thì chắc chắn hệ thống KSNB sẽ không có
hiệu quả, kể cả khi ba thành phần khác của hệ thống KSNB có chất lượng tốt. Hiệu
quả của hệ thống KSNB luôn phụ thuộc vào quan điểm của người quản lý cao cấp.
Nếu người quản lý cao nhất coi trọng công việc kiểm toán thì các nhân viên trong
đơn vị sẽ tuân thủ nghiêm túc và thận trọng quy chế quản lý của đơn vị đã được
xây dựng và ngược lại. Do vậy kết quả đánh gía về MTKS nói chung và quan điểm
của người lãnh đạo nói riêng có ảnh hưởng lớn đến đánh gía toàn bộ hệ thống
KSNB. KTV phải nhận biết được từng nội dung, yếu tố của MTKS được thiết lập
và thực hiện theo các phương pháp sau:
Cập nhật và đánh giá đúng mức tài liệu ( báo cáo khảo sát, báo cáo kiểm
toán ) và kinh nghiệm của các KTV đã thực hiện kiểm toán trước đó. Bởi vì hệ
thống và công việc kiểm soát thường không thay đổi liên tục, thông tin này có thể
được cập nhật và được áp dụng phù hợp cho công việc kiểm toán những năm tiếp
theo.
Tiến hành trao đổi, phỏng vấn người quản lý cấp cao và các nhân viên quản
lý của đơn vị được kiểm toán về các nội dung của KSNB. Nội dung trao đổi cần
được chuẩn bị chu đáo, có thể dưới dạng các nội dung hoặc bằng câu hỏi trả lời
“có”, “không”, “hoặc không sử dụng”. Cần đặc biệt chú ý đến các nội dung:
- Đối với thái độ của người quản lý: Thể hiện bởi quá trình đào tạo và việc
nắm bắt các nội dung kiểm soát. nếu những người quản lý cao cấp được đào tạo
chính quy, đúng chuyên ngành, kết quả phỏng vấn cho thấy họ hiều biết công việc
kiểm soát cùng với hệ thống chính sách thủ tục kiểm soát được ban hành đầy đủ,
đó là biểu hiện của người quản lý có năng lực, quan tâm và coi trọng công tác kiểm
soát thì hệ thống KSNB hoạt động có hiệu quả.
- Tính trung thực và giá trị đạo đức: Thông qua việc đối chiếu kết quả trao
đổi với người quản lý cấp cao và kết quả trao đổi với các nhân viên kết hợp những
xem xét, quan sát khác để đánh giá tính trung thực và đạo đức của người lãnh đạo
đơn vi. Đây là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến hành vi ứng xử, tính trung thực
của nhân viên trong công việc và độ tin cậy của các thông tin thu thập được cũng
như độ tin cậy của hệ thống KSNB và báo cáo tài chính.
- Chính sách về nhân sự: Một chính sách đối đãi, thăng chức và đào tạo tốt
sẽ đảm bảo cho các hoạt động kiểm soát được thực hiện nghiêm túc và có hiệu lực.
- Thu thập, nghiên cứu các tài liệu, ghi chép có liên quan đến MTKS : gồm
các chính sách, quy chế, thủ tục về KSNB được thiết lập: như quy định về quy
trình, thủ tục, quan hệ giữa các bộ phận trong quản lý thu chi, sử dụng và bảo quản
tài sản... Một hệ thống các chính sách, quy chế, thủ tục về KSNB đầy đủ là biều
hiện của một MTKS có hiệu lực.
Quan sát: KTV có thể lựa chọn một số công việc kiểm soát xuyên suốt mọi
hoạt động của đơn vụ để quan sát thực tế, ví dụ: nghiệp vụ mua vật tư, từ khi lập kế
hoạch, phê duyệt, thực hiện, thủ tục kiểm tra chất lượng hàng nhập kho, bảo quản
và xuất dùng.
Tổng hợp kết quả của bốn phương pháp trên sẽ cho phép KTV sự hiều biết
đầy đủ về MTKS nội bộ của đơn vị được kiểm toán.
Hệ thống kế toán: Thực hiện nghiêm túc công tác kế toán đó chính là một
trong những điều kiện phát huy được tác dụng tự kiểm tra của kế toán. Nghiên cứu
hệ thống kế toán cần xem xét việc chấp hành quy định của Nhà nước ở các nội
dung: chứng từ kế toán, tài khoản kế toán, sổ kế toán, báo cáo kế toán và quá trình
kiểm tra kế toán. Tương tự như phương pháp để nhận biết môi trường kiểm soát.
Tuỳ điều kiện cụ thể KTV có thể sử dụng một số hoặc tất cả phương pháp đã nêu ở
trên để xem xết, xác định:
(1)
các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu của đơn vị;
(2)
các nghiệp
vụ về kinh tế này được bắt đầu như thế nào;
(3)
hiện được ghi vào những sổ sách kế
toán nào và bản chất của chúng là gì;
(4)
các nghiệp vụ kinh tế được xử lý như thế
nào từ khi bắt đầu cho đến khi hoàn thành;
(5)
quá trình lập các báo cáo của kế toán.
Thông thường việc nghiên cứu này được thực hiện bằng cách theo dõi một số
nghiệp vụ kinh tế chủ yếu xuyên suốt hoạt động của đơn vị. Bằng chứng thu thập
được từ việc tìm hiểu nghiên cứu tài liệu sẽ có độ tin cậy cao.
Hoạt động kiểm soát: Hoạt động kiểm soát là những chính sách và thủ tục để
đảm bảo những hoạt động cần thiết sẽ được thiết lập và thực hiện nhằm đạt đựơc
các kế hoạch, mục tiêu đã đề ra. Có ba loại hoạt động kiểm soát cơ bản sau:
(1)
Sự
cách ly thích hợp về trách nhiệm,
(2)
sự phân chia quyền lực đúng dắn trong quản lý
và hoạt động,
(3)
bảo quản tài sản tài liệu, sổ sách và giữ bí mật các thông tin.
Sự cách ly thích hợp về trách nhiệm (trước đây ta thường gọi là bất năng
kiêm nhiệm) là việc phân chia nhiệm vụ đảm bảo tách rời việc thực hiện những
công việc mà nếu cùng một người làm dễ xảy ra những sai sót và gian lận vì mưu
lợi cá nhân.
+ Cách ly việc bảo quản tài sản với kế toán, như thủ quỹ phải tách rời kế
toán thanh toán.
+ Cách ly quyền phê chuẩn các nghiệp vụ với việc bảo quản tài sản có liên
quan. Ví dụ kế toán trưởng phải tách rời việc giữ kho hàng hoá.
+ Cách ly trách nhiệm điều hành với trách nhiệm ghi sổ như: quá trình ghi sổ
tại các phân xưởng thường giao cho một bộ phận riêng biệt thuộc quyền kế toán
trưởng.
- Sự phân chia quyền lực đúng đắn trong quản lý và hoạt động: Hoạt động
kiểm soát chỉ có nề nếp khi quyền phê chuẩn các nghiệp cụ kinh tế phải được quy
định rõ ràng. Ví dụ: việc bán hàng phải có bảng giá cố định được niêm yết, quy
định giới hạn đối với nợ của khách hàng...
- Bảo quản tài sản, tài liệu sổ sách và giữ bí mật các thông tin.
Bảo vệ và quản lý tài sản, tài liệu sổ sách sẽ giữ bí mật các thông tin là
những nội dung quan trọng của công việc kiểm soát. Một hệ thống kiểm soát tốt
phải có các nội dung, biện pháp cụ thể để bảo vệ an toàn, quản lý khoa học tài sản
và những ghi chép, như nơi cất trữ an toàn, quy chế về sử dụng...
Giám sát độc lập hoạt động kiểm soát: Là sự xem xét lại cẩn thận và liên tục
hoặc theo giai đoạn ba nội dung trên của hệ thống KSNB . Để hoạt động này có
hiệu quả đòi hỏi nó phải độc lập với các hoạt động kiểm soát. Nhu cầu giám sát
này phát sinh do cơ cấu kiểm soát nội bộ có khuynh hướng thay đổi qua thời gian,
nhân viên có khả năng quên hoặc vô ý không tuân theo các thủ tục kiểm soát, hoặc
trở nên cẩu thả và gian lận trừ khi có người giám sát đánh giá việc thực hiện của
họ. Việc giám sát độc lâp hoạt động đảm bảo công việc kiểm soát đang được tiến
hành theo đúng quy định và có mục đích; có thể hạn chế được rủi ro và thay đổi bổ
sung kịp thời những khiếm khuyết của hệ thống KSNB thích hợp với sự thay đổi
họat động của đơn vị theo điều kiện cụ thể. Đối với những công ty lớn hoạt động
giám sát do phòng kiểm toán nội bộ thực hiện. Việc nhận biết hoạt động kiểm soát
và giám sát độc lập hoạt động kiểm soát có thể sử dụng các phương pháp nhận biết
MTKS đã trình bày ở trên.
Khi đã có được sự hiểu biết về hệ thống KSNB của đơn vị từ các bằng
chứng thu thập được.KTV tiến hành đánh giá những mặt mạnh, yếu kém, hiệu quả
hoạt động và độ tin cậy của hệ thống KSNB . Những yếu kém được nhận ra chính
là sự thiếu hụt hoạt động kiểm soát phù hợp mà có thể dẫn tới sai lệch thông tin có
liên quan trọng báo cáo tài chính. Có bốn bước tiếp cận có thể sử dụng để nhận
thức được những yếu kém quan trọng.
(1)
KTV trước tiên cần phải biết những hình
thức kiểm soát nào đang tồn tại;
(2)
những hoạt động kiểm soát mấu chốt thiếu hụt;
(3)
hậu quả có thể đem lại do thiếu hoạt động kiểm soát quan trọng, mức độ quan
trọng của yếu kém;
(4)
xem xét liệu có các biện pháp bổ sung để bù lại sự yếu kém.
Khi nhận ra được yếu kém của kiểm soát có thể đánh giá rủi ro kiểm tra ở các mức
độ thấp, trung bình, hoặc cao cho từng nội dung kiểm toán. Từ đó có thể xác định
trọng yếu kiểm toán, là nơi rủi ro kiểm soát được đánh gía là cao và các sai sót,
gian lận có nhiều khả năng xảy ra.
Việc nghiên cứu hệ thống KSNB thực hiện tuỳ thuộc vào quy mô của đơn vị
được kiểm toán. Đối với những đơn vị nhỏ, việc thiêt lập một hệ thống KSNB đầy
đủ là tốn kém và không hiệu quả. Do vậy KTV chỉ nên nhận biết một số nội dung
của hệ thống KSNB đủ để xác định báo cáo tài chính có thể kiểm toán được hay
không. Việc thực hiện kiểm toán trên phải dựa cơ sở đánh giá đầy đủ mức độ rủi ro
kiểm soát. Mặt khác, tuỳ vào nội dung và loại hình kiểm toán mà nghiên cứu hệ
thống KSNB ở một mức độ và phương pháp phù hợp. Không nhất thiết phải dùng
cả bốn phương pháp cho mọi trường hợp. Tuy nhiên, đánh giá hệ thống KSNB phải
được thực hiện cả trong giai đoạn khảo sát và tiến hành kiểm toán.
Nghiên cứu đầy đủ hệ thống KSNB của đơn vị được kiểm toán để phục vụ
cho việc xây dựng kế hoạch kiểm toán phù hợp là vấn đề rất khó; song để có một
báo cáo khảo sát và kết quả kiểm toán đảm bảo chất lượng nhất thiết phải thực hiện
tốt công việc này, qua đó mới có thể giúp đơn vị được kiểm toán hoàn thiện công
tác quản lý và nâng cao hiệu quả trong các hoạt động kinh tế.
1.3. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong NHTM ở Việt Nam.
1.3.1.Khái quát về NHTM.
Ngân hàng là một trong những ngân hàng tổ chức tài chính quan trọng nhất
của nền kinh tế. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu
dùng ( cá nhân, hộ gia đình) và vói hầu hết các cơ quan chính quyền điạ phương
( thành phố, tỉnh...).Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương, từ người
bán rau quả cho tới người kinh doanh ô tô, ngân hàng là tổ chức cung cấp tín dụng
cơ bản phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc mua ô tô trưng bày. Khi doanh
nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ
họ thường dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ họ thường
sử dụng séc, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử. Và khi cần thông tin tài chính hay
cần lập kế hoạch tài chính, họ thường tìm đến ngân hàng để nhận được lời tư vấn.
Trên toàn thế giới, ngân hàng là loại hình tổ chức trung gian tài chính cung
cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất. Trong
mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên qua trọng nhất trên thị
trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ cho
các công trình công cộng, từ những hội trường, sân bóng đá cho đến sân bay và
đường cao tốc. Ngân hàng cũng là một trọng tổ chức tài chính cung cấp vốn lưu
động quan trọng nhất cho các doanh nghiệp và trong những năm gần đây, ngân
hàng đã tăng cường mở rộng cho vay dài hạn đổi mới hay mua sắm máy móc thiết
bị mới. Với tất cả những lí do đó và hơn thế nữa, ngân hàng là một trong những tổ
chức trung gian tài chính quan trọng nhất của xã hội.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán- và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tài chính kinh doanh
nào trong nền kinh tế.
1.3.2.Vai trò và chức năng cơ bản của ngân hàng.
Sơ đồ : Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay
Chức năng uỷ thác
Chức năng tín dụng
Chức năng bảo hiểm
Chức năng môi giới
Chức năng ngân hàng đầu tư và bảo lãnh
Ngân hàng hiện đại
Chức năng quản lý tiền mặt
Chức năng lập kế hoạch đầu tư
Chức năng thanh toán
Chức năng tiết kiệm
*) Vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế.
Trong khi nhiều người tin rằng các ngân hàng chỉ đóng một vai trò rất nhỏ
trong nền kinh tế – nhận tiền gửi và cho vay- thì trên thực tế hiện đã phải thực
hiện nhiều vai trò mới để có thực hiện để duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng
nhu cầu của xã hội. các ngân hàng ngày nay có những vai trò cơ bản sau:
Vai trò trung gian: chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình, các
thành phần khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác.
Vai trò thanh toán: thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua
hàng hoá, dịch vụ ( như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới
thanh toán điện tử , kết nối các quĩ và phân phối tiền giấy).
Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất
khả năng thanh toán ( chẳng hạn như phát hành thư tín dụng).
Vai trò đại lý: thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát
hành hoặc chuộc lại chứng khoán( thường được thực hiện tại phòng uỷ thác).
Vai trò thực hiện chính sách: thực hiện chính sách kinh tế của chính phủ, góp
phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
1.3.3. Sự cần thiết của hệ thống kiểm soát nội bộ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Ngân hàng thương mại và những trung gian tài chính, nói chung cũng giống
như những doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường: chúng đều được tổ
chức ra để kinh doanh kiếm lợi cho mình và cho chủ nợ. Để hoạt động kinh doanh
các ngân hàng thương mại phải có vốn và phải bảo toàn, phát triển vốn của mình.
Trong tổng số nguồn vốn của các ngân hàng thương mại , nguồn vốn huy động
chiếm một tỷ trọng lớn, xu hướng hoạt động luôn được mở rộng theo nhiều
hướng : huy động vốn tăng để mở rộng cho vay và đầu tư.
Khác với các doanh nghiệp bình thường, ngân hàng thương mại là một loại
hình doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng
thanh toán, liên quan đến toàn bộ nền kinh tế. Tuy hoạt động ngân hàng hiện nay,
bao gồm nhiều loại nguồn vốn nhưng tựu trung lại đây là loại hình kinh doanh tiền
tệ, tín dụng của một hệ thống trung gian, tài chính đặc biệt quan trọng trong nền
kinh tế, dựa trên cơ sở thu hút tiền của khách hàng (dưới hình thức nhận tiền gửi,
huy động bằng trái phiếu, kỳ phiếu, và đi vay..), với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư và các nguồn vốn thanh toán. như vậy ngân
hàng thương mại tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình thông qua việc, sử
dụng không chỉ bằng nguồn vốn tự có mà chủ yếu bằng nguồn vốn huy động vủa
khách hàng. Nếu ngân hàng thương mại không thu hồi được số nợ vay mà họ đã
cho vay ra, thì không những họ bị mất nguồn vốn tự có của bản thân, mà còn có
nguy cơ không thể hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng. Trong hoạt
động ngân hàng thương mại tổn thất trong kinh doanh là một tất yếu, khó tránh
khỏi. Việc đảm bảo an toàn vốn tiền gửi của khách hàng và đảm bảo an toàn vốn
đầu tư không những được các nhà kinh doanh tiền tệ quan tâm đặc biệt mà còn là
mối quan tâm của toàn xã hội. Vì vậy, yêu cầu đầu tiên đặt ra nhằm đảm bảo hoạt
động bình thường là ngân hàng thương mại phải thường xuyên thu hồi được số
vốn đã cho vay, để duy trì khả năng hoàn trả số tiền đã huy động của khách hàng
và bảo toàn nguồn vốn tự có của bản thân. Sự an toàn vững chắc trong kinh doanh
của ngân hàng thương mại có thể được hiểu là sự đảm bảo an toàn về mặt quyền
lợi của người gửi tiền cũng như đối với chính bản thân ngân hàng.
Ngân hàng Thương mại thường dành riêng một lượng tiền lớn và những
chứng từ có giá để đảm bảo khả năng thanh toán. Lượng tiền này vừa được dùng
làm dự trữ, vừa được dùng để điều chuyển, thanh toán. Phần lớn tài sản của Ngân
hàng là tiền mặt và các giấy tờ có thể giao dịch được. Do tính chất của tài sản nắm
giữ, mà một Ngân hàng rất dễ bị tổn thương khi có gian lận và sai sót. Đặc biệt là
tính chất chuyển đổi cao của tiền mặt, séc và các chứng từ có giá khác do nhân
viên Ngân hàng quản lý… nên các Ngân hàng thương mại cần có các quy trình
hoạt động rõ ràng, phân cấp quản lý và điều hành cụ thể, xác định rõ trách nhiệm
của từng cá nhân và phải xây dựng một cơ cấu kiểm soát nội bộ thích hợp, đủ
mạnh để vừa đảm bảo cho các hoạt động có hiệu quả, vừa tránh gian lận, tham ô,
lợi dụng.
Ngân hàng Thương mại thường tham gia vào các giao dịch lớn, với số lượng
tiền tệ rất lớn nên cần sử dụng phương pháp xử lý dữ liệu trên mạng máy vi tính.
Sự phát triển của hệ thống xử lý dữ liệu điện tử, trên thực tế đã nâng cao rất nhiều
năng lực kiểm soát của ngân hàng nhưng điều này đang làm nảy sinh nhiều loại rủi