Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

NGHIÊN CỨU LAO ĐỘNG TRẺ EM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.13 KB, 14 trang )

NGHIÊN CỨU LAO ĐỘNG TRẺ EM - TỪ GÓC ĐỘ PHƯƠNG PHÁP
2.1 Nghiên cứu tư liệu
Trước khi tiến hành quan sát tham gia để thu thập những thông tin tại địa
bàn nghiên cứu thì việc đầu tiên, trước hết là phải tiến hành thu thập những tài liệu
có liên quan tới vấn đề cần nghiên cứu. Nghiên cứu vấn đề lao động trẻ em theo
thời vụ, tôi đã tự trang bị cho mình những kiến thức, thông tin liên quan đến vấn đề
qua việc khảo sát tư liệu thu nhận được từ các thư viện của các cơ quan, bộ ngành
có liên quan (Thư viện Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, thư viện Quốc gia,
Viện Nghiên cứu gia đình và giới, Viện Xã hội học, Viện Khoa học - Xã hội,
Trung tâm lưu trữ quốc gia…). Ngoài ra, thông tin về vấn đề này còn có thể tìm
thấy tại các trung tâm, tổ chức phi chính phủ như, Tổ chức cứu trợ trẻ em Thuỵ
Điển (Save the Children Sweden), Tổ chức cứu trợ trẻ em Anh (Save the
Children), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc
(UNICEF)…
2.2 Nghiên cứu trường hợp
Như đã nêu trên, trong nghiên cứu này thông tin thu thập chủ yếu qua cách
tiếp cận nghiên cứu trường hợp thực hiện trong khuôn khổ một khoá luận tốt
nghiệp chuyên ngành Nhân học. Hơn nữa, với thời lượng một tháng nghiên cứu
điền dã khó có thể tiến hành nghiên cứu trên diện rộng, quy mô lớn. Mặt khác,
những nghiên cứu về vấn đề lao động trẻ em theo thời vụ cho đến nay vẫn mang
tính khái quát chung mà chưa đi sâu vào những trường hợp cụ thể. Thông thường,
các tác giả chú trọng tìm hiểu ảnh hưởng của lao động thời vụ tới các mối quan hệ
xã hội của trẻ tại địa bàn Hà Nội (nơi các em tới làm việc) mà chưa quan tâm đến
những mối quan hệ của các em tại địa phương. Chính vì thế, dựa trên ba trường
hợp nghiên cứu sâu, tôi muốn tập trung phân tích những tác động của việc tham gia
lao động giúp việc theo thời vụ dẫn đến sự định hình quan niệm sống của các em
cũng như mối quan hệ xã hội ở cộng đồng mà các em sinh sống.
Ngoài ra, tôi lựa chọn nghiên cứu ba trường hợp cụ thể này vì hai lý do
chính sau. Thứ nhất là do tôi có thể tiếp cận thuận lợi hơn với ba trường hợp cụ thể
này thông qua một số mối quan hệ (người môi giới dịch vụ lao động, người quen
tại địa phương). Thứ hai là thông qua người môi giới lao động tôi có thể tự lựa


chọn ba trường hợp cụ thể (trẻ em gái có lứa tuổi dưới 16 tuổi, đang còn đi học tại
thời điểm diễn ra hoạt động lao động thời vụ giúp việc gia đình) . Tuy nhiên, trong
quá trình lựa chọn tôi cũng kết hợp lựa chọn những trường hợp có đặc thù riêng về
hoàn cảnh gia đình. Cụ thể ở đây là ba trường hợp: Hoa (16 tuổi, học lớp 11) - có
đầy đủ bố, mẹ; Hồng (16 tuổi, học lớp 9) - mẹ mất sớm; Lan (15 tuổi, đã nghỉ học)
- bố, mẹ không hoà hợp (bố có vợ bé)
(11)
.
Lựa chọn những trường hợp cụ thể có đặc thù riêng về hoàn cảnh gia đình,
tôi muốn có cái nhìn tổng quan và khoa học về quá trình hình thành và phát triển
nhân cách của trẻ. Khi xem xét về vấn đề này, chúng ta cần xem xét nó trên nền
tảng gia đình của trẻ. Bởi như chúng ta đã biết, gia đình là nền tảng cơ bản hình
thành nên tính cách và có ảnh hưởng lớn tới tâm tư tình cảm của trẻ em. Trong đó,
vai trò của cha mẹ có thể nói là đặc biệt quan trọng. Nhất là vai trò của người mẹ.
Chăm sóc con cái là vai trò cơ bản của phụ nữ ở nông thôn. Trong một nghiên cứu
của Joyce Halliday và Jo Little- được tiến hành ở vùng nông thôn Devon và đi đến
nhận định rằng “…việc chăm sóc con cái chủ yếu (hoặc thậm chí hoàn toàn) là
công việc của phụ nữ” ( Halliday & Little, 2004: tr.113 ). Mặc dù đây chỉ là nghiên
cứu ở một vùng nông thôn của nứơc Anh nhưng khi mang nó xem xét và so sánh
với nông thôn Việt Nam thì nhận xét này phần nào phù hợp. Áp dụng vào ba
trường hợp cụ thể trong nghiên cứu của tôi cho thấy vai trò quan trọng của người
mẹ. Cha của các em thường xuyên vắng nhà, vì thế mọi việngười lớn nhỏ trong gia
đình đều dồn lên đôi vai người mẹ. Thậm chí như trường hợp của Hồng (mẹ mất
sớm), bố thường xuyên vắng nhà nên em vừa phải đảm nhận vai trò của một người
mẹ trong gia đình: chăm sóc em gái (13 tuổi); vừa phải tự lo cho bản thân.
Từ sự khác biệt về hoàn cảnh gia đình đã dẫn đến sự khác nhau trong nhận
thức cá nhân của các em cũng như những đổi thay trong tình cảm, tâm tư của các
em sau thời gian làm việc tại Hà Nội. Hoàn cảnh gia đình tuy chỉ là một trong
những tiêu chí cơ bản để đánh giá sự phát triển ý thức cá nhân của trẻ em nhưng
cũng là một khía cạnh quan trọng cần được xem xét tới.

Khi tôi muốn tìm hiểu ảnh hưởng của hoàn cảnh gia đình tới quyết định ra
Hà Nội làm việc của các em như thế nào? (Trong trường hợp cụ thể với câu hỏi
của tôi có nên ra Hà Nội giúp việc gia đình không?) thì ba đối tượng nghiên cứu
này có cách suy nghĩ, phân tích khác nhau mặc dù cuối cùng tất cả đều đi đến
quyết định ra đi. Như vậy, đối với cùng một vấn đề, những trẻ em có hoàn cảnh gia
đình khác nhau sẽ có những cách tiếp nhận, đánh giá khác nhau.
Trường hợp của Lan, khi quyết định đi giúp việc ở Hà Nội Lan đã nghĩ
rằng: “Nhà vốn đã nghèo mà không thể trông cậy gì ở bố, một mình mẹ xoay sở
nuôi 4 chị em đã khổ rồi thì làm sao mà có tiền cho em học tiếp! Em rất muốn đi
học và giúp đỡ mẹ. Em nghe nói đi làm 10 ngày tết được 350 nghìn thì bằng số tiền
đóng học cả năm của em rồi còn gì…Mà ở nhà cũng chán lắm! Bố mẹ em toàn đánh
nhau thôi!…”
“ Bố không muốn cho em đi làm đâu ! Mẹ em mất lâu rồi, bố hay đi làm xa
nên nhà thường chỉ có 3 anh em. Mà nhà em cũng không phải là nghèo, bố vẫn có
thể nuôi 3 anh em ăn học được nhưng em vẫn muốn đi! Mọi người đi làm ngoài ấy
về bảo là ở Hà Nội sướng lắm! Em muốn đi Hà Nội để xem thế nào lại có thể kiếm
thêm tiền tiêu mà không phải xin bố!”. Đó chính là những suy nghĩ của Hồng trước
khi em đưa ra quyết định đi làm. Những lý do mà Hồng đưa ra thuyết phục bản
thân và mọi người không giống với các lý do của Lan. Sự khác biệt này được quy
định bởi sự khác nhau giữa hoàn cảnh của hai gia đình.
2.3 Tạo dựng quan hệ
Mặc dù có thuận lợi căn bản là được một nhân vật trung gian vốn là người
trong làng, nhưng tôi vẫn phải đối diện với một vài trở ngại trong quá trình tiếp cận
với người dân địa phương. Điều trở ngại lớn nhất là ngay từ đầu, họ đã coi tôi là
người lạ từ Hà Nội tới. Phần lớn trong số họ chưa hiểu rõ về Hà Nội mà chỉ biết
đến qua phim ảnh, sách báo. Vì thế, họ tỏ ra dè dặt, e ngại khi tiếp xúc với tôi.
Thêm nữa, họ cũng ít nhiều bộc lộ vẻ lo lắng, hoài nghi trước tình hình tệ nạn xã
hội ngoài thành phố như: buôn người qua biên giới, ép buộc, lôi kéo các em gái đi
vào con đường nghiện hút, mại dâm…
Sau thời gian tiến hành nghiên cứu, tôi đã thu thập được một số kinh nghiệm

mà những kinh nghiệm này chỉ có thể thu được trên thực địa trong khi tiến hành
quan sát tham gia. Những kinh nghiệm này được tích luỹ dần từng ngày cùng với
sự tiến triển của quá trình nghiên cứu trên thực địa.
Không thể không nhắc đến kinh nghiệm trong ngày đầu tiên tôi tới xã Quảng
Châu. Khi tôi đi bộ lững thững vào làng tới nhà chị Hà (nhân vật trung gian), tôi đi
ngang qua một chợ cóc ven đường. Thấy tôi một người dân nói: “Không biết con
cái nhà ai mà mồm để đâu không chào ai cả ?!”. Với sự cảm nhận của cá nhân tôi
thì đây chính là khó khăn đầu tiên tôi gặp phải trong ngày đầu nơi thực địa. Chính
bài học kinh nghiệm này đã giúp tôi rất nhiều trong việc thiết lập mối quan hệ dân
làng. Ở làng có lệ gặp người lớn tuổi hơn phải chào hỏi lễ phép không kể có quen
hay không. Đấy có lẽ là một trong số những chuẩn mực đạo đức địa phương để xác
định thế nào là một người hiểu biết, có trên có dưới. Tôi nhận thấy sau khi chào hỏi
thì dường như tôi có thể phá vỡ phần nào tảng băng vô hình ngăn cách tôi và người
dân nơi đây. Đó chính là một trong những điều kiện thuận lợi giúp tôi gây dựng
được quan hệ thân thiện với mọi người. Về phía người dân, họ luôn muốn biết tôi
làm gì và với mục đích gì? và tôi có làm điều gì xấu không? Chính vì lẽ đó, thường
xuyên giao tiếp, trao đổi với họ là rất cần thiết. Nó giúp tôi phá bỏ được khoảng
cách “vô hình” giữa một sinh viên đến từ thành phố với người dân quê.
Trong quá trình điền dã, khoảng thời gian để tôi có thể tạo lập các mối mối
quan hệ với từng cá nhân thường khác nhau. Giai đoạn đầu là giai đoạn mà việc
tiếp cận, xây dựng mối quan hệ với những người trong địa phương khó khăn nhất
và tốn nhiều thời gian nhất. Vì sau khi đã sự quen biết nhất định với một vài người
làng thì việc tiếp cận với những người còn cũng trở nên thuận lợi hơn. Ở đây tôi áp
dụng phương pháp quả bóng tuyết, một phương pháp rất phổ biến trong các nghiên
cứu mang tính đặc thù cao.
Ngày đầu tiên đến Quảng Châu, tôi nghỉ tại nhà chị Hà và cũng trong ngày
ấy chị đã giới thiệu tôi với Hoa. Sang ngày thứ hai, tôi tự tiếp cận với gia đình
Hoa. Mặc dù tỏ ra dễ gần, nhưng họ vẫn có chút gì đó e ngại và chưa tin tưởng vào
tôi- một người hoàn toàn xa lạ. Vì họ vẫn chưa hiểu rằng tôi cần gì ở họ và con cái
họ nên cũng không muốn tôi tiếp xúc với con cái họ khi không có mặt họ. Mặ dù

lúc đó phần nào đã có sự bảo đảm từ mối quan hệ cuat chị Hà, người trung gian
nhưng vì những tin đồn về người chuyên đi lừa phụ nữ để bán sang Trung Quốc
khiến họ ban đầu còn e sợ tiếp xúc với tôi. Sau một ngày, tôi đã cố gắng bằng thái
độ, lời nói đã khiến họ bớt vẻ nghi ngờ và tối hôm ấy tôi đã nghỉ lại ở nhà họ.
Khoảng 1 tuần ở Quảng Châu, tôi đã tạo lập được mối quan hệ với nhiều
người trong làng Hạ (Một trong số 6 làng của xã Quảng Châu). Mọi công việc có
thể tiến hành thuận lợi hơn và cũng từ những mối quan hệ ở làng Hạ cộng thêm
người quen giới thiệu, tôi có thể làm quen với những đối tượng cụng cấp tin ở các
làng khác trong khoảng thời gian rút ngắn hơn rất nhiều. Vì lẽ đó, việc tiếp xúc với
người dân địa phương càng về sau càng thuận lợi hơn do có nền tảng từ các mối
quan hệ trước đó.
Một điểm nữa dẫn đến sự khác biệt về khoảng thời gian cần thiết để thiết lập
mối quan hệ với đối tượng cung cấp tin là do sự khác biệt về: lứa tuổi, nhận thức,
tính cách của mỗi người nên việc làm thế nào để có thể tiếp cận được với họ trong
một khoảng thời gian nào đó là không giống nhau. Với những đối tượng là trẻ em,

×