Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ CHÂU Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.9 KB, 29 trang )


CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ CHÂU Á
I. CÁC XU THẾ NỔI BẬT TRÊN THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ CHÂU Á HIỆN
NAY
1. Hệ thống bán lẻ hiện đại dần thay thế các cửa hàng truyền thống
1.1 Thay đổi trong hành vi tiêu dùng của người dân châu Á
Sự phát triển của hệ thống bán lẻ hiện đại xuất phát từ những thay đổi sâu sắc
trong xã hội các quốc gia châu Á.
Thứ nhất, thu nhập trung bình của châu lục này đã tăng lên một cách đáng kể
kéo theo sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu và thượng lưu với số lượng ngày càng lớn.
Thứ hai, và cũng là nguyên nhân quan trọng hơn cả chính là sự thay đổi về vai
trò của người phụ nữ trong xã hội. Nếu những năm đầu của thế kỷ 20, tỷ lệ phụ nữ tham
gia vào lực lượng lao động trên cả châu Á chưa đến 20% thì trong thập kỷ đầu của thế
kỷ 21, số lượng phụ nữ làm việc đã xấp xỉ số lượng nam giới. Ở một số nước Đông Á
như Hàn Quốc, Đài Loan, … trung bình tỷ lệ nữ giới trên nam giới trong lực lượng lao
động là khoảng 91-93/100. Chính vì sự thay đổi mang tính cách mạng đó, xu hướng
tiêu dùng trong xã hội châu Á cũng thay đổi mạnh mẽ. Khi ngày càng nhiều phụ nữ đi
làm, họ có khuynh hướng tiết kiệm thời gian mua sắm và nấu nướng của mình. Do vậy,
những thực phẩm đã qua chế biến ngày càng trở nên phổ biến.
Bên cạnh đó, việc sử dụng rộng rãi của tủ lạnh và các dụng cụ điện tử hiện đại
khác trong gia đình cho phép người dân có thể đi chợ hàng tuần, thay vì hàng ngày như
thời kỳ trước đây. Hơn nữa, do sự phát triển của các phương tiện cá nhân và hệ thống
đường xá, cơ sở hạ tầng được xây dựng và nâng cấp đã tạo điều kiện cho người tiêu
dùng, đặc biệt là phụ nữ có thể lựa chọn mua sắm ở các khu vực xa trung tâm với số
lượng hàng hóa mua sắm lớn hơn nhiều lần.
Theo các bản nghiên cứu thị trường của Nielsen được tiến hành vào năm 2008
và 2009, người dân ở hầu hết các đô thị lớn của các quốc gia châu Á thường đi mua
hàng ở các đại siêu thị trung bình hai đến ba lần/tháng. Mục đích mua sắm của họ
thường phục vụ cho việc dự trữ thực phẩm, mua lương thực sử dụng hàng ngày hay các
đồ dùng, sản phẩm chăm sóc sức khỏe. Theo Nielsen 2009, Hàn Quốc nơi 96% dân cư
thành thị đến siêu thị mua sắm hàng tháng giữ tỷ lệ cao nhất so với các quốc gia châu Á


còn lại.
Một nguyên nhân khác tạo nên sự thay đổi trong thói quen mua sắm của người
châu Á xuất phát từ chính sự điều chỉnh của các mô hình bán lẻ hiện đại. Người châu Á,
khác với người phương Tây, vốn có thói quen sử dụng những thực phẩm tươi sống nên
mô hình bán lẻ truyền thống như chợ từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu trong
cuộc sống của người dân ở đây. Nhận thức được điều đó, các siêu thị và đại siêu thị đã
dần dần giới thiệu và xây dựng các quầy bán hàng tươi sống như thịt gia súc, gia cầm,
rau xanh để đáp ứng thị hiếu tiêu dùng ở châu lục này. Hiện nay, cũng theo Nielsen, tỷ
lệ người dân Trung Quốc mua thực phẩm tươi sống từ chuỗi các đại siêu thị đang đứng
đầu toàn châu Á khi mô hình bán lẻ này được chọn là địa điểm mua sắm thường xuyên
hàng tươi sống cho hơn 60% người dân Trung Quốc hiện đang sinh sống ở các đô
thị(Nielsen 2009).
1.2 Sự xuất hiện và phát triển của các mô hình bán lẻ hiện đại
1.2.1 Lịch sử ra đời của các cửa hàng bán lẻ hiện đại
Tuy thói quen tiêu dùng của người châu Á chỉ thay đổi mạnh từ khoảng nửa sau
thế kỷ 20 nhưng trên thực tế, mô hình các cửa hàng mua sắm hiện đại đã xuất hiện ở
Trung Quốc từ đầu thế kỷ 20. Cửa hiệu mua sắm đầu tiên này được xây dựng theo ý
tưởng của một thương nhân Trung Quốc sống ở Australia. Một số cửa hàng mua sắm
hiện đại như Wing On và Sincere ở Thượng Hải mở cửa từ trước năm 1949 vẫn duy trì
hoạt động đến thời điểm này. Các trung tâm mua sắm hiện đại bắt đầu được xây dựng
với số lượng lớn trên khắp châu lục vào khoảng những năm 1980 và bùng nổ vào
khoảng những năm 1990 của thế kỷ trước.
Số lượng các cửa hàng bán lẻ hiện đại xuất hiện ở châu Á ngày một tăng. Đặc
biệt, cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập, các nền kinh tế châu Á đã và đang
đón nhận những làn sóng đầu tư nước ngoài mạnh mẽ vào khu vực bán lẻ hiện đại.
Trong ba mô hình kinh doanh bán lẻ hiện đại là đại siêu thị, siêu thị và cửa hàng tiện ích
thì mô hình thứ ba được ghi nhận là tăng trưởng mạnh nhất trong những năm vừa qua
và được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong tương lai gần.
1.2.2 Vị trí của hệ thống bán lẻ hiện đại trên thị trường hiện nay
Hệ thống bán lẻ hiện đại ngày một thể hiện ưu thế vượt trội so với hệ thống bán

lẻ truyền thống. Tính đến thời điểm tháng 3 năm 2009, theo Nielsen 2009,số lượng các
cửa hàng bán lẻ hàng tiêu dùng truyền thống trên khắp châu Á chỉ tăng 1% lên khoảng
hơn 12.3 triệu. Số lượng các cửa hàng bán lẻ hiện đại tăng đến 16% trong năm 2009.
Tốc độ tăng trưởng về số lượng chuỗi cửa hàng bán lẻ truyền thống và hiện đại ở một
số quốc gia được thể hiện trong bảng sau:
QUỐC GIA
HỆ THỐNG
BÁN LẺ
TRUYỀN
THỐNG
HỆ THỐNG
BÁN LẺ
HIỆN ĐẠI
Hàn Quốc -10 +7
Đài Loan -9,5 0
Trung Quốc -4 +13
Ấn Độ +5 +18
Singapore -6 +1
Malaysia +3 +5
Bảng II.1: Tốc độ tăng trưởng số lượng các cửa hàng bán lẻ (%) 2007 –
2008Nguồn: Nielsen 2009
Thị phần hệ thống bán lẻ hiện đại giành được cũng không ngừng tăng lên. Tính
đến hết năm 2007, hệ thống bán lẻ hiện đại đã giành thị phần lớn hơn các loại hình bán
lẻ truyền thống. Cụ thể ở một số nước châu Á: ở Hàn Quốc, thị phần của hệ thống bán
lẻ truyền thống giảm xuống từ 15.9% trong năm 2008 xuống chỉ còn 13.9% năm 2009
trong khi đó ở Đài Loan, hệ thống này chỉ nắm giữ hơn 6% thị phần. Biểu đồ sau cho
thấy sự thay đổi về thị phần của hai mô hình bán lẻ truyền thống và hiện đại trên khắp
châu Á nói chung.
Biểu đồ II.1: Thị phần (%) của hệ thống bán lẻ truyền thống và hiện đại ở Châu
Á (trừ Nhật Bản)

Nguồn: Nielsen 2009
2. Sự hiện diện và tầm ảnh hưởng của các tập đoàn bán lẻ hàng đầu Âu Mỹ ngày
càng lớn
2.1 Tình hình mở rộng của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu ra khắp châu Á
Châu Á vươn lên là khu vực phát triển nhanh nhất và năng động nhất thế giới.
Khu vực này ngày càng thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài, đặt biệt là
các nền kinh tế được coi là những con rồng châu Á (Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan,
Hồng Kông). Ngành công nghiệp bán lẻ châu Á trong những năm gần đây luôn phát
triển với tốc độ nhanh hơn tốc độ phát triển trung bình của ngành bán lẻ toàn cầu và thu
hút lượng vốn đầu tư nước ngoài khổng lồ. Thị trường châu Á thực sự chứng kiến sự đổ
bộ của những nhà bán lẻ toàn cầu vào những năm 1980 khi tập đoàn bán lẻ lớn nhất của
Pháp là Carrefour bắt đầu hiện diện ở Đài Loan. Đặc biệt từ khi chính phủ Trung Quốc
bắt đầu nới lỏng những quy định hạn chế đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực thương mại
bán lẻ, thị trường Châu Á liên tục đánh dấu sự có mặt của những đại gia bán lẻ hàng
đầu thế giới. Tính đến thời điểm hiện tại, cả năm tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới(xét
về quy mô doanh số) là: Wal-mart (Hoa Kỳ), Carrefour (Pháp), Tesco (Anh), Metro và
Schwarz (Đức) đều đã hoạt động ở Châu Á.
Vào những năm 90 của thế kỷ 20 và những năm đầu của thế kỷ 21, các nước
Đông Á bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore luôn là những đích
ngắm hấp dẫn nhất đối với các nhà bán lẻ thế giới. Sau sự xuất hiện của Carrefour,
Trung Quốc tiếp tục là điểm đến của Wal-mart và trở thành thị trường chính của tập
đoàn bán lẻ này ở châu Á.
Sang đến những năm đầu của thế kỷ 21, xu hướng đầu tư vào Trung Quốc vẫn
tiếp tục duy trì và phát triển. Bên cạnh đó, các nhà bán lẻ toàn cầu đã bắt đầu chuyển
hướng sang một số thị trường mới nổi khác: các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Ấn
Độ và các nước Đông Nam Á (ASEAN). Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất với
thu nhập quốc dân tính trên đầu người được xếp vào loại cao trên thế giới và các chính
sách thương mại ngày càng được điều chỉnh theo hướng mở cửa đã thu hút một số
lượng không nhỏ các nhà bán lẻ phương Tây, đặc biệt là về lĩnh vực bán lẻ các mặt
hàng tiêu dùng xa xỉ.Các tập đoàn bán lẻ từ châu Âu và Bắc Mỹ cũng ngày càng chú

trọng hơn đến thị trường Đông Nam Á đầy tiềm năng. Khu vực này được coi là một
trong những khu vực năng động nhất trong châu lục và nhanh chóng phục hồi sau
khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới là Wal-mart
hiện đã lên kế hoạch xâm nhập thị trường này trong khoảng thời gian 5 năm tới.
2.2 Lợi thế của các tập đoàn lớn từ Âu, Mỹ
2.2.1 Tài chính
Các tập đoàn bán lẻ lớn nhất của thế giới hiện diện trên thị trường châu Á đều có
lợi thế vượt trội về vốn. Chỉ tính riêng 4 đại gia đứng đầu danh sách 250 nhà bán lẻ toàn
cầu là Wal-mart, Carrefour, Metro và Tesco đã có tổng doanh thu vào khoảng gần 730
tỷ đô la trong năm 2008 với lợi nhuận thuần khoảng 20,6 tỷ đô. Chỉ riêng Wal-mart đã
có doanh thu bán lẻ năm 2008 là hơn 407 tỷ đô la. Trong khi đó, tập đoàn bán lẻ AS
Watson của Hồng Kông là tập đoàn bán lẻ đứng đầu châu Á xét về quy mô doanh số
thu được từ hoạt động bán lẻ cũng chỉ đạt 15 tỷ đô la (Deloitte 2010, tr.13). Bên cạnh
lợi thế vượt trội về mặt tài chính, các tập đoàn bán lẻ toàn cầu này còn sở hữu hàng
chục năm kinh nghiệm hoạt động trên thị trường quốc tế. Đây là điểm mà phần lớn nhà
bán lẻ châu Á chưa có được.
Tài chính và kinh nghiệm là những lợi thế cạnh tranh ban đầu mà những đại gia
bán lẻ trên thế giới sở hữu khi thâm nhập vào thị trường châu Á. Nguồn vốn khổng lồ là
điều kiện ban đầu giúp các tập đoàn bán lẻ này xây dựng các chiến lược thôn tính các
thị trường châu Á. Tiềm lực tài chính hùng hậu cho phép những tập đoàn này có thể xác
định thua lỗ từ 5 đến 7 năm, thậm chí là 10 năm khi bắt đầu hoạt động ở một thị trường
mới. Bên cạnh đó, nguồn vốn khổng lồ giúp các tập đoàn này có thể đầu tư lớn vào các
hoạt động marketing xúc tiến bán hàng, đầu tư cho nguồn nhân lực chất lượng cao do
có khả năng chi trả những mức lương hết sức cạnh tranh và xây dựng các chương trình
chăm sóc khách hàng thực sự hấp dẫn. Nguồn lực tài chính còn cho phép các tập đoàn
bán lẻ này ứng dụng những công nghệ quản lý hàng đầu, tăng hiệu quả hoạt động. Công
nghệ hiện đại chính là lợi thế vượt trội thứ hai giúp các tập đoàn này thành công trên thị
trường châu Á.
2.2.2 Công nghệ
Công nghệ, cùng với kinh nghiệm quản lý tiên tiến chính là bí quyết dẫn đến

thành công của các nhà bán lẻ đến từ châu Âu và Bắc Mỹ khi mở rộng địa bàn hoạt
động sang các quốc gia châu Á. Hầu hết các nhà bán lẻ, đặc biệt trong lĩnh vực kinh
doanh thời trang, đều tiến hành việc thu thập thông tin trực tiếp ngay từ điểm bán hàng.
Thông tin này ngay sau đó sẽ được nhà bán lẻ tổng hợp và xử lý và trao đổi với chính
với những nhà cung cấp sản phẩm. Các kế hoạch sản xuất cũng như xử lý hàng tồn kho
nhanh chóng được xây dựng. CPRF - một hệ thống tân tiến được nhiều nhà bán lẻ
phương Tây lựa chọn, trong đó có công ty thời trang Zara đến từ Tây Ban Nha cho phép
nhà bán lẻ hợp tác với nhà cung ứng đưa ra những dự báo và thử nghiệm tính khả thi
trước khi áp dụng.
Một công nghệ hiện đại khác được nhiều tập đoàn hàng đầu như Wal-mart (Mỹ)
hay Metro (Đức) sử dụng là RFID. Đây là một hệ thống nhận dạng tự động từ xa được
tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới này áp dụng từ năm 2006. Mọi kiện hàng phân phối
đến các trung tâm bán lẻ của Wal-mart trên khắp thế giới đều được gắn một con chip
máy tính siêu nhỏ. Con chip này cho phép truyền tải mọi thông tin về lô hàng và từng
sản phẩm trong lô hàng đến với các máy tính chủ. Việc gắn chip này không tốn nhiều
chi phí, tiết kiệm sức lao động và đặc biệt có thể chống trộm cướp, phát hiện hàng bị hư
hỏng hay những thiếu sót trong quá trình vận chuyển.
Trong công tác quản lý khách hàng, rất nhiều nhà bán lẻ phương Tây đã áp dụng
hệ thống CRM. Hệ thống hiện đại hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp trong việc đưa
ra các chiến lược, chương trình hướng tới đội ngũ khách hàng thân thiết, một nguồn
mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ưu điểm của hệ
thống này là nó thích hợp với mọi loại hình kinh doanh, từ các hàng bán đồ ăn nhanh
bình dân tới các trung tâm thương mại xa xỉ.
Ngoài ra, các tập đoàn bán lẻ toàn cầu liên tục lắp đặt các thiết bị ngay trong các
khu bán hàng của mình để hỗ trợ khách hàng và nhân viên. Ở một số địa điểm bán hàng
tại châu Á, Metro đã lắp đặt những máy scan tinh vi cho phép khách hàng thanh toán
không cần sự có mặt của nhân viên thu ngân và tiết kiệm thời gian chờ đợi trong những
thời điểm quá đông khách đến mua sắm. Sắp tới, tập đoàn bán lẻ lớn nhất của Đức này
đang lên kế hoạch sẽ thử nghiệm hỗ trợ khách hàng trong khi mua sắm bằng cách cung
cấp cho họ một máy tính nhỏ giúp họ nhanh chóng tìm được mặt hàng cần mua và nơi

đặt món hàng đó.
2.3 Sự hiện diện của một số tập đoàn bán lẻ Âu Mỹ lớn nhất tại châu Á
1 Carrefour
Người khổng lồ đến từ Pháp Carrefour là tập đoàn bán lẻ phương Tây đầu tiên
thâm nhập thị trường châu Á. Vào năm 1989, tập đoàn này đã bắt tay với một công ty
cổ phần của Đài Loan là Uni President Enterprises Corporation. Sau khi gặt hái được
những kinh nghiệm từ các hoạt động kinh doanh ở thị trường Đài Loan, Carrefour
nhanh chóng mở rộng phạm vi sang các quốc gia châu Á khác, bao gồm các quốc gia
tiểu vương quốc Ả Rập và một số nước Nam Á như Pakistan(Wikipedia 2010).
Năm 2007 đánh dấu một cột mốc trong lịch sử phát triển của đại gia bán lẻ lớn
thứ hai thế giới này ở châu Á khi tập đoàn cho ra đời 36 đại siêu thị ở châu lục này.
Tính riêng ở Trung Quốc con số đại siêu thị được xây dựng trong năm 2007 đã là 22.
Đây là số lượng lớn chưa từng thấy trong một năm(Wikipedia 2010).
Nhân tố dẫn đến thành công của nhà bán lẻ này khi mở rộng hoạt động sang các
nước khác nói chung và châu Á nói riêng chính là ở cách quản lý linh hoạt và đặc biệt
là việc phân cấp quản lý theo đó cho phép người lãnh đạo trên mỗi thị trường được toàn
quyền ra những quyết định liên quan tới việc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh sao cho
phù hợp với tập quán và truyền thống của từng thị trường cụ thể. Vì vậy, thành công
của Carrefour trên thị trường châu Á theo như quản lý tập đoàn này tổng kết là do họ đã
thích nghi được với tình hình đặc trưng của châu lục. Carrefour theo đuổi chiến lược
kinh doanh với các mô hình bán lẻ vô cùng phong phú, từ các đại siêu thị đến các cửa
hàng tiện ích. Bằng cách đa dạng hóa hệ thống cửa hàng bán lẻ của mình, Carrefour đã
tận dụng được tính kinh tế của chi phí bằng việc chia xẻ chi phí cho các hoạt động hậu
cần, marketing, nghiên cứu,… giữa các mô hình kinh doanh khác nhau.
2 Wal-mart
Tập đoàn bán lẻ có trụ sở đặt tại bang Arkansas(Hoa Kỳ) này là nhà bán lẻ lớn
nhất thế giới với doanh thu hàng năm lên tới 400 tỷ đô la Mỹ. Số lượng lao động làm
việc cho Wal-mart gần 2 triệu người (tính đến hết năm 2008), trong đó có đến 500.000
lao động ở các thị trường ngoài nước Mỹ. Thông qua hơn 2500 cửa hàng của mình ở
nước ngoài, Wal-mart phục vụ cho khoảng hơn 140 triệu khách hàng mỗi tuần(Wal-

mart Corporate 2010).
Trên thị trường châu Á, người khổng lồ này tập trung chính vào hai thị trường là
Nhật Bản và Trung Quốc. Wal-mart bắt đầu kinh doanh trên thị trường quốc gia đông
dân nhất thế giới vào năm 1996. Liên tục sau đó, tập đoàn này mở thêm các cửa hàng
bán lẻ của mình ở Hàn Quốc (1997) và Nhật Bản (2002). Và chỉ sau 10 năm, nhà bán lẻ
này đã có hơn 50 trung tâm bán lẻ (supercenter) chỉ tính trên thị trường Trung
Quốc.Cùng trong năm 2006, Wal-mart đã thành công trong việc mua lại tập đoàn bán lẻ
lớn nhất ở Trung Quốc vào thời điểm đó là Trust-Mart và trở thành nhà bán lẻ số một
trên thị trường này. Các trung tâm bán lẻ của Wal-mart ở Trung Quốc trưng bày và bán
hơn 20.000 chủng loại sản phẩm, bao gồm cả đồ điện tử, thiết bị gia dụng bên cạnh các
loại lương thực, thực phẩm khác(Wal-mart Corporate 2010). Thành công của nhà bán
lẻ trên thị trường có sức mua lớn nhất toàn cầu này là đã biết kết hợp những ưu điểm
của mô hình kinh doanh siêu thị và các khu trung tâm mua sắm. Loại hình trung tâm
bán lẻ của Wal-mart ở Trung Quốc tạo cho khách hàng sự thuận lợi trong việc mua sắm
hàng hóa tiêu dùng hàng ngày cũng như những thiết bị lâu bền sử dụng trong gia đình
chỉ với việc đi đến một địa điểm trong cùng một khoảng thời gian. Các trung tâm bán lẻ
này còn giúp Wal-mart tiết kiệm được chi phí nhân công một cách đáng kể. Thay vì
phải thuê số lượng lao động tương ứng với một siêu thị và một trung tâm mua sắm,
bằng việc thiết lập các trung tâm bán lẻ, số lượng nhân viên chỉ cần một phần hai trong
khi doanh số vẫn được duy trì ngang với việc mở cả hai loại hình kể trên.
Một trong những bí quyết thành công của Wal-mart khi mở rộng hoạt động ra
toàn cầu chính là việc áp dụng công nghệ cao, đặt biệt là RFID như đã phân tích ở trên.
Nhà bán lẻ này đã chọn chính châu Á để thử nghiệm cho tính khả dụng của công nghệ
này và ngay lập tức đã gặt hái được kết quả tốt đẹp. Bên cạnh đó, thành công của Wal-
mart ở châu Á đạt được còn là nhờ vào chiến lược xây dựng niềm tin từ các nhà sản
xuất bằng việc thu hút họ vào các sáng kiến hoạt động quy mô lớn. Nhà bán lẻ này bỏ
rất nhiều công sức lựa chọn một chuỗi những nhà sản xuất và giữ quan hệ lâu bền và tốt
đẹp với họ. Do đó, tập đoàn này luôn đảm bảo nguồn hàng hóa giá rẻ nhất trên thị
trường. Ở thị trường châu Á nơi đa số người dân còn quan tâm nhiều hơn đến giá cả
hàng hóa, lợi thế về giá của Wal-mart gần như không tập đoàn nào có thể cạnh tranh

được.
3 Tesco
Tesco là tập đoàn bán lẻ nằm trong top 5 nhà bán lẻ lớn nhất thế giới năm 2009
dựa trên doanh số bán lẻ đồng thời là nhà bán lẻ lớn nhất ở Anh Quốc.
Tesco bắt đầu xâm nhập thị trường châu Á vào cuối những năm 1980, hiện nay
tập đoàn này đã trở thành một trong những nhà bán lẻ phương Tây lớn nhất trên thị
trường châu lục này, là đối thủ cạnh tranh chính của Carrefour và Walmart. Sự phát
triển của Tesco ở châu Á có thể thấy qua một số biểu đồ sau:
Biểu đồ II.2: Số lượng các cơ sở bán lẻ và doanh thu của Tesco trên thị trường
châu Á 2000-2008
Nguồn: Tesco 2008, tr.17-21
Có thể thấy qua hai biểu đồ trên, quy mô hoạt động kinh doanh của Tesco ở châu
Á không ngừng tăng lên. Tesco hiện đã giành được lợi thế cạnh tranh trên hai thị trường
lớn nhất ở châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ. Để có được thành công trên thị trường
châu Á, Tesco đã theo đuổi chiến lược kinh doanh linh hoạt. Tập đoàn này không chỉ
tập trung vào hình thức đại siêu thị như ở khu vực Tây Âu mà còn đa dạng hóa các mô
hình kinh doanh khác, đặc biệt là các siêu thị, siêu thị nhỏ, cửa hàng tiện ích. Các hệ
thống trung tâm bán lẻ của Tesco như Home plus hay Homever đã trở nên phổ biến cả ở
các thành phố, trung tâm mua sắm mới và về cả vùng nông thôn.
Đặc biệt, sự thành công của Tesco nằm ở chiến lược kinh doanh lấy khách hàng
bản địa là trung tâm, đặc biệt chú ý việc đáp ứng những nhu cầu mới xuất hiện của
người dân châu Á. Điều khác biệt mà tập đoàn này đang cố gắng tạo dựng cho mình là
trở thành nhà bán lẻ đầu tiên phát hiện và tìm cách thỏa mãn thị hiếu khách hàng. Bên
cạnh đó, nhà bán lẻ này cũng ngày một chú trọng hơn vào các hoạt động vì lợi ích cộng
đồng, gây dựng được hình ảnh một công ty nước ngoài kinh doanh có trách nhiệm trên
mỗi thị trường mà Tesco có mặt.
3. Một số công ty bán lẻ gốc Châu Á không ngừng mở rộng phạm vi kinh doanh
vượt khỏi biên giới quốc gia, khu vực
Trong bảng xếp hạng những nhà bán lẻ lớn nhất thế giới hàng năm đều xuất hiện
những tên tuổi của các nhà bán lẻ châu Á. Những nhà bán lẻ châu Á này không những

thành công trong việc giữ vững thị phần trên thị trường nội địa trước sự xâm nhập ngày
càng mạnh mẽ của các tập đoàn Âu Mỹ mà còn ngày càng mở rộng sang các thị trường
trong cùng khu vực, thậm chí sang cả những thị trường vốn là sân nhà của các tập đoàn
hàng đầu thế giới. Một số tên tuổi tiêu biểu có thể kể đến tập đoàn Lotte, Shinsegae của
Hàn Quốc; Dailian, Bailian, Gome Home Aplliance của Trung Quốc;… Trong khuôn
khổ có hạn của một bài khóa luận, tôi xin được đưa ra phân tích hai tập đoàn bán lẻ của
châu Á hiện đang rất thành công và liên tục có mặt trên những bảng xếp hạng những
nhà bán lẻ lớn nhất thế giới: AS Watson và Dairy Farm.
3.1 AS Watson
Chuỗi cửa hàng bán lẻ hàng mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe
Watson là một nhãn hiệu bán lẻ hàng đầu ở châu Á. Tiền thân của chuỗi cửa hàng này
là một cửa hiệu chuyên cung cấp thuốc cho người nghèo ở tỉnh Quảng Đông, Trung
Quốc từ năm 1828. Sau khi trải qua một số thay đổi về mô hình hoạt động và chủ doanh
nghiệp, năm 1871, một loạt hiệu thuốc mang tên Watson ra đời. Hiện nay, chủ sỡ hữu
của hệ thống các cửa hàng bán lẻ Watson là tập đoàn Hutchinson có trụ sở chính ở
Hồng Kông.
Từ năm 2005 đến nay, tập đoàn này đã từng giữ vị trí số 1 trong lĩnh vực bán lẻ
thuốc, mỹ phẩm và các sản phẩm bảo vệ sức khỏe. Theo nghiên cứu của tập đoàn, mỗi
tuần nhà bán lẻ này phục vụ hơn 25 triệu khách hàng trên khắp thế giới. Hiện tập đoàn
này đã hoạt động ở 34 quốc gia với hơn 87.000 lao động. 10 thị trường châu Á của tập
đoàn này bao gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Hồng Kông, Đài Loan, Macau, Thái Lan,
Malaysia, Indonesia, Philipin và Hàn Quốc.Chỉ tính riêng ở Hồng Kông, tính đến hết
năm 2009, Watson đã mở cửa 150 cửa hàng và thuê đến 2000 nhân viên. Kế hoạch
trong 2 năm tới (2010 và 2011), Watson dự định nâng số lượng cửa hàng của mình ở

×