Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Thực trạng phát triển thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng ở VN hiện nay và vấn đề liên kết.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.42 KB, 92 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11/1/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức
thương mại lớn nhất thế giới WTO. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến xa hơn
của nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập với kinh tế thế giới. Hội nhập
với nền kinh tế toàn cầu sẽ tạo cho nền kinh tế Việt Nam có them nhiều điều kiên
thuận lợi để phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội mở rộng thị
trường… nhưng bên cạnh những thuận lợi đó không thể không kể đến những
nguy cơ, những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối đầu khi gia
nhập thị trường lớn. Đó là môi trường cạnh tranh khốc liệt hơn, là nguy cơ mất thị
phần rất lớn vào tay các đối thủ cạnh tranh mới xâm nhập. Trước những nguy cơ
này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải có chiến lược cạnh tranh, phải xây
dựng cho mình những lá chắn mới để tự vệ khi lá chắn “bảo hộ” của nhà nước
dần dần hạ thấp theo cam kết về lộ trình mở cửa thị trường của nhà nước khi gia
nhập WTO.
Một trong những ngành chịu ảnh hưởng lớn nhất của yếu tố hội nhập là
ngành kinh doanh bán lẻ hang tiêu dung Việt Nam. Các doanh nghiệp bán lẻ nội
còn nhiều yếu kém trong quản lý, trong việc cung cấp dịch vụ và nhất là sự hạn
chế về vốn. Những vấn đề này còn tồn tại làm cho các doanh nghiệp bán lẻ hang
tiêu dung Việt Nam ở vào thế yếu trong cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp
bán lẻ đa quốc gia đã từng thành công trên thị trường thế giới. Vì vậy bài toán
nâng cao sức mạnh cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ hang tiêu dung Việt
Nam trong giai đoạn hội nhập đang là một tâm điểm thu hút sự quan tâm lớn của
các cấp, các ngành, các cơ quan, các tổ chức kinh tế nghiên cứu để tìm một lời
giải phù hợp nhằm đưa ra một chiến lược tối ưu giúp các doanh nghiệp bán lẻ
Việt Nam cạnh tranh thành công trong cuộc chiến với các đối thủ lớn đang ở vào
giai đoạn bắt đầu.
Sau một thời gian nghên cứu, tìm hiêu thị trường và thực trạng các doanh
nghiệp bán lẻ hang tiêu dung Việt Nam, nhóm sinh viên chúng tôi xin đưa ra một
1
lời giải cho bài toán nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ
hang tiêu dung Việt Nam đó là :“chiến lược lien kết các doanh nghiệp bán lẻ hang


tiêu dung Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” với mong muốn góp phần sức lực
nhỏ bé của mình để giúp các doanh nghiệp bán lẻ hang tiêu dung Việt Nam tìm ra
một hướng đi phù hợp và canh tranh thành công.
Có được thành quả này chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt
tình của các thầy, các cô trong khoa Quản rị kinh doanh , trường Đại học kinh tế
quốc dân.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Hà Sơn Tùng (giáo viên hướng dẫn)
cùng với sự chỉ bảo tận tình của thầy đã giúp chúng tôi hoàn thành đề tài nghiên
cứu này.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Ngô Kim Thanh với những đóng
góp tích cực giúp chúng tôi hoàn thành đề tài.
Do nhóm sinh viên chúng tôi còn non yếu trong kĩ năng phân tích kinh tế
và hoạch định chiến lược nên đề tài còn nhiều hạn chế. Rất mong được sự góp ý
chân thành của các thầy, các cô để chúng tôi có một công trình nghiên cứu hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
2
Hà Nội tháng 4/ 2008.
Nhóm sinh viên:
Nguyễn Thị Thuý.
Nguyễn Thị Ánh.
Chương I. Những vấn đề lý luận cơ bản về chiến lược liên
kết và bán lẻ hàng tiêu dùng.
I. Khái niệm và đặc điểm của chiến lược liên kết.( theo GT KT&QL Công
nghiệp)
1. Khái niệm và đặc điểm của liên kết kinh tế.
Liên kết kinh tế là một hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan của nền sản
xuất hàng hoá với sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển.Trên thực
tế, những hình thức khác nhau của liên kết kinh tế đã ra đời và tồn tại từ lâu trong
lịch sử phát triển kinh tế. Ngày nay hoạt động liên kết kinh tế tiếp tục phát triển

đa dạng cả về hình thức, nội dung và các chủ thể tham gia.
1.1 Khái niệm liên kết kinh tế.
Liên kết kinh tế là một phạm trù phản ánh mối quan hệ phối hợp hoạt động
kinh tế giữa các chủ thể kinh tế để thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh nhất định.
1.2 Đặc điểm và tính tất yếu của liên kết kinh tế.
1.2.1. Đặc điểm của liên kêt kinh tế.
• Chủ thể của liên kết kinh tế.
Chủ thể của liên kết kinh tế rất đa dạng, tất cả các chủ thể có nhu cầu và khả
năng đều có thể tham gia liên kết kinh tế dưới các hình thức khác nhau. Các chủ
thể này có thể là : Chính phủ, các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần
kinh tế khác nhau, các đơn vị nghiên cứu khoa học và đào tạo,các cá nhân….
• Nội dung của liên kết kinh tế.
3
Nội dung của liên kết kinh tế khá phong phú ở tất cả những khâu của quá trình
tái sản xuất mở rộng như : chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho sản xuất, các khâu của
sản xuất, phục vụ sản xuất,nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ…
Ví dụ: Sự liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất ô tô với các doanh nghiệp
sản xuất phụ kiện.
• Hình thức liên kết kinh tế.
+ Theo mối quan hệ ràng buộc giữa các đối tượng tham gia liên kết có:
- Liên kết không cho ra đời tổ chức mới: thực hiện liên kết theo hợp đồng
liên kết.
- Liên kết có cho ra dời tổ chức mới:
Liên kết lỏng: ( hiệp hội) quyết định những yếu tố lớn, vẫn đảm bảo quyền tự
chủ giữa các doanh nghiệp.
Liên kết chặt: (liên doanh) Một ban lãnh đạo mới ra đời, hạn chế quyền tự chủ
của doanh nghiệp tham gia liên kết.
+ Theo nội dung liên kết:
- Liên kết ngang: Liên kết các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực hoạt động

như: liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất với nhau, liên kết giữa các
doanh nghiệp bán lẻ hàng tiêu dùng với nhau….
- Liên kết dọc: là liên kết giữa các doanh nghiệp ở các khâu sản xuất hoặc
các khâu trong quá trình tái sản xuất mở rộng…, đầu ra của doanh nghiệp
này là đầu vào của doanh nghiệp khác
4
VD: Liên kết giữa các doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ hàng tiêu dùng với nhà
sản xuất; Liên kết giữa nhà sản xuất và người cung ứng đầu vào…
+ Theo phạm vi không gian của hoạt động liên kết:
- Liên kết trong phạm vi không gian hẹp: Khu công nghiệp, địa phương,
vùng lãnh thổ…
- Liên kết trong phạm vi không gian rộng: Quốc gia, khu vực, thế giới.
• Các nguyên tắc cơ bản của liên kết kinh tế.
Liên kết kinh tế được chi phối bởi 3 nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc lợi ích kinh tế cao nhất: Trong nền kinh tế thị trường, doanh
nghiệp có quyền lựa chọn nhiều phương thức hoạt động kinh doanh khác nhau
nhằm đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Các doanh nghiệp chỉ quyết định
tham gia liên kết khi hình thức này mang lại lợi nhuận và lợi ích kinh tế cao nhất
cho họ. Nếu lợi ích không được đảm bảo họ có quyền chấm dứt hoạt động liên
kết.
+ Nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi nghĩa vụ giữa các thành viên tham gia
liên kết: Các bên tham gia liên kết đóng góp nghĩa vụ tài chính và nguồn lực khác
nhau thì phải chịu trách nhiệm về nguồn lực của mình và được hưởng lợi ích
tương ứng với mức độ đóng góp.
+ Nguyên tắc pháp lý độc lập giữa các hoạt động liên kết và các hoạt động
khác: Các doanh nghiệp có thể tham gia nhiều tổ chức liên kết kinh tế khác nhau,
hoặc vừa tham gia liên kết vừa kinh doanh độc lập.
1.2.2. Tính tất yếu khách quan của liên kết kinh tế.
• Đảm bảo tính thống nhất của quá trình tái sản xuất xã hội.
5

Quá trình tái sản xuất xã hội là sự kết hợp của các yếu tố : Sản xuất – lưu
thông - phân phối - tiêu dùng trong mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn
nhau:
Các yếu tố này thúc đẩy nhau cùng phát triền hoặc kìm hãm sự phát triển của
nhau. Nếu nhu cầu tiêu dùng một mặt hàng nào đó tăng lên biểu hiện bằng việc
tăng doanh thu của các hàng bán lẻ hàng tiêu dùng và việc tiêu thụ hàng hoá trở
nên dễ dàng hơn với tốc độ lớn hơn. Kết quả của điều này là việc giảm đi của chỉ
tiêu “số ngày của một vòng quay vốn lưu động”. Bằng phân tích tài chính ta thấy:
Số ngày một vòng quay vốn lưu động giảm đi đồng nghĩa với việc số vòng
quay vốn lưu động tăng lên. Điều này cho thấy việc sản xuất hàng hoá của doanh
Lưu thông
Phân phốiTiêu dùng
Sản xuất
6
Số vòng quay vốn
lưu động
==
360
Số ngày một vòng quay
vốn lưu động.
nghiệp đang được thúc đẩy, nó tăng lên cùng nhịp với sự tăng lên của tiêu dùng
xã hội.
Sự liên kết dọc giữa nhà sản xuất và các hàng bán lẻ hàng tiêu dùng giúp
doanh nghiệp nhạy cảm hơn với sự thay đổi của tiêu dùng và thái độ của người
tiêu dùng từ đó điều tiết sản xuất phù hợp. Sự liên kết này cũng đảm bảo tính
thống nhất trong quá trình tái sản xuất xã hội.
• Tác động của quy luật tích tụ và tập trung vốn.
Mỗi doanh nghiệp độc lập là một tế bào của nền kinh tế nên nó không ngừng
vận động, phát triển dưới sự tác động của các quy luật khách quan trong đó có
quy luật tích luỹ và tập trung hoá.

Quy luật này đảm bảo sự liên kết ngang giữa các doanh nghiệp trong ngành là
phù hợp với khách quan. Liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp trong ngành với
nhau để thúc đẩy tích luỹ vốn, phát huy lợi thế về quy mô từ đó gây sức ép với
các lực lượng cạnh tranh trong ngành: Người cung ứng, khách hàng, sản phẩm
thay thế, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
• Do tác động của quy luật cạnh tranh .
Cạnh tranh là quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường. Liên kết kinh tế là
hoạt động gắn bó mật thiết với cạnh tranh. Các doanh nghiệp phát triển quan hệ
liên kết kinh tế để tăng sức mạnh cạnh tranh thắng lợi với các đối thủ khác trên
thị trường. Cạnh tranh thúc đẩy liên kết kinh tế, liên kết kinh tế lại làm tăng sức
cạnh tranh của các chủ thể. Ngày nay với xu hướng toàn cầu hoá của nền kinh tế,
cạnh tranh trở nên khốc liệt hơn vì thế quan hệ liên kết kinh tế ngày càng được
mở rộng.
• Do tác động của quy luật tối đa hoá lợi nhuận và lợi ích.
7
Một trong 3 nguyên tắc của liên kết kinh tế là “ nguyên tắc lợi ích kinh tế cao
nhất” . Các doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh trên thị trường đều có
mục đích tối đa hoá lợi nhuận dựa trên khả năng vốn có của mình. Liên kết kinh
tế giúp doanh nghiệp bù đắp chỗ yếu, khai thác điểm mạnh của nhau. Liên kết
kinh tế cho phép doanh nghiệp tận dụng được tối đa nguồn lực, nắm bắt kịp thời
các cơ hội kinh doanh, chủ động trước những biến động của thị trường…. Liên
kết kinh tế được tổ chức chặt chẽ từ khâu sản xuất đến tiêu dùng có thể tạo ra một
chuỗi giá trị lớn hơn cho người tiêu dùng, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm.
• Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Những thập kỉ gần đây, cuộc cách mạng khoa học công nghệ có bước phát
triển mới sâu rộng chưa từng có, trực tiếp tác động vào mọi ngành kinh tế quốc
dân. Các doanh nghiệp phải tăng cường liên kết kinh tế để nắm bắt, ứng dụng
nhanh các thành tựu mới của khoa học công nghệ ngày càng phát triển cao, chu
kì nghiên cứu phát minh ngày càng ngắn lại.
• Do nhu cầu hội nhập khu vực và quốc tế.

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của nền kinh tế, cạnh tranh ngày càng khốc
liệt. Sự liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp trong nước nhằm tạo nên một rào
cản gia nhập cao hơn đối với các doanh nghiệp nước ngoài muốn thâm nhập thị
trường. Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế nước ngoài nhằm thu hút vốn đầu tư, phát triển khoa học công
nghệ, khai thác các nguồn lực lợi thế trong nước, tạo thêm việc làm giải quyết các
vấn đề xã hội, học tập kĩ năng quản lý… nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
giúp doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng với tốc độ và hiệu quả cao.
2. Thực chất của chiến lược liên kết cấp doanh nghiệp
8
Thực chất của chiến lược liên kêt là chiến lược tăng trưởng bằng con đường
hội nhập, thường được áp dụng khi doanh nghiệp kinh doanh trong ngành đang
trong giai đoạn phát triển, hoặc khi doanh nghiệp theo đuổi các mục tiêu sau:
• Thâm nhập thị trường mới (khu vực thị trường mới cho sản phẩm cũ, sản
phẩm mới trong thị trường hiện có hoặc thị trường mới…)
• Xác định sức mạnh cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nên lựa chọn
chiến lược liên kết để xây dựng rào cản gia nhập cao hơn gây khó khăn đối
với đối thủ tiềm ẩn.
• Liên kết để cùng nhau khai thác, sử dụng nguồn lực tiết kiệm và hiệu quả
hơn.
• Liên kết để đáp ứng nhu cầu khách hàng tốt hơn, liên kết để cùng phát
triển…..
Chiến lược tăng trưởng bằng hội nhập, liên kết với doanh nghiệp khác rất phù
hợp khi cơ hội sẵn có phù hợp với mục tiêu và chiến lược dài hạn của doanh
nghiệp. Nó cho phép doanh nghiệp củng cố vị thế cạnh tranh trên thị trường và
phát huy được khả năng cũng như nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp.
Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay, khi nền kinh tế đang chuyển sang
kinh tế thị trường với xu hướng hội nhập ngày càng sâu rộng hứa hẹn nhiều thách
thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai gần, sẽ phải đối mặt với
cạnh tranh gay gắt hơn, phải tự mình vươn lên và giành chỗ đứng trên thị trường

vì trong cuộc chiến khốc liệt đó kẻ chiến thắng là kẻ mạnh và là kẻ biết tận dụng
thời cơ. Thế nhưng điểm yếu của các doanh nghiệp Việt nam lại là điểm mạnh
của đối thủ tiềm ẩn thị trường (các doanh nghiệp nước ngoài) :Quy mô nhỏ bé lại
phân tán, vốn nhỏ, kĩ thuật lạc hậu lại lỗi thời, lực lượng lao động chưa đủ trình
độ đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất đại công nghiệp, trình độ quản lý yếu kém,
9
không hiệu quả….Vì vậy nếu các doanh nghiệp này không biết liên kết với nhau
thì khó có thể cạnh tranh nổi với các doanh nghiệp nước ngoài để phát triển kinh
tế Việt nam và kinh doanh quốc tế.
II. Khái niệm và đặc điểm của thị trường bán lẻ.
1. Khái niệm về bán lẻ .
Bán lẻ là tất cả các hoạt động có liên quan đến việc bán hàng hoá hay dịch vụ
trực tiếp cho người tiêu thụ cuối cùng để họ sử dụng cho bản thân chứ không phải
kinh doanh.
2. Các yếu tố cơ bản của thị trường bán lẻ.
2.1. Nhà bán lẻ.
Có nhiều tổ chức, nhà bán buôn, nhà bán lẻ cùng thực hiện các chức năng bán
lẻ hàng tiêu dùng nhưng phần lớn công việc là do các nhà bán lẻ chuyên nghiệp
thực hiện.
Các nhà bán lẻ thuộc đủ mọi quy mô và hình thức và luôn xuất hiện thêm
những kiểu bán lẻ mới. Các chức năng phân phối do các nhà bán lẻ thực hiện có
thể phối hợp theo nhiều cách khác nhau để tạo ra các dạng mới của định chế bán
lẻ. Phân loại nhà bán lẻ:
• Theo số lượng dịch vụ nhà bán lẻ cung cấp có: nhà bán lẻ tự phục vụ, nhà
bán lẻ hàng tiêu dùng cung cấp dịch vụ hạn chế, nhà bán lẻ hàng tiêu dùng
cung cấp dịch vụ đầy đủ.
• Theo số lượng mặt hàng mà nhà bán lẻ bán có:
+ Cửa hàng chuyên doanh: bán những dòng sản phẩm hẹp và chuyên sâu.
10
+ Cửa hàng bách hoá: Bán nhiều sản phẩm khác nhau, mỗi sản phẩm một quầy

riêng.
+ Siêu thị: Là những trung tâm bán lẻ lớn, chi phí thấp, tự phục vụ, doanh số
cao, giá thấp.
+ Cửa hàng tiện dụng: là những cửa hàng nhỏ lẻ, bán một số hàng ít phục vụ
nhu cầu thường xuyên của người tiêu dùng.
• Theo giá bán lẻ có: Cửa hàng chiết khấu (giảm giá), cửa hàng kho, cửa
hàng bán bằng catalog…
• Theo phương pháp hoạt động của nhà bán lẻ: bán lẻ qua cửa hàng và bán lẻ
hàng tiêu dùng không qua cửa hàng (thư, máy bán hàng, điện thoại, qua
internet, bán lẻ hàng tiêu dùng tại nhà…)
• Theo hình thức sở hữu: Cửa hàng bán lẻ độc lập, chuỗi tập đoàn, hợp tác xã
bán lẻ, hợp tác xã tiêu thụ và các đại lý độc quyền kinh tiêu.
• Theo địa điểm quy tụ cửa hàng: Khu kinh doanh trung tâm, trung tâm mua
bán vùng, trung tâm mua bán địa phương, trung tâm mua bán cận ven.
Theo các cách phân chia như trên có thể thấy có rất nhiều loại hình bán lẻ
nhưng trong phạm vi nội dung đề tài chỉ xin xét đến một đối tượng nhà bán lẻ là
“siêu thị” (những nhà bán lẻ có quy mô lớn).
2.2. Khách hàng.
Khách hàng của thị trường bán lẻ là những người mua hàng hoá về để tiêu
dùng cho nhu cầu cá nhân chứ không phải nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời.
Tất nhiên với mỗi nhà bán lẻ khác nhau thì họ xác định những đối tượng
khách hàng mục tiêu hay thị trường mục tiêu là khác nhau, nhưng tựu chung lại ta
11
thấy khách hàng của thị trường bán lẻ mang tính chất quần chúng lớn với những
đặc điểm sau:
• Phân tán.(về nhu cầu trên một mặt hàng với số lần mua….)
• Lượng mua trên mỗi lần mua ít.
• Số lần tham gia thị trường (số lần mua) lớn.
• Số khách hàng lớn, nếu họ có sự liên kết sẽ tạo nên một áp lực cạnh tranh
lớn đối với doanh nghiệp.

2.3. Hàng hoá và dịch vụ.
Đối với thị trường bán lẻ, hàng hoá kinh doanh thường là phục vụ trực tiếp cho
nhu cầu tiêu dùng của khách hàng do những đặc điểm của khách hàng của thị
trường bán lẻ (đã nói ở trên). Do vậy hàng hoá của thị trường bán lẻ thường nhiều
mặt hàng và đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng tương ứng nhiều mức giá.
Ta có thể phân loại hàng hoá của thị trường bán lẻ theo ma trận sau:
mức giá
Hàng hoá đắt tiền,
tiêu dùng nhiều
Hàng hoá đắt tiền,
tiêu dùng trung
bình
Hàng hoá đắt tiền,
tiêu dùng ít
Hàng hoá thông
dụng.
Hàng hoá tiêu dùng
trung bình, mức giá
trung bình.
Hàng hoá ít tiêu
dùng, mức giá trung
bình
Hàng hoá rẻ tiền,
mức tiêu dùng cao
Hàng hoá rẻ tiền,
tiêu dùng bình
thường.
Hàng rẻ tiền, ít tiêu
dùng.
12

Cao
Trung Bình
Thấp
Mô hình 1: 9 nhóm hang hoá tiêu dung.
Dịch vụ: Dịch vụ là yếu tố rất quan trọng đối với thị trường bán lẻ hàng tiêu
dùng, nhiều khi chính dịch vụ là yếu tố tạo ra thế mạnh cạnh tranh của doanh
nghiệp chứ không phải chất lượng sản phẩm. Chất lượng là thuộc tính cố hữu của
sản phẩm, đây là yêu cầu cần phải hoàn thành tốt đối với mọi đối tượng sản phẩm
nếu nó muốn tồn tại và được khách hàng chấp nhận. Bởi vậy, theo đuổi chiến
lược về chất lượng sẽ gặp phải rào cản bắt chước cao và chỉ có thể thực hiên
trong thời gian ngắn.
Riêng đối với nhà bán lẻ hàng tiêu dùng, nhiều khi sản phẩm của họ là những
sản phẩm cùng nguồn gốc, vì thế họ không thể cạnh tranh bằng chất lượng sản
phẩm mà chỉ còn có thể cạnh tranh bằng dịch vụ (phong cách phục vụ, dịch vụ
hậu mãi, bán hàng có quà tặng…).
Minh chứng rõ ràng điều này là hàng bán lẻ nổi tiếng Mc Donand với tuyên
bố sứ mệnh là “bán thời gian cho khách hàng” , khách hàng đến với Mc Donand
luôn được phục vụ trong vòng 9 giây, phong cách phục vụ chuyên nghiệp và thái
độ hoà đồng, tất cả các cửa hàng Mc Donand đều được xây dựng theo kiến trúc
và sắp xếp nội thất theo một phong cách và có sự đồng nhất cao….tất cả những
điều này đã cho Mc Donand một thế mạnh mà khó nhà bán lẻ nào có thể cạnh
tranh được.Mc Donand đã đạt được tốc độ phát triển kỉ lục, cứ mỗi phút trôi qua
ở đâu đó trên thế giới lại có 25 cửa hàng Mc Donand được thành lập.
3. Vai trò của thị trường bán lẻ .
Mô hình 2: cấu trúc các kênh phân phối cho hàng hoá tiêu dùng cá nhân:
13
Mức tiêu
dùng
Cao
Trung bình Thấp

Hàng hoá tiêu dùng cá nhân có 4 con đường để đi từ nhà sản xuất đến người tiêu
dùng thì trong đó có 3 con đường đi qua “Nhà bán lẻ hàng tiêu dùng”.
3.1. Đối với nhà sản xuất.
Từ phân tích trên ta có thể nhận biết được vai trò to lớn của “nhà bán lẻ” đối
với nhà sản xuất. Đó là vai trò cầu nối đưa hàng hoá của nhà sản xuất đến tay
người tiêu dùng.
Xét trên mối quan hệ làm ăn thì có thể nói nhà bán lẻ là một khách hàng lớn,
tiêu thụ một khối lượng sản phẩm không nhỏ của người sản xuất. Không chỉ dừng
lại ở đó nếu biết phát huy mối quan hệ này thì nhà bán lẻ còn là trung tâm thông
14
Nhà sản
xuất
Nhà bán lẻ
Người tiêu
dùng
Nhà sản
xuất
Nhà bán
buôn
Nhà bán lẻ
Người tiêu
dùng
Nhà sản
xuất
Đại lý
Nhà bán
buôn
Nhà bán lẻ
Người tiêu
dùng

Người tiêu
dùng
Nhà sản
xuất
tin hiệu quả giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, dễ dàng hơn để nắm bắt nhu
cầu của người tiêu dùng thay đổi như thế nào, người tiêu dùng đánh giá ra sao về
sản phẩm mình đang cung cấp? Từ đó có định hướng và tìm giải pháp tự hoàn
thiện mình hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng tạo dựng thương hiệu và
mở rộng thị phần.
Nhưng xét trên một khía cạnh khác thì nhà bán lẻ cũng là một đối thủ cạnh
tranh của nhà sản xuất do mâu thuẫn về lợi ích. Một nhà bán lẻ lớn hoặc liên
minh các nhà bán lẻ có thể tạo sức ép lớn đối với người sản xuất.
Tựu chung lại sau tất cả những phân tích trên ta có thể nhận thấy vai trò to
lớn của nhà bán lẻ đối với người sản xuất, đó là sự gắn bó hữu cơ cùng chia sẻ lợi
nhuận trong kinh doanh, đôi khi cũng tạo động lực thúc đẩy, tạo điều kiện phát
triển nhưng đôi khi cũng là cạnh tranh do mâu thuẫn về lợi ích. Nhưng nếu có sự
liên kết phù hợp, giải quyết hài hoà mâu thuẫn về vấn đề lợi ích thì mối quan hệ
này sẽ gắn bó hơn và thúc đẩy nhau cùng phát triển.
3.2. Đối với người tiêu dùng.
Người tiêu dùng là biểu hiện của nhu cầu, là điều kiện của mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh bởi có cầu mới có cung và cung ứng luôn luôn phải tìm cách thích
ứng tốt nhất với sự phát triển, sự thay đổi của nhu cầu.
Người tiêu dùng và hoạt động mua của họ tạo ra lợi ích cho các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh, nên sự thay đổi trong nhu cầu của họ tạo nên những biến động
của sản xuất và kinh doanh hàng hoá và dịch vụ. Người tiêu dùng là yếu tố tạo
động lực.
Người tiêu dùng có vai trò to lớn đối với cả nhà sản xuất và các doanh nghiệp
thương mại (bán buôn, bán lẻ …), nhưng ngược lại sự có mặt của những nhà bán
buôn, bán lẻ cũng có vai trò to lớn đối với người tiêu dùng. Họ là một mắt xích
15

quan trọng trong chuỗi giá trị xuyên suốt từ sản xuất, lưu thông và phân phối tới
tay người tiêu dùng và góp phần làm chuỗi giá trị đó lớn hơn, tạo lợi ích lớn hơn
cho người tiêu dùng.
Nhà bán lẻ là mắt xích trong quá trình phân phối hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng nó tạo ra sự tiện ích của tiêu dùng, nó làm giảm giá trị phải trả của người
tiêu dùng để được thoả mãn cùng một nhu cầu nào đó của họ. Nếu không có phân
phối, không có bán lẻ thì khi người tiêu dùng muốn tiêu dùng hàng hoá phải tìm
đến nhà sản xuất mà chi phí họ phải bỏ ra thường cao hơn rất nhiều so với phần
giá trị tăng thêm của hàng hoá khi qua tay người bán lẻ hàng tiêu dùng. Để nhìn
nhận rõ hơn về vấn đề này ta xét bài toán sau:
Bài toán: 10 người tiêu dùng ở gần nhau cùng có nhu cầu tiêu dùng một loại hàng
hoá X, giá của nhà sản xuất bán ra như sau:
• Mua từ 1 đến 5 đơn vị hàng hoá (đvhh) X thì giá 1USD/ 1đvhh
• Mua từ 5 đến 10 đvhh X thì giá 0.85 USD/ đvhh X.
Biết chi phí để mua 1 đvhh X nếu 10 người tiêu dùng đến tận nhà sản xuất để
mua sản phẩm là 0.1 USD/ người. Chi phí vận chuyển 10 đvhh X là 0.4 USD.
Như vậy nếu muốn tiêu dùng 1 đvhh X thì mỗi người phải trả :
1 + 0.1= 1.1 USD
Giả sử trong khu vực sinh sống của 10 người tiêu dùng ấy có một nhà bán lẻ A
bán lẻ hàng tiêu dùng hàng hóa X. Một đợt nhập hàng của anh ta là ít nhất là 10
đvhh X, như vậy chi phí anh ta bỏ ra để có được 10 đvhh X tại của hàng của mình
là:
0.85 ×10 +0.4 =8.9 USD., hay nhà bán lẻ này mua được hàng hoá X với giá 0.89
USD/ đvhh X.(và có thể nhỏ hơn nếu anh ta mua hàng với số lượng lớn hơn)
16
Giả sử tiêu chuẩn lợi nhuận của anh ta là 0.08 USD/ đvsp X, mỗi người tiêu dùng
phải bỏ chi phí là 0.05 USD để đến của hàng của anh ta mua 1đvhh X thì mỗi
người tiêu dùng chỉ phải trả : 0.89 +0.08 +0.05 = 1.02 USD.
Như vậy nhà bán lẻ hàng tiêu dùng A đã tiết kiệm được cho mỗi người tiêu dùng
ít nhất là 0.08 USD.

Ngoài ra người bán lẻ thường tạo ra các dịch vụ tăng thêm như vận chuyển hàng
hoá đến tận nhà, dịch vụ lắp đặt và bảo hành, dịch vụ khuyến mại tặng thưởng…
Những điều này mang lại lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng và cũng góp phần
làm tăng doanh thu cho nhà sản xuất vì sản phẩm của họ được kích thích tiêu thụ.
Tóm lại, sự có mặt của nhà bán lẻ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, tạo ra
chuỗi giá trị lớn hơn cho người tiêu dùng và yêu cầu đền bù một mức giá trị thấp
hơn cho việc thoả mãn nhu cầu. Nhưng trong một số trường hợp người bán lẻ vẫn
có thể gây sức ép đối với người tiêu dùng vì mâu thuẫn về vấn đề lợi ích. Nên nếu
giải quyết tốt những mâu thuẫn này, tạo sự liên kết tốt giữa người bán lẻ và người
tiêu dùng sẽ tạo điều kiên thúc đẩy sự phát triển của cả hai bên.
3.3. Vai trò kinh tế - xã hội.
Nhà bán lẻ cũng là một tế bào của nền kinh tế, sự phát triển của thị trường bán lẻ
chịu tác động lớn bởi những yếu tố kinh tế xã hội, nhưng ngược lại thị trường này
cũng có tác động ngược trở lại tới toàn bộ nền kinh tế. Doanh thu của các nhà bán
lẻ tăng, tổng doanh thu của thị trường bán lẻ lớn có nghĩa rằng nhân tố này có ảnh
hưởng tích cực làm tăng GDP. Sự bình ổn của thị truờng bán lẻ có nghĩa rằng chỉ
số CPI đang ở mức phù hợp, lạm phát thấp… đâylà những biểu hiện đáng mừng
của nền kinh tế.
17
Sự ổn định của nền kinh tế góp phần tạo nên sự ổn định của xã hội, các vấn đề xã
hội được giải quyết hài hoà. Sự phát triển của một ngành cũng sẽ tạo thêm nhiều
những cơ hội việc làm góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và các vấn đề xã hội
phát sinh từ nạn thất nghiệp.
4. Những bài học kinh nghiệm về liên kêt các doanh nghiệp bán lẻ ở các nước
trong KV và TG.
 Thị trường bán lẻ Trung Quốc:
LỘ TRÌNH MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ CỦA TRUNG QUỐC:
Trước 1992, Trung Quốc không cho đầu tư nước ngoài vào lĩnh
vực bán lẻ.
Tháng 7.1992, Trung Quốc sửa đổi luật đầu tư nước ngoài, cho

phép thành lập các liên doanh về bán lẻ tại một số thành phố lớn,
và tại 5 đặc khu kinh tế, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài
vẫn bị cấm.
Từ 11.12.2004 Trung Quốc mở cửa toàn diện ngành bán lẻ cho nhà
đầu tư nước ngoài, bãi bỏ các điều khoản cấm đoán trước đây về
mặt địa lý và quy mô đầu tư.
Một khảo sát tại Trung Quốc cho thấy, từ năm 1992 đến nay đã có hơn 2.200
siêu thị và trung tâm bán lẻ hàng tiêu dùng của 264 nhà bán lẻ nước ngoài có mặt
tại Trung Quốc với tổng vốn đầu tư hơn 3 tỉ USD. Hầu như các đại gia bán lẻ trên
thế giới đều đã có mặt tại TQ. Sớm nhất là Carrefour (Pháp) vào TQ từ 1992,
ngay khi nước này mở cửa thị trường bán lẻ cho đầu tư nước ngoài. Hay như
Tesco, nhà bán lẻ lớn nhất Anh cũng đã có 25 cửa hàng và sẽ mở thêm 15 của
hàng trong năm nay và nâng lên 150 cửa hàng vào 2008. Những đại gia khác
cũng góp mặt vào thị trường này: Metro (Đức), Aeon (Nhật), Ikea (Thụy Điển),
Makro (Hà Lan), McDonald's (Mỹ), Dairy Farm (Hongkong)…
Theo cam kết của TQ khi gia nhập WTO, nước này sẽ mở cửa hoàn toàn thị
trường bán lẻ cho nhà đầu tư nước ngoài vào thời hạn cuối là 11.12.2004. Trước
đó, các nhà bán lẻ nước ngoài chỉ được hoạt động tại các thành phố lớn, khu tự trị
và đặc khu kinh tế. Trung Quốc lo lắng việc nới lỏng hạn chế về khu vực bán lẻ
đối với các đối thủ nước ngoài sẽ dẫn đến tình trạng cạnh tranh ở Trung Quốc trở
18
nên gay gắt. Nhưng những nhà bán lẻ Trung Quốc lại tỏ vẻ không lo lắng lắm
trước những đối thủ nước ngoài của họ, họ chủ quan trước những lợi thế sẵn có
của mình rằng họ đã chuẩn bị cho việc gia nhập và cuộc cạnh tranh lớn từ lâu, họ
có lợi thế riêng về hiểu được thị trường và những mạng lưới kinh doanh nội tại.
Hay nói cách khác họ đã sẵn sang cho cuộc chiến.
Sự chuẩn bị sẵn sàng và lợi thế đó của họ cũng là những thế mạnh lớn, họ đã
nhận thức rất đúng về lợi thế đó của mình và cũng đã cạnh tranh rất tốt. Thế
nhưng phải chăng còn có một lý do nào khác để một số những nhà bán lẻ Trung
Quốc phải rời sân trong cuộc đua nước rút này. Từ khi chính thức mở cửa tới nay

đã có 06 nhà bán lẻ Trung Quốc phá sản vì không đủ sức cạnh tranh với các nhà
bán lẻ dùng nước ngoài.
 Thị trường bán lẻ Hàn Quốc.
Wal-mart, Carefour… những chàng khổng lồ đi đến đâu “dẹp thị trường” đến
đấy, là nguy cơ đáng sợ cho các nhà bán lẻ địa phương. Nhưng mọi sự đã đảo
ngược tại thị trường Hàn Quốc.
Theo Học viện kinh tế Công nghiệp và Thương mại Hàn quốc (KIET), năm 1996
sau khi mở cửa, môi trường cạnh tranh trên thị trường bán lẻ Hàn Quốc vô cùng
rất quyết liệt. Nhiều cửa hàng quy mô nhỏ, lẻ thậm chí cả cửa hàng lớn nhưng
không có chiến lược tiếp thị tốt đã bị loại khỏi thị trường.
Để tồn tại các hãng bán lẻ trong nước, một mặt phải giảm chi phí, áp dụng chiến
lược kinh doanh phù hợp và quản lý hiện đại, mặt khác phải bằng mọi cách phục
vụ khách hàng tốt hơn với hàng hóa chất lượng cao hơn nhưng giá cả ngày càng
rẻ hơn. Các hình thức bán lẻ ngày càng đa dạng, nắm vững và phản ứng nhanh
với thị hiếu người tiêu dùng.
Hình thức bán hàng qua Internet cũng đặc biệt nở rộ do giới trẻ Hàn Quốc
chuộng mua sắm qua mạng. Nhờ cạnh tranh gay gắt nên khách hàng được coi là
“thượng đế” đúng nghĩa khi: nhiều chọn lựa hơn, được phục vụ tốt hơn, hàng hóa
chất lượng hơn, giá rẻ hơn…và có nhiều dịch vụ gia tăng kèm theo như vận
19
chuyển, hậu mãi, bảo trì…Ngược lại chính khách hàng đóng vai trò định hướng
phát triển ngành bán lẻ Hàn Quốc.
Sau nhiều lần “bầm dập” vì cạnh tranh, đã có tập đoàn bán lẻ nội địa vươn lên
chiếm tới 30% thị phần như Shinsegae. Một số đã đủ mạnh để “nhoi” sang các thị
trường khác như Trung Quốc (mở cửa năm 2004) tìm cơ hội mới.
Trong khi đó, sau 8 năm thâm nhập thì trường, trầy trật lắm chàng khổng lồ
Wal-Mart mới chỉ chiếm được 4% thị phần, Carrefour 8% thị phần. Không chịu
nổi “nhiệt”, giữa năm 2006, cả hai đại gia này đều nhượng lại toàn bộ các cơ sở
của mình cho các tập đoàn bán lẻ nội địa với giá tương ứng là 2 tỷ USD và gần
900 triệu USD.

Như vậy, mở cửa không đáng sợ nếu các hãng bán lẻ trong nước sớm thay đổi
linh hoạt, nắm lấy cách thức bán hàng tiện lợi, hiện đại, đồng thời phát huy tốt sở
trường am hiểu thị trường nội địa và tâm lý người tiêu dùng.
Chương II. Thực trạng phát triển thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng
ở Việt Nam hiện nay và vấn đề liên kết.
I. Thực trạng phát triển thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng Việt Nam trong
những năm gần đây và những thách thức trong tương lai gần.
1. Thực trạng phát triển thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng Việt Nam hiện nay.
1.1. Sức hấp dẫn của thị trường làm tăng thêm đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
Nhìn nhận các con số thống kê sau để thấy sự hấp dẫn của thị trường bán lẻ
hàng tiêu dùng Việt nam:
Tốc độ tăng GDP ≈ 8.5%.
20
Tổng vốn đầu tư trực tiếp toàn xã hội chiếm khoảng 42% GDP.
Thị trường bán lẻ Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, kinh doanh bán lẻ
hàng tiêu dùng tăng với tốc độ trung bình khoảng 30%/năm, tổng doanh thu đạt
20 tỉ USD/ năm.
Theo Sở Thương mại Hà Nội, chỉ tính riệng 10 tháng đầu năm, tổng mức lưu
chuyển hàng hoá (LCHH) và doanh thu dịch vụ trên địa bàn Hà Nội ước đạt
227.728 tỷ đồng, trong đó mức LCHH bán lẻ đạt 45.504 tỷ đồng (tăng 22% so với
cùng kỳ năm 2005).
Tỷ lệ tiêu dùng trên thu nhập của người Việt Nam thuộc loại cao nhất ở Đông
Nam Á. Người Việt Nam tiêu dùng trung bình khoảng 70% thu nhập hàng tháng.
Thu nhập trung bình của người Việt Nam ngày càng tăng, trong đó nhóm có tốc
độ tăng thu nhập nhanh nhất trong khoảng 500-1.000 USD/tháng.
Mặc dù hiện nay, thu nhập bình quân đầu người của người Việt Nam còn thấp,
chỉ trên 600 USD/năm, nhưng lại có tốc độ tăng trưởng thu nhập đến 15%/năm.
Hơn nữa, lượng khách du lịch đến Việt Nam ngày càng tăng ( lượt khách
quốc tế đến Việt Nam trong năm 2007 đạt khoảng 4,23 triệu người) và mức độ
chi tiêu của họ cũng ngày càng cao là những cơ sở khiến thị trường bán lẻ hàng

tiêu dùng tại Việt Nam được nhìn nhận là sẽ bùng nổ trong tương lai.
Những con số đó đã chứng minh một sự thật là thị trường bán lẻ Việt Nam
hiện nay đang được đánh giá là một thị trường hấp dẫn thứ 4 thế giới chỉ sau :
Trung Quốc, Ấn Độ, Nga (theo đánh giá của Hãng tư vấn AT Kearney năm
2007).
Mức độ hấp dẫn của thị trường tỉ lệ thuận với mức độ cạnh tranh trong tương
lai gần khi các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn đã thực sự thâm nhập thị trường và
21
cuộc cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn giữa các doanh nghiệp để giành
lấy chỗ đứng trên thị trường. Điều này như một nguyên lý và thị trường bán lẻ
hàng tiêu dùng Việt Nam cũng không phải ngoại lệ của nguyên lý đó. Thực tế đã
chứng minh điều này, khi nhận ra sự hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam, các
doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài nhìn nhận đây là một cơ hội miếng mồi ngon
hiếm có và ngay lập tức bắt tay vào chuẩn bị lực lượng chờ đợi giờ G của mình.
Theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam, từ
1/1/2009, các doanh nghiệp nước ngoài mới được phép thành lập công ty 100%
vốn nước ngoài trong lĩnh vực phân phối, bán lẻ. Ngay ở thời gian này, các doanh
nghiệp nước ngoài đang thực hiện việc khuếch trương thị phần, khẳng định vị thế
một cách khá tốt. Các doanh nghiệp nước ngoài hiện hoạt động ở Việt Nam như
Metro, Big C, Parkson đang tăng cường quy mô hoạt động để khẳng định vị thế,
khuếch trương thị phần.
Metro đã lên kế hoạch mở tiếp 4 trung tâm phân phối sỉ tại TPHCM, Hà Nội,
Nha Trang (Khánh Hòa) và Biên Hòa (Đồng Nai) với vốn đầu tư cho mỗi trung
tâm khoảng 17 triệu USD, cao hơn số vốn đầu tư cho các trung tâm trước đây 2
triệu USD bởi các trung tâm sau này sẽ được đầu tư thêm cả trạm trung chuyển.
Tập đoàn Bourbon cũng mới khai trương thêm một đại siêu thị Big C tại
đường Hoàng Văn Thụ (TPHCM), đây là siêu thị thứ 6 của tập đoàn này tại Việt
Nam. Dù chưa công bố cụ thể số lượng siêu thị, trung tâm thương mại sẽ ra đời
nhưng đại diện Tập đoàn Bourbon khẳng định đã lên kế hoạch tiếp tục mở rộng
trong những năm tiếp theo.

Tương tự 2 tập đoàn trên, sau 1 năm rưỡi khai trương trung tâm thương mại tại
TPHCM, Tập đoàn Parkson cũng vừa khai trương một trung tâm thương mại tại
Thành phố Hải Phòng. Trung tâm này có quy mô lớn hơn rất nhiều so với trung
tâm thương mại tại TPHCM.
22
I.2 Cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Hầu hết chúng ta đã được nghe câu chuyện về miếng phomat với hai anh em
nhà gấu đang đói mềm, chúng giành nhau phần hơn và không ai chịu kém ai. Đó
đã là sự cạnh tranh. Nhưng ta thử tưởng tượng đến một câu chuyện mở rộng hơn
khi đó không chỉ dừng lại là 2 anh em nhà gấu mà là một bầy gấu đói với một
miếng phomat nhỏ đó, sự cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt hơn. Đó là một kết
luận tất nhiên của một suy nghĩ logic. Thế nhưng không dừng lại ở đó, nếu bầy
gấu đó với miếng phomat đó đang tranh giành quyết liệt thì mỗi lúc lại có thêm
những con gấu đói mới xuất hiện và tham gia vào cuộc chiến giành lấy miếng
phomat cho riêng mình thì chắc chắn là cuộc chiến phải ngày càng khốc liệt hơn.
Câu chuyện mở rộng về miếng phomat và bầy gấu đã cho ta một sự liên
tưởng logic đến miếng bánh thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng Việt Nam, một
miếng bánh mà ngày càng nhiều doanh nghiệp đòi được chia phần thì sự cạnh
tranh ngày càng khốc liệt là một điều tất nhiên. Nhưng sự cạnh tranh ấy đang diễn
biến thế nào trên thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng Việt Nam ?
23
Theo lộ trình được Bộ thương mại công bố:
• Kể từ ngày 1/1/2009, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được phép
lập doanh nghiệp phân phối hàng hóa 100% vốn nước
ngoài tại Việt Nam.
• Trong năm 2007, nhà đầu tư nước ngoài có thể góp vốn
tham gia liên doanh phân phối hàng hóa với nhà đầu tư
trong nước nhưng phần vốn góp không được vượt quá 49%
vốn điều lệ. Tỷ lệ góp vốn điều lệ của nhà đầu tư nước
ngoài sẽ không hạn chế kể từ ngày 1/1/2008.

• Nhóm các mặt hàng mà nhà đầu tư nước ngoài không được
quyền phân phối gồm có lúa gạo, đường, thuốc lá, dầu thô
và dầu đã qua chế biến, dược phẩm, thuốc nổ, sách báo,
kim loại quý, đá quý và vật phẩm đã ghi hình trên mọi chất
liệu
Nhận thức sự hấp dẫn của thị truờng bán lẻ Việt nam, nhu cầu ngày càng
tăng trong khi có tới 60% thị trường chưa được khai thác đúng cách. Hiện các tập
đoàn nước ngoài giỏi về quản lý và tiếp thị, mạnh về tài chính và thương hiệu,
giàu kinh nghiệm kinh doanh quốc tế như Metro, Big C, Parkson, Wal-Mart…
đang bắt đầu ồ ạt vào Việt Nam tạo sức ép cạnh tranh lớn, đe dọa sự tồn tại và
phát triển của các doanh nghiệp phân phối và sản xuất của Việt Nam.
Sự xuất hiện của Best Denki (Nhật)-một tập đoàn chuyên bán lẻ hàng
điện tử nổi tiếng thế giới với doanh thu đạt trên 2 tỷ USD/năm (sở hữu trên 600
siêu thị điện máy) đang tạo ra sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường bán lẻ hàng
điện tử. Các trung tâm, siêu thị điện máy trong nước bây giờ có thêm một đối thủ
đáng gờm! Sau khi đặt chân đến VN, Tập đoàn Best Denki đã tiến hành ngay việc
ký kết hợp đồng nhượng quyền (franchise) với Công ty Tiếp thị Bến Thành. Đến
tháng 1-2008, khi liên doanh chính thức đi vào hoạt động, Best Denki sẽ đổ tiền
vào VN thực hiện kế hoạch mở thêm 10 chuỗi siêu thị điện máy tại các thành phố
lớn như TPHCM, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ... với tham vọng trở thành nhà
bán lẻ hàng điện tử chuyên nghiệp và lớn nhất tại thị trường VN.
Được biết, không chỉ Best Denki, đầu tháng 5-2007 vừa qua, Tập đoàn
Công nghệ cao Jabil Circuit cũng đã tiến vào VN với việc thành lập Công ty Jabil
VN có vốn đầu tư gần 100 triệu USD chuyên lĩnh vực bán lẻ.
Metro đã lên kế hoạch mở tiếp 4 trung tâm phân phối sỉ tại TPHCM, Hà
Nội, Nha Trang (Khánh Hòa) và Biên Hòa (Đồng Nai) với vốn đầu tư cho mỗi
trung tâm khoảng 17 triệu USD, cao hơn số vốn đầu tư cho các trung tâm trước
đây 2 triệu USD bởi các trung tâm sau này sẽ được đầu tư thêm cả trạm trung
chuyển. Năm 2001 có mặt tại Việt Nam, chỉ sau 5 năm hoạt động, Tập đoàn
Metro đã mở rộng thành 8 trung tâm phân phối sỉ Metro Cash & Carry với tổng

24
vốn đầu tư lên tới 120 triệu USD (7 đã hoạt động và 1 trung tâm đang trong giai
đoạn xây dựng ở Hà Nội).
Tập đoàn Bourbon cũng mới khai trương thêm một đại siêu thị Big C tại
đường Hoàng Văn Thụ (TPHCM), đây là siêu thị thứ 6 của tập đoàn này tại Việt
Nam. Dù chưa công bố cụ thể số lượng siêu thị, trung tâm thương mại sẽ ra đời
nhưng đại diện Tập đoàn Bourbon khẳng định đã lên kế hoạch tiếp tục mở rộng
trong những năm tiếp theo.
Tập đoàn Parkson cũng vừa khai trương một trung tâm thương mại tại
Thành phố Hải Phòng. Trung tâm này có quy mô lớn hơn rất nhiều so với trung
tâm thương mại tại TPHCM.
Bên cạnh sự đổ bộ ồ ạt và nhanh chóng trải rộng thị trường của các doanh
nghiệp bán lẻ nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cũng ráo riết không kém
trong việc mở rộng thị phần, chiếm lĩnh thị trường nhanh chóng.
Hiện Tổng công ty Thương mại Hà Nội đang tích cực xây dựng chiến lược
phát triển mạng lưới phân phối bán lẻ hàng tiêu dùng sao cho phù hợp với tình
hình phát triển của sức mua dân cư và nền kinh tế đang hội nhập. Với lợi thế được
kế thừa một mạng lưới khá lớn của hệ thống Thương mại quốc doanh cùng với
lực lượng cán bộ được đào tạo bài bản và một số thương hiệu của 20 đơn vị thành
viên như: Thủy Tạ, Vang Thăng Long, Hafasco… Tổng công ty đã khẳng định
được vị trí của mình trên thị trường nội địa. Từ nền tảng đó, từ khi thành lập đến
nay, đơn vị đã tập trung vào việc cải tạo nâng cấp hệ thống hạ tầng thương mại,
đề ra chương trình phát triển hệ thống phân phối bằng cách nâng cấp cơ sở hiện
có, và đầu tư mới cơ sở hạ tầng thương mại tại Hà Nội như các Trung tâm
Thương mại, siêu thị lớn, các cửa hàng tự chọn, cửa hàng chuyên doanh, tuyến
phố thương mại, phố ẩm thực v.v… theo hướng hiện đại, hiệu quả, và văn minh
thương mại. Vào tháng 11/ 2007, Hapro đồng loạt khai trương hệ thống bán lẻ
25

×