Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

PHẦN 1 PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ BÊN NGOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.58 KB, 19 trang )

PHẦN 1. GIỚI THIỆU METRO
PHẦN 1 PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ BÊN NGOÀI
CỦA METRO HIỆP PHÚ
CHƯƠNG I. Môi trường vĩ mô
I.1. Môi trường kinh tế
I.1.1 Lạm phát
Phân tích yếu tố lạm phát
Tình hình lạm phát của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2011:
Số liệu công bố ngày 24.6 của Tổng cục Thống kê cho thấy, chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) tháng 6.2011 tăng 1,09% so với tháng 5, nâng tổng mức lạm
phát từ đầu năm đến nay lên 13,29%.
Source: Nielsen company.
Đây được xem là mức tăng CPI thấp nhất trong 6 tháng đầu năm 2011.
Tuy nhiên, nếu so bình quân cùng kỳ CPI 6 tháng đầu năm 2010, chỉ số này đã
tăng đến 16,03% và tăng đến 20,82% so với tháng 6.2010.
Trong nhóm rổ hàng hóa để tính CPI, có đến 10/11 nhóm tăng nhẹ từ
0,25-1,79%, trừ nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,01%.
Tăng giá mạnh nhất trong rổ hàng hóa tính CPI của tháng 6 là nhóm hàng
ăn và dịch vụ ăn uống với mức tăng 1,79%. Trong nhóm hàng nói trên, các mặt
hàng thực phẩm đạt mức tăng cao nhất 2,47%, xếp kế tiếp là các loại ăn uống
ngoài gia đình với mức tăng 1,16%.
Các nhóm còn lại như: thiết bị và đồ dùng gia đình, may mặc, vật liệu xây
dựng, giáo dục, giao thông có mức tăng dao động từ 0,33 đến 0,86%.
Mới đây, Chính phủ đã điều chỉnh mục tiêu kiềm chế lạm phát năm 2011
từ 7% lên 15%. Với mức lạm phát sau 5 tháng đã ở mức 12,07% nên nhiệm vụ
còn lại trong 7 tháng tới chỉ còn được tăng 2,61%, tức trung bình 0,37%/tháng.
Mức tăng CPI của tháng 6.2011 là thấp đúng như dự báo nhưng vẫn cao
hơn nhiều so với mức trung bình nói trên nhằm thực hiện đúng mục tiêu kiềm
chế lạm phát năm 2011.
I.1.2 Cơ hội và khó khăn đối với Metro
GVHD GS.TS ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN TRANG 1 NHÓM 4


PHẦN 1. GIỚI THIỆU METRO
Đứng trước tình hình lạm phát đó, sức mua của thị trường đã giảm sút
một cách đáng kể, điều này gây ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường bán lẻ Việt
Nam, trong đó có công ty Metro. Đặt ra rất nhiều thách thức như:
- Giảm doanh số bán hàng
- Phải cắt giảm đến mức tối đa chi phí để có thể giảm giá bán.
- Môi trường cạnh tranh vốn đã khốc liệt nay lại càng khó khăn hơn.
- Vật lộn với tình trạng leo thang của:
+ Giá nhiên liệu
+ Chi phí sản xuất hàng hóa
+ Giá hàng hóa, dịch vụ
+ Giá cước vận chuyển hàng hóa…
Nhưng bên cạnh đó cũng có những cơ hội nhất định mà Metro có thể tìm
thấy trong thời kì lạm phát tăng cao như hiện nay. Có thể kể ra cụ thể như:
- Mặt hàng của Metro luôn có giá rẻ hơn so với thị trường chung, đây là điều kiện
thuận lợi để lôi kéo khách hàng và vượt mặt các đối thủ cạnh tranh trong cuộc
đua về giá
- Trong thời kì bão giá, người tiêu dùng Việt Nam muốn mua hàng khuyến mãi,
đây là cơ hội để Metro xây dựng các chiến lược khuyến mãi, giảm giá hợp lí
nhằm lôi kéo khách hàng
- Người tiêu dùng đang có xu hướng cắt giảm chi tiêu, và chỉ tập trung vào những
mặt hàng thiết yếu. Metro có thể nắm bắt tình hình này và đưa ra những chiến
lược phát triển sản phẩm mới, phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của con người, và
giá cả phù hợp với túi tiền người tiêu dùng trong thời kì hiện tại.
- Metro có một số mặt hàng có nguồn cung riêng và có nhãn hiệu riêng, đây là
những yếu tố lâu dài và khá phù hợp với thời kì bão giá hiện nay.
I.2. Môi trường chính trị luật pháp
I.2.1 Các rào cản đối với các nhà đầu tư nước ngoài
Mặc dù ngành bán lẻ của Việt Nam vẫn chỉ phát triển chủ yếu với các cửa
hiệu tạp hóa nhỏ lẻ, nhưng nhiều nhà bán lẻ nước ngoài đang tỏ ra khá háo hức

giành cho mình một miếng bánh thị trường lớn hơn tại một đất nước với tầng
lớp trung lưu tăng trưởng nhanh bậc nhất châu Á.
Ministop, nhà quản lý chuỗi cửa hàng tiện lợi của Nhật, là công ty mới
đây nhất bắt tay vào kế hoạch hoạt động tại Việt Nam. Công ty này vừa ký thỏa
GVHD GS.TS ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN TRANG 2 NHÓM 4
PHẦN 1. GIỚI THIỆU METRO
thuận liên doanh với tập đoàn cà phê Trung Nguyên mở 500 cửa hàng trong
vòng năm năm.
Takashimaya và Isetan Mitsukoshi, hai chuỗi cửa hàng bách hóa Nhật
nữa, cũng đang cân nhắc kế hoạch mở cửa tại đây.
Thực tế việc các nhà bán lẻ nước ngoài muốn liên doanh với một công ty
địa phương chứng tỏ những khó khăn mà các công ty nước ngoài đang vấp phải
khi một mình tham gia ngành bán lẻ của Việt Nam.
Việt Nam vẫn là một trong số ít những thị trường tiêu dùng châu Á tăng
trưởng nhanh mà lại vắng bóng các cửa hàng của McDonald’s, Starbucks hay
Tesco, một phần vì môi trường quản lý có vấn đề.
Sau khi lộ trình mở cửa thị trường phân phối được công bố theo Biểu cam
kết cụ thể về dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO (Biểu cam kết), thủ tục
đầu tư đã được cụ thể hóa bởi các văn bản: Quyết định số 10/2007/QĐ-BTM
(Quyết định 10), Nghị định số 23/2007/NĐ-CP (Nghị định 23), Thông tư số
09/2007/TT-BTM (Thông tư 09), Thông tư số 05/2008/TT-BTM, Công văn số
4422/BCT-KH và Công văn số 6656/BCT-KH.
Ngay khi bước chân vào Việt Nam các nhà đầu tư nước ngoài đã gặp phải
chướng ngại vật là thủ tục cấp phép đầu tư.
Thủ tục cấp phép đầu tư và cấp phép lập cơ sở bán lẻ (ngoài cơ sở bán lẻ
thứ nhất) theo quy định tại Nghị định số 23, yêu cầu phải được sự chấp thuận
của Bộ Công Thương trong từng trường hợp cụ thể. Quy định này nằm ngoài
thủ tục cấp phép thông thường đã xây dựng nên rào cản mới về pháp lý trong
đầu tư. Theo nội dung các công văn gần đây của Bộ Công Thương, chúng tôi
được biết rằng “kinh nghiệm quản lý”,“năng lực kinh doanh” và “khả năng tài

chính” của nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cấp phép mới, trong khi các tiêu
chí này lại chưa được ghi nhận và định lượng cụ thể trong bất kỳ tài liệu pháp lý
nào. Cần cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá nhằm tạo môi trường đầu tư thêm
minh bạch.
Một rào cản lớn nữa là các điều khoản quy định nhà bán lẻ nước ngoài
phải vượt qua được cuộc Thẩm định Nhu cầu kinh tế (Economic Needs Test –
ENT) để tính toán lợi ích tiềm năng của những cửa hàng đăng ký đối với địa
phương nơi họ có kế hoạch mở cửa.
GVHD GS.TS ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN TRANG 3 NHÓM 4
PHẦN 1. GIỚI THIỆU METRO
Quyết định 10 quy định: “Quyền phân phối của nhà đầu tư nước ngoài
gắn với quyền được lập cơ sở bán lẻ thứ nhất, việc lập thêm cơ sở bán lẻ ngoài
cơ sở bán lẻ thứ nhất được xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT)”.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm, chúng tôi thấy rằng không có ngoại lệ nào đối với
“quyền được lập cơ sở bán lẻ thứ nhất”, nghĩa là việc thành lập cơ sở bán lẻ nói
chung và cơ sở bán lẻ thứ nhất nói riêng trong mọi trường hợp đều là đối tượng
kiểm tra nhu cầu kinh tế và phải được sự chấp thuận của Bộ Công Thương.
Ngoài ra, chúng tôi được biết, qua một công văn của Bộ Công Thương, ngay cả
trong trường hợp cơ sở bán lẻ đang hoạt động hợp pháp của doanh nghiệp cũng
sẽ bị Kiểm tra nhu cầu kinh tế khi doanh nghiệp đăng ký chuyển nhượng phần
vốn góp cho nhà đầu tư nước ngoài. Việc sử dụng công cụ Kiểm tra nhu cầu
kinh tế trong trường hợp này là đã đi quá xa so với mục tiêu và ý nghĩa tồn tại
của các tiêu chí Kiểm tra nhu cầu kinh tế mà WTO cho phép.
Tiêu chí kiểm tra nhu cầu kinh tế
Để Kiểm tra nhu cầu kinh tế, Biểu cam kết đưa ra các tiêu chí chính
như sau:
(i) số lượng các nhà cung cấp dịch vụ đang hiện diện trong một khu vực địa lý,
(ii) sự ổn định của thị trường và
(iii) quy mô địa lý.
Trong khi các tiêu chí trên chưa được cụ thể hóa phù hợp với điều

kiện trong nước thì Thông tư 09 lại bổ sung thêm 2 tiêu chí đánh giá mới
là:
(iv) mật độ dân cư và
(v) sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch địa phương.
Hai tiêu chí này hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của Biểu cam kết. Trong
“sách trắng” mới nhất về môi trường kinh doanh Việt Nam, Phòng Thương mại
châu Âu đã miêu tả việc thẩm định này là “rào cản tiếp cận thị trường quan
trọng đối với nhà đầu tư, được áp dụng tùy tiện và khác nhau” ở từng tỉnh.
Các quan chức Việt Nam cho rằng những quy định thẩm định như thế là
cần thiết để bảo vệ lợi ích của nhà bán lẻ nhỏ trong nước. Dĩ nhiên, ở phương
Tây, những cửa hàng như thế đã bị đánh bật bởi những ông lớn từ lâu rồi.
Dù tiếp cận này là đúng hay sai cách, quá trình thẩm định khiến cho các
tập đoàn bán lẻ quốc tế rất khó áp dụng cách tiếp cận đồng nhất và chi phí thấp
GVHD GS.TS ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN TRANG 4 NHÓM 4
PHẦN 1. GIỚI THIỆU METRO
để mở rộng cửa hàng, những yếu tố vốn đã trở thành nền tảng thành công trên
toàn cầu của họ.
I.2.2 Ảnh hưởng đến metro
Việc các đối thủ nước ngoài còn gặp các khó khăn khi thâm nhập vào thị
trường Việt Nam là một cơ hội lớn đối với Metro. Trong khi các đối thủ trong
nước còn gặp nhiều khó khăn về vốn và các yếu tố khác, Metro đang đẩy mạnh
xây dựng hệ thống trung tâm siêu thị của mình.
Đây là một cơ hội không thể nào tốt hơn đối với Metro. Trong hoàn cảnh
thị trường bán lẻ tại Việt Nam đang tăng trưởng nóng, việc mở rộng thị trường
của Metro càng đem lại lợi ích nhiều hơn. Hơn nữa việc cùng với một số nhà
bán lẻ khác cả trong và ngoài nước hiện có mặt tại Việt Nam, đi trước đối thủ
lớn như WallMart, Careford… là một lợi thế vô cùng lớn đối với Metro.
Trong tương lai gần, các đối thủ nước ngoài này sẽ khó có thể vào Việt
Nam. Tuy không thể đảm bảo sự có mặt của họ trong tương lai hay không.
Nhưng hiện tại với rào cản này cũng làm cho Metro có thêm thời gian mở rộng

hệ thống của mình trước khi các đối thủ lớn xâm nhập vào Việt Nam.
I.3. Thay đổi khuynh hướng tiêu dùng
Theo kết quả Nghiên cứu Xu hướng tiêu dùng gần đây nhất của hãng
nghiên cứu thị trường Nielsen vừa công bố, người Việt Nam, so với người tiêu
dùng châu Á khác, đang có xu hướng dè sẻn và thích "săn" hàng khuyến mãi
hơn do lạm phát cao.
I.3.1 Sức mua giảm
AC Nielsen cho rằng dường như sự phân cấp trong tiêu dùng tiếp tục diễn
ra, người tiêu dùng cấp cao vẫn sẽ giữ vững trong khi tầng lớp trung lưu giảm
dần. Sức tăng trưởng của nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi những thách thức ngắn
hạn của nền kinh tế vi mô và vĩ mô. Việc giảm giá trị liên tục của tiền đồng làm
người dân lo lắng, 99% số người được phỏng vấn đều rất lo lắng về sự trượt giá
này. Hệ quả là 81% người tiêu dùng giảm chi tiêu không cần thiết, 67% phải bớt
tiền tiết kiệm, 49% giảm bớt chi phí giải trí và 44% cố gắng tìm các khuyến mãi
hàng ngày.
Những thay đổi về giá gần đây có ảnh hưởng quan trọng, trong khi đó
người dân vẫn phải tiếp tục mua sắm các mặt hàng thiết yếu. Sức mua của 60%
GVHD GS.TS ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN TRANG 5 NHÓM 4
PHẦN 1. GIỚI THIỆU METRO
hộ gia đình giảm tương đối rõ ràng, 96% người dân cho biết giá chi tiêu đã tăng
tương đối đáng kể.
I.3.2 Thời kỳ khuyến mãi
Việt Nam có lượng người mua sắm quan tâm đến khuyến mãi nhiều nhất,
với 87% thường xuyên mua hàng khuyến mãi, so với mức trung bình 68% của
khu vực. Nielsen phát hiện 56% người tiêu dùng Việt Nam tích cực săn hàng
khuyến mãi khi mua sắm, so với 38% của khu vực. Điều này một phần là do chi
phí các hàng hóa tiêu dùng hằng ngày đang tăng cao.
Với việc áp lực lạm phát chưa có dấu hiệu thuyên giảm, người tiêu dùng Việt
Nam đang thích nghi với sự gia tăng chi phí sinh hoạt hằng ngày bằng cách thay
đổi đáng kể hành vi mua sắm. Theo kết quả khảo sát, 60% người tiêu dùng Việt

Nam tại Tp.HCM và Hà Nội cho biết khả năng mua sắm đồ đạc trong gia đình
của họ đã giảm xuống do giá cả leo thang. Kết quả là họ đang phải tiết kiệm hơn
bằng cách giảm chi tiêu vào các hoạt động giải trí như ăn nhà hàng hay đi du
lịch.
Khi người tiêu dùng phải chống đỡ với giá cả leo thang, những thay đổi
nhất định trong thói quen mua sắm cũng xuất hiện, như hạn chế số lần ghé thăm
các cửa hàng hay số lượng sản phẩm mỗi dịp mua sắm, hay chỉ mua hàng vào
dịp có khuyến mãi hay mua tại các cửa hàng gần nhà hơn để tiết kiệm chi phí
xăng xe. Người tiêu dùng cũng mua với khối lượng lớn hơn những mặt hàng sử
dụng thường xuyên, như bột giặt, dầu gội đầu, nước mắm, hạt nêm để tiết kiệm
"ngân sách".
I.3.3 Các kênh mua sắm
Mặc dù hành vi của người tiêu dùng đang thay đổi, nhưng có một đặc
điểm vẫn giữ nguyên. Người tiêu dùng Việt Nam vẫn mua sắm ở những kênh
khác nhau, tùy vào sản phẩm họ đang tìm kiếm là gì. Người dân vẫn sẽ đến các
chợ truyền thống để mua thực phẩm tươi sống, trong khi thức ăn nhẹ, sản phẩm
chăm sóc cá nhân hay sản phẩm sữa có xu hướng được mua nhiều hơn ở siêu thị
và các cửa hàng tạp hóa truyền thống.
Hơn 35% người tiêu dùng cho biết họ thường đi dọc các dãy hàng và
chọn những sản phẩm họ muốn, so với 8% những người chỉ việc "đi và nhặt"
hàng vào giỏ. Người tiêu dùng Việt Nam có vẻ trung thành với nhãn hiệu ở một
số ngành hàng, nhất là sữa, rượu và sản phẩm chăm sóc cá nhân. Hơn 45%
GVHD GS.TS ĐOÀN THỊ HỒNG VÂN TRANG 6 NHÓM 4

×