Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

SO SÁNH HIỆU QUẢ của AZITHROMYCIN và DOXYCYCLIN TRONG điều TRỊ BỆNH TRỨNG cá THÔNG THƯỜNG tại BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

TRỊNH THÁI PHƯƠNG

SO SÁNH HIỆU QUẢ CỦA
AZITHROMYCIN VÀ DOXYCYCLIN TRONG
ĐIỀU TRỊ BỆNH TRỨNG CÁ THÔNG THƯỜNG
TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

TRỊNH THÁI PHƯƠNG

SO SÁNH HIỆU QUẢ CỦA
AZITHROMYCIN VÀ DOXYCYCLIN TRONG
ĐIỀU TRỊ BỆNH TRỨNG CÁ THÔNG THƯỜNG
Chuyên ngành: Da liễu
Mã số: 60720152


LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Duy Hưng

HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận
được sự dạy bảo tận tình của các thầy cô, các bác sỹ, các bạn đồng nghiệp và
gia đình.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới:
- Ban giám hiệu, Bộ môn Da liễu, Phòng Quản lý Đào tạo Sau đại học
trường Đại học Y Hà Nội.
- Ban giám đốc Bệnh viện Da liễu Trung ương đã tạo điều kiện cho tôi
trong suốt quá trình học tập, thực hành và tiến hành nghiên cứu này.
- PGS.TS. Nguyễn Duy Hưng, người thầy đã luôn tận tìnhhướng dẫn,
đóng góp nhiều ý kiến quan trọng giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp đạt
kết quả cao nhất.
- Các thầy cô trong Bộ môn Da liễu đã hướng dẫn chỉ bảo và đóng góp cho
tôi nhiều ý kiến quý báu để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Các cán bộ nhân viên Khoa Khám bệnh, phòng Kế hoạch tổng hợp Bệnh
viện D a liễu Trung ương đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi có thể học tập và
tiến hành thu thập số liệu thuận lợi.
Xin cảm ơn các anh chị, bạn bè đồng nghiệp đã luôn sẵn lòng giúp đỡ,
động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình đã động viên,
giúp đỡ để tôi yên tâm trong quá trình học tập, trong suốt quá trình hoàn thành
luận văn.
Bs: Trịnh Thái Phương



LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Trịnh Thái Phương, học viên cao học khóa 24, Trường Đại học Y
Hà Nội, chuyên ngành Da liễu, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của Thầy PGS.TS.Nguyễn Duy Hưng.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
thực hiện tại Việt Nam.
3. Toàn bộ bệnh nhân tham gia nghiên cứu được lấy từ Khoa khám
bệnh - Bệnh viện Da liễu Trung ương. Số liệu trong nghiên cứu được tiến
hành thu thập theo mẫu bệnh án thống nhất, các số liệu đảm bảo trung thực
khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của nơi cơ sở nơi nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luận về những cam kết này.

Bs. Trịnh Thái Phương


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
P.acnes

Tiếng Anh
Propionibacterium acnes

L-PCA
ABA

L- pyrrolidone cacboxylic acid

Anti- Bacterial-Adhesive- Agent Phức hợp chống bám dính

SHBG

Sexual Hormone Binding

vi khuẩn
Globulin gắn Hormon sinh

DHT

Globulin
Dihydrotestosterone

IL-1α
IL-8
IL-12
TNF-α
LH
ARNm
BP
GAGS

Interleukin-1 alpha
Interleukin-8
Interleukin-12
Tumor necrosis factor alpha
Luteinizing hormone
Acid Ribonucleic
Benzoyl Peroxide

Global Acne Grading System

TCTT
AZI
DOXY
TTTB
THCS
THPT

Tiếng Việt
Vi khuẩn gây bệnh trứng cá

dục

Yếu tố hoại tử u alpha
Hormon tạo hoàng thể

Hệ thống phân độ trứng cá
toàn cầu
Trứng cá thông thường

Azithromycin
Doxycycline
Tổn thương trung bình
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông

MỤC LỤC



DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Cơ chế bệnh sinh trứng cá
Sơ đồ 1.2: Giải phẫu nang lông
Sơ đồ 1.3: Cấu trúc tuyến bã trong bệnh trứng cá
Sơ đồ 1.4: Sự tăng tiết chất bã
Sơ đồ 1.5: Sừng hóa cổ nang lông tuyến bã
Sơ đồ 1.6: Vai trò của vi khuẩn trong trứng cá


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC HÌNH



10

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trứng cá là một bệnh da phổ biến, đặc biệt là tuổi trẻ, ảnh hưởng đến
85% thanh thiếu nhiên. Bệnh hay gặp ở cả 2 giới, gặp ở nữ nhiều hơn nam
Bệnh thường khởi phát sớm từ tuổi dậy thì từ 10 đến 17 tuổi ở nữ, 14 đến 19
tuổi ở nam, tuy nhiên cũng có thể xuất hiện lần đầu ở 25 tuổi. Bệnh có thể kéo
dài trong nhiều năm, gây giảm tự tin cho bệnh nhân dẫn đến ảnh hưởng chất
lượng cuộc sống và tổn hại về kinh tế. Bệnh trứng cá được chia ra làm nhiều
thể lâm sàng khác nhau, trong đó trứng cá thông thường là hình thái lâm sàng
hay gặp nhất[1],[2],[3],[4]
Độ tuổi hay gặp từ 13 đến 25 tuổi. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh đa

dạng như nhân mụn (đầu trắng, đầu đen), sẩn viêm đỏ, mụn mủ, ... Vị trí thương
tổn hay gặp là mặt (má, trán, cằm), lưng, cổ ngực[1],[5],[6].
Mụn trứng cá là một bệnh do nhiều tác nhân phối hợp gây ra, bao gồm:
Tăng tiết bã, dày sừng cổ tuyến bã, thâm nhiễm viêm, nhiễm vi khuẩn, kèm
theo các yếu tố liên quan khác thúc đẩy sự phát triển của bệnh như: thời tiết,
thức ăn, thói quen sinh hoạt... Bệnh không gây biến chứng nguy hiểm nhưng
diễn biến thường kéo dài, vị trí thương tổn ở vùng mặt là chủ yếu, dẫn đến
ảnh hưởng về thẩm mỹ cũng như chất lượng cuộc sống của bệnh nhân[5], [4],
[7].
Do có nhiều nguyên nhân nên điều trị mụn trứng cá phức tạp, đòi hỏi
nhiều loại thuốc điều trị phối hợp toàn thân và tại chỗ. Kháng sinh từ lâu đã
được áp dụng trong điều trị. Hiện nay nhóm Cycline và nhóm Macrolide là
các kháng sinh thường dùng trong điều trị Trứng cá. Từ những năm 1948
tetracyclin đã được áp dụng để điều trị trứng cá tuy nhiên thời gian điều trị
kéo dài và có nhiều tác dụng không mong muốn [8]. Doxycyclin là một kháng


11

sinh thuộc nhóm Cycline tuy nhiên trong các Cycline, doxycyclin ít độc với
gan hơn và có lợi thế trong cách dùng thuốc, vì nồng độ huyết tương tương
đương khi uống hoặc tiêm thuốc. Doxycyclin cho thấy là lựa chọn tốt hơn so
với tetracyclin trong điều trị bệnh trứng cá thông thường[2]. Azithromycin là
kháng sinh thuộc nhóm Macrorilies. Theo Roun Huot và Nguyễn Tất Thắng
(2010) azithromycin đã được đánh giá là có hiệu quả tốt hơn tetracyclin trong
điều trị bệnh trứng cá thông thường [9]. Để đánh giá hiệu quả giữa
azithromycin và doxycyclin trong điều trị bệnh trứng cá thông thường trên thế
giới đã có một số nghiên cứu như nghiên cứu của Davinder Parsad, Roma
Pandhi, R. Nagpal và K.S. Negi năm 2001 tại Ấn độ, nghiên cứu của S. Kus,
D. Yucelten và A. Aytug năm 2005 tại Thổ nhĩ kỳ. Tại Việt Nam hiện chưa có

nghiên cứu nào về vấn đề này. Nhằm đánh giá hiệu quả của 2 kháng sinh trên,
tìm ra kháng sinh phù hợp trong điều trị bệnh trứng cá thông thườngchúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: "So sánh hiệu quả của Azithromycin và
Doxycyclin trong điều trị bệnh Trứng cá thông thường tại Bệnh viện Da
liễu Trung ương" với 2 mục tiêu:
1.

Khảo sát một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng của bệnh trứng cá

2.

thông thường từ tháng 10/ 2016 đến tháng 6/ 2017.
So sánh hiệu quả giữa 2 nhóm sử dụng phác đồ Azithromycin và
Doxycyclin trong điều trị trứng cá thông thường thể vừa.

CHƯƠNG 1


12

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. ĐẠI CƯƠNG BỆNH TRỨNG CÁ
Bệnh trứng cá là bệnh của nang lông tuyến bã, bệnh biểu hiện với nhiều
hình thái khác nhau, đa dạng về tổn thương và vị trí, bệnh sinh của trứng cá
có thể thông qua 4 cơ chế chính phối hợp với nhau và những yếu tố liên quan
thuận lợi cho bệnh [3],[10],[11]
- Tăng tiết bã.
- Dày sừng cổ nang lông tuyến bã.
- Nhiễm khuẩn.

- Thâm nhiễm viêm.
- Yếu tố liên quan như thức ăn, stress, thời tiết, kinh nguyệt, thuốc bôi, uống...
SINH BỆNH HỌC
Dày sừng cổ nang lông tuyến bã

Tăng tiết bã

Trứng cá
Thâm nhiễm viêm

Nhiễm khuẩn P.acnes
Yếu tố liên quan
Thức ăn, stress, thời tiết

Sơ đồ 1.1: Cơ chế bệnh sinh trứng cá
1.1.1. Đặc điểm của nang lông, tuyến bã


13

* Nang lông[3],[10],[12]

Sơ đồ 1.2: Giải phẫu nang lông
- Nang lông tơ: nằm rải rác toàn bộ cơ thể, trừ lòng bàn tay, lòng bàn
chân. Nang lông tơ có kích cỡ nhỏ, nhưng tuyến bã có thể tích trữ lớn dẫn tới
kích thước tuyến bã ở nang lông tơ có thể to hơn nang lông dài.
- Nang lông dài: có ở đầu, cằm, nách, mu. Những vị trí này lông mọc
toàn bộ, tuyến bã quanh nang lông không phát triển bằng nang lông tơ.
* Sinh lý tuyến bã nhờn
Tuyến bã nhờn được phân bố không đều trên toàn cơ thể. Nửa người

trên giàu tuyến bã nhờn, đặc biệt lưng và ngực. Tuyến bã nhờn có mật độ cao
trên vùng da đầu, trán, má và cằm, ở những vị trí đó có thể đạt đến 400-900
tuyến/cm². Ngược lại, chân, bụng, cánh tay có mật độ tuyến bã thấp hơn, các
vùng còn lại 100 tuyến/cm². Lòng bàn tay, chân không có tuyến bã[12],[13].


14

Tăng tiết bã

Tăng sừng phễu ống

Tăng sinh P.acnes
Viêm và vỡ thành tuyến bã

Sơ đồ 1.3: Cấu trúc tuyến bã trong bệnh trứng cá
Tuyến bã nằm ở phía trên của nang lông gần mặt da. Cấu tạo tuyến gồm
một khối đặc tế bào, chia ra nhiều thuỳ, có chung một ống bài xuất mở vào
nang lông hoặc mở thẳng ra mặt da. Tuyến bã được tìm thấy khắp cơ thể, trừ
lòng bàn chân tay, tuyến tiết ra chất bã nhờn thông qua một ống dẫn đổ vào
nang lông sau đó đổ ra ngoài, trên mặt da. Tuyến bã ở niêm mạc thì bài xuất
thẳng lên bề mặt niêm mạc như tuyến Tyson hoặc tạo thành các hạt Fordyce
Spot[14],[2]. Bệnh nhân bị mắc trứng cá đều có tăng tiết bã nhờn, những
người bị nặng thì tuyến bã nhờn lớn hơn và tiết nhiều hơn.
Thành phần chất bã nhờn gồm các chất béo dưới dạng ester hỗn hợp,
không có các acid béo tự do. Thành phần chất bã đặc hiệu theo loài, ở
người gồm các chất sau:
- Triglyceride và axit béo chiếm tỷ lệ chủ yếu 40 - 60%.
- Este 20 - 26%.
- Qualene 11 - 15%.

Lipid gốc tự do chủ yếu trong bã nhờn là cholesterol, mà cùng với este
của nó chiếm 3-5% tổng số lipid [2],[3],[12],[15].


15

1.1.2. Tăng tiết chất bã
Bằng thực nghiệm, người ta đã chứng minh rằng: Hoạt động tiết bã
không phụ thuộc vào sự điều hoà của hệ thống thần kinh. Hoạt động bài tiết
chất bã có sự biến đổi liên quan với các hormon, đặc biệt là hormon sinh dục
nam (androgens).
Vai trò quan trọng của nội tiết tố androgen trong hoạt động của tuyến
bã nhờn và trong sinh bệnh học của mụn trứng cá đã được xác định. Các
tuyến bã nhờn phản ứng ở mức độ khác nhau với nồng độ nội tiết tố
androgen lưu hành, được sản xuất bởi tuyến sinh dục và tuyến thượng thận.
Ngoài ra, tuyến bã còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như di truyền,
kích thích. Tuyến bã hoạt động mạnh lúc mới sinh do angdrogen của mẹ
truyền qua rau thai hoạt hoá, sau đó gần như bất hoạt ở trẻ em từ 2-6 tuổi.
Tuyến bã hoạt động trở lại từ 7 tuổi, phát triển mạnh ở tuổi dậy thì, giảm
tiết ở tuổi 60-70 đối với nam, đối với nữ giảm ở độ tuổi 50. Hoạt động của
tuyến bã theo nhịp ngày đêm: tuyến bã hoạt động mạnh và bài tiết nhiều
chất bã nhất là cuối giờ sáng và đầu giờ chiều, giảm tiết chất bã nhất vào
cuối giờ chiều và tối [12],[15].
1.1.3. Bệnh sinh trứng cá
* Tăng tiết chất bã và vai trò của chất bã:
Trong bệnh trứng cá, chất bã được bài tiết quá nhiều. Hoạt động bài tiết
của tuyến bã có liên quan chặt chẽ với các hormon, trong đó quan trọng là
hormon sinh dục nam, đặc biệt là testosteron. Các hormon này làm phát triển,
giãn rộng, tăng thể tích tuyến bã, kể cả các tuyến bã không hoạt động, kích
thích tế bào tuyến bã hoạt động mạnh, dẫn tới sự bài tiết chất bã tăng lên rất

nhiều so với bình thường. Bên cạnh đó, sự bài tiết chất bã còn chịu tác động
của một số yếu tố: di truyền, các stress, thời tiết... Trong bệnh trứng cá, chất
bã tăng tiết một cách quá mức do các yếu tố sau:


16

+ Tăng hormon sinh dục nam (testosteron, ehydroepiandrosteron...).
+ Tăng việc gắn testosteron vào các thụ thể của tuyến bã.
+ Tăng hoạt động của men 5α-reductase.
+ Lượng SHBG (Sexual Hormone Binding Globulin) trong máu
giảm, dẫn đến lượng testosteron tự do đi đến tế bào tuyến bã tăng nhiều
hơn [3],[5],[6].
SHBG giảm

Testoteron tự do tăng

DHT tăng
5-α Reductase
TĂNG TIẾT CHẤT BÃ
Corticoid
Sơ đồ 1.4: Sự tăng tiết chất bã
* Sừng hoá cổ nang lông tuyến bã
Quá trình sừng hoá cổ nang lông tuyến bã chịu tác dụng của một số yếu
tố: Dihydrotestosteron, thiếu hụt acid linoleic, tăng acid béo tự do ở tuyến bã,
vi khuẩn, và yếu tố di truyền.
Dihydroepiandrosteron (DHEA) dưới sự tác dụng của enzyme 3βHydroxysteroid

dehydrogenase




enzyme

17β-Hydroxysteroid

dehydrogenasebiến đổi thành testosterone. Enzym 5α-reductase biến đổi thành
Dihydro-testosterone (DHT). DHT là thành phần hormone sinh dục nam giữa
vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh trứng cá. DHT kích thích tuyến bã làm


17

tuyến bã giãn rộng, đồng thời cũng kích thích tế bào tuyến bã tăng cường sản
xuất các chất bã nhiều hơn so với bình thường.
Trong bệnh trứng cá, acid béo tự do tăng, vai trò quan trọng là hoá ứng
động quá trình viêm trực tiếp, kích thích làm tăng sự sừng hoá và gây xơ hoá
cổ tuyến bã. Chính acid béo tự do tăng kết hợp với sự có mặt của vi khuẩn có
men phân huỷ chất bã bị ứ trệ góp phần làm bệnh nặng thêm.
Sự sừng hoá cổ nang lông còn liên quan đến sự hoạt động và hiện diện
của interleukin-1 alpha (IL-1α) và các cytokin khác. Các yếu tố này làm cho
quá trình sừng hoá ở cổ nang lông tuyến bã với nhịp độ luân chuyển tế bào
tăng, tạo ra khối sừng ở cổ nang lông làm hẹp đường thoát chất bã lên mặt da,
thậm chí gây bít tắc hoàn toàn. Chất bã bị ứ đọng không được bài tiết lên mặt
da hoặc đào thải không hết. Cùng lúc, là sự thay đổi trong bản mẫu của quá
trình sừng hoá trong lòng nang lông. Ở đáy phễu nang lông, chất sừng trở nên
đông đặc hơn, các hạt dẹt hình lá thưa thớt, các hạt sừng trong suốt tăng lên,
một số tế bào có chứa chất vô định hình là chất mỡ được tạo ra trong quá trình
sừng hoá. Kết quả tuyến bã bị giãn rộng, chứa đầychất bã, dẫn tới hình thành
nhân trứng cá [2],[6],[16],[17],[18].


DHEA

Acid béo tự do
Sừng hóa cổ nang lông
tuyến bã

Thiếu acid lenoic

Tăng hoạt động
Di truyền

Sơ đồ 1.5: Sừng hóa cổ nang lông tuyến bã

IL-1α


18

* Vai trò của vi khuẩn trong nang lông
Trong nang lông có Propionibacterium acnes (P.acnes) còn gọi
Corynebacterium acnes, là một loại trực khuẩn có tính chất đa dạng và kị khí.
Bình thường trong độ tuổi từ 11- 14 và 16 - 20 không tìm thấy P. acnes ở những
người không bị trứng cá. Ngược lại, ở những bệnh nhân trứng cá trung bình có
khoảng 114.800 P.acnes/cm². Bằng sinh hoá và huyết thanh học, loại vi khuẩn
này được phân thành hai nhóm: P.acnes (trước đây gọi là Corynebacterium typ1)
và Propionibacterium grannulosum (P. grannulosum - trước đây gọi là
Corynebacterium typ 2). Các vi khuẩn P. grannulosum chủ yếu gặp ở phần nang
lông với số lượng rất ít [19],[20].
Một số nghiên cứu đã thể hiện vai trò gây bệnh của vi khuẩn trong bệnh

trứng cá như. Năm 2005, tại Iran, Parvin Hassanzadeh và cộng sự đã nuôi
cấy Propionibacterium acnes (P.acnes) ở 100 học sinh bị mụn trứng cá, xác
định được tỷ lệ 33% [21]. Ở Việt Nam, năm 2012 trong nghiên cứu của bác sĩ
Nguyễn Thanh Hùng đã nuôi cấy và xác định được tỷ lệ 48,3% (42/87) nhiễm
P.acnes [22]. Ngoài các vi khuẩn trên, người ta còn thấy một số nấm men
Pityrosporum ovale ở trong một số nang tuyến bã [22],[23].
Vi khuẩn P. acnes có khả năng phân hủy lipid, giải phóng acid béo tự
do gây viêm mạnh. Điều này đã được chứng minh trong thực nghiệm bằng
cách tiêm P. acnes sống vào trong các nang chứa đựng toàn acid béo đã este
hoá. Sau khi tiêm, các nang này bị vỡ, các tổ chức xung quanh bị viêm tấy
nhiều. Ngược lại, nếu tiêm các P. acnes chết vào các nang nói trên thì thấy
hiện tượng viêm không đáng kể. Thậm chí khi tiêm trực tiếp P. acnes vào
trung bì cũng chỉ gây viêm nhẹ hoặc trung bình. Thí nghiệm đã chứng minh
rằng men lipase của P. acnes sống đã phân huỷ lipid, giải phóng acid béo tự
do, gây viêm rõ rệt ở tổ chức dưới da [15],[24].


19

P.acnes
Bạch cầu đơn nhân

Lipid chất bã

Acid béo tự do

IL-8, IL-12, TNF-α

VIÊM


Sơ đồ 1.6: Vai trò của vi khuẩn trong trứng cá
1.2. CÁC THỂ LÂM SÀNG CỦA BỆNH TRỨNG CÁ
1.2.1. Trứng cá thông thường (Acne vulgaris)
Là thể rất phổ biến ở thanh thiếu niên nam nữ, từ 13 đến 25 tuổi, về sau
bệnh giảm dần và cuối cùng khỏi [25]. Ở nữ giới, đôi khi bệnh lại tiếp diễn
thành trứng cá đỏ hoặc trứng cá kê khi bệnh nhân ở tuổi trên dưới 40[16].
Các thương tổn khu trú đặc biệt ở vùng da mỡ như ở mặt (má, trán,
cằm), ở vùng giữa ngực, lưng, vai. Đôi khi gặp nhân trứng cá ở vành tai, bọc
ở ống tai.
Tổn thương rất đa dạng: nhân trứng cá, sẩn nang lông, sẩn mụn mủ,
mụn mủ, u viêm tấy, áp xe trung và hạ bì. Các thương tổn này không phải
thường xuyên kết hợp với nhau và có đầy đủ trên một bệnh nhân.


20

Hình 1.1. Trứng cá thể thông thường
1.2.2. Trứng cá mạch lươn (Acne conglobata)
Bệnh gặp chủ yếu ở đàn ông, bắt đầu sau tuổi dậy thì và tiếp tục kéo dài
lâu hơn trong những năm về sau. Thương tổn thường ở ngực, mặt, lưng, vai
và sau cổ. Ngoài ra, còn thấy ở mông và tầng sinh môn. Tổn thương bắt đầu
bằng mụn mủ ở nang lông, tiến triển to dần và loét rất đặc biệt. Các ổ mủ
nông và sâu, có khi rất to, cục viêm thành cụm 2-3 cái, đi vằn vèo thành hang
hốc với nhiều lỗ rò, nhiều cầu da, nhiều đảo xơ. Thương tổn thường có dịch
màu vàng nhầy dạng sợi hoặc lẫn máu. Sau khi rạch và dẫn lưu dịch lại đầy
trở lại nhanh. Bệnh tiến triển lâu dài, rất dai dẳng, khó chữa[11].

Hình 1.2. Trứng cá mạch lươn



21

1.2.3. Trứng cá sẹo lồi (Acne keloidalis)
Loại trứng cá này chủ yếu gặp ở đàn ông, khu trú ở gáy, vùng rìa tóc,
ngực lưng. Đầu tiên xuất hiện các thương tổn viêm nang ở gáy, sắp xếp thành
đường thẳng hoặc vằn vèo. Dần dần thương tổn tiến triển biến thành nhiều củ
xơ hoặc dải xơ phì đại, gồ lên mặt da trông giống như sẹo lồi, trên bề mặt có
một vài mụn mủ riêng rẽ. Tiến triển lâu dài, cuối cùng tự xẹp thành sẹo phẳng
và trụi tóc vĩnh viễn.

Hình 1.3. Trứng cá sẹo lồi
1.2.4. Trứng cá kê hoại tử (Acne miliaris necrotica)
Còn gọi là trứng cá hoại tử của Boeck do tụ cầu vàng gây nên.
Hoại tử là đặc điểm của loại trứng cá này và nguyên nhân có thể là do
sự mẫn cảm của người bệnh đối với vi khuẩn. Bệnh thường gặp ở nam giới.
Thương tổn khu trú một cách đối xứng ở trán, ở thái dương, rìa tóc. Đầu tiên
là sẩn nang lông màu hồng, thường có ngứa và nhanh chóng biến thành mụn
mủ mầu ngả nâu, bám rất chắc, xung quanh có một bờ viêm tấy mầu hồng.
Dưới vẩy là một ổ loét nhỏ, sau để lại sẹo lõm tồn tại vĩnh viễn.


22

Hình 1.4. Trứng cá kê hoại tử
1.2.5. Trứng cá tối cấp (Acne fulminans)
Là thể hiếm gặp của trứng cá nặng, xuất hiện đột ngột ở bệnh nhân nam
tuổi thanh thiếu niên, có tiền căn mụn trứng cá. Hình ảnh lâm sàng giống mụn
trứng cá cụm, có rất nhiều nốt viêm trên thân mình, lưng, ngực, không có ở
mặt, các nốt lớn hoặc các mảng viêm, tạo thành vết loét đau với bờ nhô cao
bao quanh các mảng hoại tử xuất tiết, lành để lại sẹo. Toàn thân có thể sốt,

gan lách to, thiếu máu, viêm đa khớp. Đau xương có thể liên quan đến tiêu
xương vô trùng, viêm xương tủy xương đa ổ vô trùng. Thể này cần có phương
pháp điều trị đặc biệt [22],[25],[26].
1.2.6. Trứng cá do thuốc (Acne iatrogenic)
Có nhiều loại thuốc gây phát sinh, phát triển bệnh trứng cá. Các
hormon androgen làm tăng hoạt động và phì đại tuyến bã, các steroid gây
sừng hoá nang lông và bít tắc cổ nang lông, các halogen (muối iod và
brom) có trong các muối điều trị bệnh tuyến giáp, thuốc long đờm, thuốc
điều trị hen, thuốc cản quang, phenobacbital, cyclosporin, cimetidin... đều
có thể gây bệnh trứng cá. Tuy nhiên, khi ngừng thuốc một thời gian các tổn
thương bệnh trứng cá sẽ hết [27],[28].


23

1.2.7. Trứng cá nghề nghiệp (Occupational acne)
Do môi trường làm việc gây nên, bệnh nhân tiếp xúc với dầu mỡ, hắc ín
bụi than, bụi mốc... liên tục trong nhiều năm (như công nhân sửa chữa máy
móc, hầm lò....) Bệnh biểu hiện là các nhân, sẩn, mụn mủ và nang như trứng
cá thông thường khu trú ở vùng da hở [29].
1.2.8. Trứng cá trước tuổi thiếu niên (Childhood acne)
Thể này được phân thành 3 loại sau.
- Trứng cá sơ sinh: xuất hiện trong 4 tuần đầu sau đẻ, bé trai hay bị hơn
bé gái do nội tiết tố progesteron ở mẹ truyền sang. Tổn thương có thể tồn tại
trong vài tuần rồi tự khỏi không để lại dấu vết gì.

Hình 1.5. Trứng cá sơ sinh
- Trứng cá tuổi ấu thơ: xuất hiện từ tháng thứ hai sau đẻ, cũng có thể là
do trứng cá sơ sinh tồn tại dai dẳng. Trứng cá loại này có thể kéo dài thành
trứng cá tuổi thiếu niên.

- Trứng cá tuổi thiếu niên: nguyên nhân từ trứng cá trẻ em tồn tại dai
dẳng. Yếu tố gia đình đóng vai trò quan trọng [11],[30].


24

1.2.9. Các loại hình trứng cá khác
- Trứng cá trước chu kỳ kinh nguyệt: tổn thương là những sẩn mủ, có từ
5-10 tổn thương, xuất hiện trước khi có kinh một tuần, thường là do
Luteinizing hormone (LH) ở đỉnh cao kích thích tổ chức đệm của buồng trứng
tiết androgen.
- Trứng cá do mỹ phẩm: thường gặp ở phụ nữ tuổi 25-30, do dùng
các mỹ phẩm không thích hợp hoặc có thói quen sử dụng quá nhiều kem
bôi mặt, dầu làm ẩm da, kem chống nắng [16],[11],[27]. Tổn thương đồng
đều, đứng sát nhau.
- Trứng cá do yếu tố cơ học: thường gặp ở những cô gái trẻ, do có yếu
tố tâm lý lo lắng hay nặn bóp, cào xước tổn thương làm cho bệnh trứng cá
nặng hơn, kết quả để lại các vết sẹo thâm và sẹo teo da.
- Trứng cá nhân loạn sừng gia đình: là do rối loạn di truyền trội, với
đặc điểm có nhiều nhân ở mặt, thân mình, các chi, có thể có sẩn đỏ, mụn
nước, sau khi khỏi để lại sẹo sâu như hố băng, có khi xuất hiện đến giữa
tuổi 40. Mô bệnh học thấy tiêu gai và tế bào loạn sừng ở trong thành của
các lỗ chân lông [15].
- Trứng cá vùng nhiệt đới: loại trứng cá này có đặc điểm là tổn thương
nang lớn, đa dạng ở ngực, lưng và mông. Bệnh xuất hiện ở vùng nhiệt đới vào
mùa hè khi thời tiết nóng ẩm.
1.3. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA BỆNH TRỨNG CÁ THÔNG THƯỜNG
Bệnh trứng cá thông thường chủ yếu gặp ở nam, nữ tuổi vị thành niên
và trưởng thành. Tiến triển của bệnh thường giảm, thậm chí khỏi hẳn sau tuổi
25-30. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều yếu tố tác động như thuốc bôi,

thuốc uống, thức ăn, tác động cơ học, vấn đề tâm lý cũng làm bệnh tiến triển
kéo dài hay chuyển sang các thể nặng khác. Lâm sàng của bệnh rất đa dạng,


25

có thể là nhân trứng cá, sẩn đỏ, sẩn mụn mủ, mụn mủ, cục, nang viêm tấy đỏ,
có thể áp xe nông sâu. Dựa trên lâm sàng người ta chia tổn thương cơ bản của
bệnh trứng cá thông thường ra làm hai loại: Tổn thương không viêm và tổn
thương viêm.

Hình 1.6: Các dạng tổn thương trong bệnh trứng cá
1.3.1. Tổn thương không viêm
- Nhân mở hay nhân đầu đen: tổn thương là những kén bã (chất lipid)
kết hợp với những lá sừng của thành nang lông nổi cao hơn mặt da, làm cho
nang lông bị giãn rộng. Do hiện tượng oxy hoá chất keratin nên đầu nhân
trứng cá bị đen lại tạo thành những nốt đen hơi nổi cao. Loại nhân trứng cá
này có thể tự thoát ra tự nhiên, ít gây tổn thương trầm trọng, tuy nhiên cũng
có thể bị viêm và thành mụn mủ trong vài tuần. Chích nặn sẽ lấy được nhân
có dạng giống trứng của cá mầu trắng ngà.
- Nhân kín hay nhân đầu trắng: loại tổn thương này có kích thước
nhỏ hơn nhân đầu đen, thường mầu trắng hoặc hồng nhạt, hơi gồ cao và
không có lỗ mở trên mặt da. Tổn thương này có thể tự biến mất hoặc
chuyển thành nhân đầu đen, những loại trứng cá này thường gây ra viêm
tấy ở nhiều mức độ khác nhau.


×