Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 3 – 4 tuổi trong trường mầm non (năm 2020)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 31 trang )

MỤC LỤC
STT Nội dung

Trang

1

I.Đặt vấn đề
1. Lý do chọn đề tài

3

2.Mục đích của SKKN

4

3.Đối tượng nghiên cứu của SKKN

5

4. Phạm vi nghiên cứu của SKKN

5

II. Giải quyết vấn đề (Nội dung giải pháp, cải tiến).

6

1. Một số vấn đề lý luận về giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
em trong trường mầm non


6

1.2. Hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho trẻ em trong
trường mầm non.

6

2. Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho trẻ em trong
trường mầm non

7

2.1. Thuận lợi

8

2.2. Khó khăn

9

3. Các biện pháp đã tiến hành.

10

3.1. Xây dựng hệ thống kỹ năng phù hợp độ tuổi và điều
kiện địa phương để dạy trẻ.

10

3.2. Dạy các kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt

động.

12

3.3 Hoạt động tập thể

13

3.4 Dạy kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.

14

3.5 Tuyên truyền với phụ huynh cách dạy trẻ kỹ năng
sống trong gia đình.

15

4. Hiệu quả SKKN

17

3

III. Kết luận, kiến nghị

20

4

IV. Phụ lục ảnh minh họa


22

2

2


I.ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Lý do chọn đề tài:
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lại của dân tộc.
Việc bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ là trách nhiệm của nhà nước, của xã
hội và của mỗi gia đình: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”
Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn bé là vô cùng quan trọng vì giáo dục
nhằm định hướng, hình thành, và phát triển một cách toàn diện nhân cách
cho trẻ. Nói về tầm quan trọng của giáo dục, Bác Hồ từng khẳng
định:“Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế, văn hóa”. Sản phẩm
của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu, là động lực của sự phát
triển đất nước. Mục tiêu, động lực của sự phát triển trong tương lai lại chính
là thế hệ trẻ.
Vì thế, thế hệ trẻ luôn được quan tâm hàng đầu trong xã hội. Xã hội
càng phát triển thì nó càng thúc đẩy quá trình giao lưu văn hoá. Khi đó, con
người Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước nói
riêng càng cần có phẩm chất đạo đức và nhân cách vững vàng để “chống” lại
các tác động bên ngoài như bị dụ dỗ, bị kích động, bị lôi kéo vào các hành vi
tiêu cực, bạo lực, và lối sống ích kỷ; từ đó nhân cách cũng phát triển một
cách lệch lạc. Xã hội hiện nay đã và đang làm thay đổi cuộc sống con người,
nhưng cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Bên cạnh những tác động
tích cực còn có những tác động tiêu cực gây hại cho con người, đặc biệt là
trẻ em. Nếu mỗi người dân trong đó có trẻ em không có những kiến thức cần

thiết để lựa chọn những giá trị sống tích cực, không có những năng lực để
ứng phó, để vượt qua những thách thức mà hành động theo cảm tính thì rất
dễ gặp trở ngại và rủi ro.
Việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung và trẻ em nói
riêng đang trở thành nhiệm vụ quan trọng. Giáo dục kỹ năng sống phải được
đo bằng sự vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống của mỗi cá nhân, để
sống tích cực, sống hạnh phúc và sống có ý nghĩa. Giáo dục kỹ năng sống
3


nhằm giúp phát triển hài hòa, toàn diện về nhân cách. Ngoài ra nó còn giúp
cho trẻ hiểu, biến những kiến thức về kỹ năng sống mà trẻ tiếp nhận được
thành những hành động cụ thể như ứng phó với nhiều tình huống, cách giao
tiếp, cách ứng xử với mọi người và đặc biệt là cách giải quyết những mâu
thuẫn trong các mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực.
Ở các nước trên thế giới, từ nhiều năm qua giáo dục kỹ năng sống được
đưa vào chương trình giảng dạy và được coi như một bộ môn. Những năm
học gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống
vào một số trường mầm non và tiểu học để dạy thí điểm, với phương châm
dạy học hướng vào học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, học sinh chủ động
tham gia và lĩnh hội kiến thức một cách thoải mái thông qua phong trào thi
đua xây dựng “Trường học thân thiện học sinh tích cực” với yêu cầu tăng
cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động của
nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng
tạo.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã chọn nghiên cứu và áp dụng đề tài:
“Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi trong

trường mầm non”, để áp dụng trong năm học 2019 - 2020 này. Với đề tài
trên tôi muốn giúp trẻ có những kĩ năng ban đầu về cuộc sống, có những

kinh nghiệm sống, biết được những điều nên làm và không nên làm giúp trẻ
tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi
khả năng tư duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có
trách nhiệm và có cuộc sống hài hòa trong tương lai.
2. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm:
Nghiên cứu tìm ra các biện pháp nhằm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 3 -4
tuổi. Từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm giúp trẻ tự tin, mạnh dạn, có kĩ
năng giáo tiếp và kĩ năng xử lý tình huống trong mọi lúc, mọi nơi cuộc sống
của trẻ.
3. Đối tượng nghiên cứu của SKKN:
4


Trẻ 3 -4 tuổi trong trường mầm non
4. Phạm vi nghiên cứu của SKKN:
Đưa ra một số biện pháp nhằm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 3 -4 tuổi trong
trường mầm non

5


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ (NỘI DUNG GIẢI PHÁP, CẢI TIẾN)
1. Một số vấn đề lý luận về giáo dục kĩ năng sống cho trẻ em trong trường
mầm non
1.1 Kĩ năng sống và hoạt động giáo dục kĩ năng
Công ước về quyền trẻ em đã khẳng định: Mọi trẻ em đều có quyền phát
triển. Tuyên ngôn về giáo dục mọi người cũng cho rằng: Tất cả các quốc gia
đều phải đảm bảo mọi trẻ em, trong đó có trẻ 4-5 tuổi được nâng cao kỹ
năng sống phù hợp. Chính phủ Việt Nam đã đã ký công ước về quyền trẻ em
và cam kết thực hiện mục tiêu giáo dục cho mọi người theo kế hoạch hành

động: Nâng cao ảnh hưởng của nền giáo dục có chất lượng, đặc biệt là giáo
dục kỹ năng sống.
1.1.1 Kĩ năng sống:
Kỹ năng sống là những kỹ năng cần có cho hành vi lành mạnh, tích cực,
cho phép mỗi cá nhân đối mặt với những thách thức trong cuộc sống hàng
ngày. Kỹ năng sống bao gồm kỹ năng mềm và kỹ năng cứng. Kỹ năng mềm
là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng thuộc trí tuệ, cảm xúc của con người
còn kỹ năng cứng lại là khả năng học vấn và trình độ chuyên môn của bản
thân. Theo nghiên cứu của PGS-TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: Kỹ năng
cứng không đủ để giúp bạn thăng tiến mà cần phải có cả những kỹ năng
mềm. Thực tế cho thấy những người thành đạt chỉ có 25% là do những kiến
thức chuyên môn, 75% còn lại được quyết định bởi kỹ năng mềm – chính là
kỹ năng sống mà họ được trang bị. Để hòa chung với sự phát triển của thế
giới, kỹ năng sống đã và đang được quan tâm rất nhiều ở Việt Nam. Đặc
biệt, là việc xây dựng và phát triển kỹ năng sống cho trẻ em.
1.1.2 Hoạt động giáo dục kĩ năng sống:
Nhiều tác giả cho rằng: “Dạy học là toàn bộ các thao tác có mục đích
nhằm chuyển các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các giá trị văn hóa mà nhân
loại đã đạt được hoặc cộng đồng đã đạt được vào bên trong một con người”.
Dạy trẻ kỹ năng sống là gì: là giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống,
biết điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách
6


ứng xử các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy, sáng tạo
của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và có cuộc sống
hài hòa trong tương lai.
Trong cuộc sống hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan
xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải
lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức,

những áp lực tiêu cực. Thiếu kỹ năng sống, trẻ dễ bị lôi kéo vào các hành vi
tiêu cực, lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách.
Đặc biệt, lứa tuổi mầm non, là giai đoạn nền tảng trong quá trình phát
triển của mọi cá nhân. Ở độ tuổi này, trẻ cần được giáo dục kỹ năng sống ở
cả gia đình và trường mầm non. Điều này giúp trẻ an toàn, khỏe mạnh, tự
lực, tự tin, giàu sáng tạo, sẵn sàng đứng trước cuộc sống. Tuy nhiên, do đặc
thù của lứa tuổi nên khả năng nhận thức của trẻ còn có nhiều hạn chế, trẻ dễ
nhớ, dễ quên và hay hành động theo ý muốn. Vì vậy, dạy những kỹ năng
sống cho trẻ chỉ là những bước đầu giúp trẻ có các kỹ năng như: Biết về bản
thân mình, mạnh dạn tự tin, kỹ năng giao tiếp, tự phục vụ bản thân, biết hợp
tác chơi với các bạn, kỹ năng thích nghi với môi trường,... Để trẻ có được
những kỹ năng ở lứa tuổi này, cô giáo cần nhẹ nhàng, linh hoạt, sáng tạo,
lồng ghép các hoạt động để truyền thụ các kỹ năng cho trẻ. Ngoài ra cô giáo
nên trang bị cho trẻ kiến thức; giúp trẻ có ý thức và niềm tin để thay đổi. Trẻ
phải được thực hành để có kỹ năng. Trẻ cần được hướng dẫn, vận dụng kỹ
năng vào các sinh hoạt thường ngày của trẻ. Điều quan trọng nhất là những
kỹ năng này trở thành một thói quen tốt.
2. Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho trẻ trong trường mầm non:
2.1 Đặc điểm tình hình:
Trường có 9 lớp chia làm 2 điểm. Với tổng số cán bộ giáo viên, nhân viên
gồm 24 người. Cả 2 điểm trường đều được Ban Giám hiệu quan tâm sửa
chữa. Các lớp khang trang thoáng, mát, xanh, sạch đẹp. Xây dựng môi
trường lớp học thân thiện, luôn lấy trẻ làm trung tâm. Các lớp tạo các góc
7


mở hợp lý. Có đầy đủ các đồ dùng, học liệu. Đặc biệt có góc phát triển và
giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.Đội ngũ giáo viên tâm huyết, nhiệt tình, yêu
nghề mến trẻ. Luôn tự học hỏi và nâng cao trình độ. 100% giáo viên đạt
trên chuẩn.

2.2. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Phòng GD - ĐT, thường xuyên tổ chức bồi
dưỡng chuyên môn, các buổi kiến tập để giáo viên được học hỏi nâng cao
trình độ chuyên môn.
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu giúp đỡ bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn. Bổ sung thêm tài liệu về kỹ năng sống cho giáo viên
giúp chúng tôi có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi mầm non có đặc điểm tâm, sinh lý khá đặc biệt, trẻ mới ở
chặng khởi đầu của quá trình nhận thức thế giới nên hầu hết trẻ học rất
nhanh, ghi nhớ rất nhanh; trẻ còn rất nhạy bén trong việc bắt trước người
lớn.
Riêng với trẻ 3- 4 tuổi, cảm nhận về thế giới bên ngoài đã có một bước
phát triển. Trẻ đã biết tự làm một số công việc mang tích chất tự phục vụ
- Bản thân tôi đã có nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở lớp mẫu giáo bé
nên nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, nhất là lứa tuổi 3 - 4 tuổi.
Đời sống của đại đa số người dân ngày càng nâng lên, cùng với xu
hướng gia đình nhỏ, ít con cho nên ngày nay đa số các gia đình đều quan
tâm đến con cái và quan tâm đến việc giáo dục hình thành nhân cách cho trẻ
từ rất sớm.
Khi thực hiện đề tài dạy kỹ năng sống cho trẻ tôi nhận được sự ủng hộ,
giúp đỡ của phụ huynh cũng như của Ban giám hiệu, cùng các chị em đồng
nghiệp trong trường, đặc biệt là sự phối hợp nhịp nhàng của giáo viên cùng
lớp.

8


2.3 Khó khăn:
Tuy nhiên, quá trình thực hiện đề tài cũng còn gặp một số khó khăn và

còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố:
* Về phía trẻ: Ở tuổi mầm non, sự nhận thức của trẻ còn phiến diện,
chưa đa dạng, chưa linh hoạt. Đa số trẻ lần đầu đến lớp nên chưa có nề nếp
và còn khóc.
* Về gia đình: Thực tế hiện nay, không ít cha mẹ bao bọc và thường
làm hộ trẻ nhiều việc.
* Về bản thân: Do đặc thù của giáo viên mầm non, thời gian làm việc
trên lớp trong ngày và trong tuần nhiều, thời gian dành cho sưu tầm tài liệu,
sáng tạo đồ dùng,… còn hạn chế.
Từ những thuận lợi và khó khăn trên tôi đã mạnh dạn đưa ra một số
biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ như sau:
3. Các biện pháp đã tiến hành:
3.1. Biện pháp 1: Xây dựng hệ thống kỹ năng phù hợp độ tuổi và
điều kiện địa phương để dạy trẻ.
3.1.1: Mục đích, ý nghĩa của biện pháp:
Kỹ năng sống là khả năng biết làm, biết thực hiện việc gì đó một cách
tự giác, thành thạo trong mọi hoàn cảnh. Vì vậy, có người nói: Dạy trẻ kỹ
năng sống như vậy có quá sớm không, trẻ có thực hiện được không?.. Theo
tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Cúc chuyên gia tư vấn của ABS training cho biết
"Kỹ năng sống không phải là những gì quá cao siêu, phức tạp. Việc giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ em bao gồm những nội dung hết sức đơn giản, gần gũi
với trẻ là những kiến thức tối thiểu để các em có thể tự lập”.
Học kinh nghiệm sống với trẻ chẳng bao giờ là sớm, có hàng trăm kỹ
năng sống cần thiết với trẻ. Tùy theo lứa tuổi và điều kiện sống của trẻ để
chọn ra nội dung chương trình dưới nhiều hình thức khác nhau. Người giáo
viên phải có nhiệm vụ quan trọng để lựa chọn, xác định được các kỹ năng cơ
bản phù hợp với lứa tuổi và điều kiện sinh hoạt của từng địa phương.
3.1.2 Nội dung của biện pháp;
9



Để việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt hiệu quả, tôi đã học hỏi, tham
khảo những nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non, chọn lọc, lựa
chọn những kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi của trẻ và đặc điểm cụ thể
của nhà trường. Trên cơ sở đó, tôi đưa các nội dung và kế hoạch giáo dục
của năm học, tháng, tuần, ngày theo mức độ từ dễ đến khó. Bên cạnh đó tôi
luôn duy trì tổ chức rèn các kỹ năng đã học cho trẻ.
3.1.3: Cách thức tổ chức thực hiện biện pháp:
Là một giáo viên mầm non, hàng ngày trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ,
ngoài việc tổ chức tốt các hoạt động trong ngày, tôi luôn quan tâm giúp trẻ
hình thành nhân cách, cách ứng xử với con người, với thiên nhiên, giúp trẻ
những kiến thức ban đầu về kỹ năng sống, giúp trẻ phát triển hài hòa cân đối
giữa các mặt để trẻ không bỡ ngỡ, xa lạ trước cuộc sống mới lạ xung quanh.
Trẻ sẽ học tốt nhất khi có được một cách tiếp cận cân bằng về các mặt, các
kỹ năng nhận thức, tình cảm, quan hệ xã hội, các hành vi ứng xử cơ bản với
bạn bè, cô giáo. Trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng vào việc tập
trung tiếp thu các kiến thức ở từng môn học một cách tốt nhất.
3.2. Biện pháp 2: Dạy các kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt
động.
3.2.1. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp
Với trẻ mầm non nói chung thời gian ở trường của trẻ rất nhiều, các
mối quan hệ giao tiếp cũng được thực hiện chủ yếu tại trường.Ở trường trẻ
học được nhiều nhất. Vì thế, trong việc cung cấp các kỹ năng sống cho trẻ,
tôi vẫn luôn lấy trẻ làm trung tâm, bản thân tôi chỉ là người trực tiếp định
hướng những kinh nghiệm sống cho trẻ. Bởi vậy, tôi luôn gương mẫu, yêu
thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Để
phát huy tính tích cực ở trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá, tìm tòi,
biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống
khác nhau tôi luôn cố gắng dạy trẻ mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoạt động.
3.2.2 Nội dung của biện pháp:

10


Thông qua các hoạt động trong ngày của trẻ như: Hoạt động đón trẻ,
hoạt động học, hoạt động vui chơi, hoạt động chiều, hoạt động ngoại khóa,
lễ hội…. tôi thường dạy trẻ một số kỹ năng tự phục vụ như: Trẻ tự cất, lấy
dép đúng nơi quy định, trẻ cất ba lô đúng nơi quy định, trẻ biết giao tiếp,
mạnh dạn, tự tin, có kĩ năng ứng xử với nhau trong khi chơi, trò chuyện.
3.2.3: Cách chức tổ chức thực hiện biện pháp:
Thông giờ đón trẻ tôi giáo dục trẻ kĩ năng tự cất ba lô, cất dép và quần
áo của trẻ vào ngăn tủ. Trẻ biết tự phục vụ mà không cần nhờ đến sự giúp đỡ
của người lớn. Khi trẻ cất dép trẻ biết được quy trình để tháo cởi và buộc
dây ở giày dép đồng thời trẻ cũng biết được vị trí cất giày dép của mình
cũng có ký hiệu
Khi trẻ tự cất ba lô, trẻ biết được quy trình để cất ba lô, biết đó là ngăn
tủ để đựng đồ dùng cá nhân của mình hàng ngày. Tại đó, có dán tên và ký
hiệu để trẻ dễ nhớ và nhận ra tủ của mình.
Khi đón, trả trẻ tôi cũng dạy trẻ một số kỹ năng giao tiếp lễ phép:
Khoanh tay chào cô giáo, bố mẹ hay người đưa đón. Nếu như trước kia việc
rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ chỉ là những câu nói chung chung thì hiện
nay được thay thế bằng những hình ảnh cụ thể mang tính thẩm mỹ và giáo
dục cao. Mà cụ thể là những đoạn video, những hình ảnh có hành vi đúng sai
các đoạn clip hướng dẫn thực hiện các kỹ năng. Trẻ rất hứng thú và đặc biệt
trẻ đã được học những điều gần gũi với cuộc sống một cách nhanh nhất.
Giáo dục thói quen tốt, những kỹ năng cần thiết, định hướng hình
thành nhân cách cho trẻ mọi nơi, mọi lúc trong thời gian trẻ ở trên lớp. Tuy
nhiên để trẻ có thể thực hiện được những kỹ năng thì cần có sự hướng dẫn
của cô giáo. Vì thế tôi đã xây dựng kế hoạch dành riêng 1 buổi chiều trong
tuần, rèn kỹ năng sống và kỹ năng tự phục vụ cho trẻ vào.
Ngoài việc dạy và rèn kỹ năng trong hoạt động buổi chiều tôi còn dạy

rèn kỹ năng thông qua các hoạt động học trên lớp.
Ví dụ 1: Với giờ thể dục khi trẻ học “ chuyền bóng theo hàng dọc”.
11


Trong khi thực hiện bài khởi động trẻ tôi rèn cho trẻ kỹ năng xếp
hàng, tôn trọng kỷ luật, không xô đẩy nhau và giữ khoảng cách với bạn khi
chạy.
Bài vận động tôi rèn cho trẻ biết chờ đợi khi đến lượt mình, khi trò
chơi biết phối hợp với bạn để chuyền bóng cho nhanh không bị rơi, tôi lại
nhấn mạnh giáo dục trẻ kĩ năng hợp tác.
Trẻ mầm non với đặc tính: “Học mà chơi, chơi mà học”. Chơi là một
trong các hoạt động học tập của trẻ và có tác dụng to lớn đối với sự phát
triển toàn diện về nhân cách con người. Thông qua hoạt động vui chơi còn
hình thành ở trẻ những chức năng tâm lý, những cơ sở ban đầu của nhân
cách con người. Việc học qua chơi khiến trẻ cảm thấy thích thú, trẻ cảm thấy
việc tiếp thu kiến thức sẽ nhẹ nhàng thoải mái mà không bị gò bó. Vì vậy, tôi
luôn cố gắng tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của
trẻ. Trong hoạt động vui chơi trẻ có thể tích lũy được kinh nghiệm, kỹ năng
sống đó là qua giờ hoạt động vui chơi của trẻ. Trẻ được chơi ở các góc, chơi
tức là trẻ đang được nhập vai, trẻ đang được học làm giống như người lớn,
thông qua các góc chơi.Với hoạt động góc:
Ví dụ 1: Ở góc phân vai: Thông qua cách đóng vai trẻ học được rèn kỹ
năng thể hiện sự quan tâm với người thân ở các việc làm cụ thể như: Giao
tiếp, ứng xử, biết cách xưng hô, thể hiện tình cảm, biết quan tâm đến mọi
người.
Ví dụ 2: Ở góc rèn luyện kỹ năng: đây là góc mà trẻ được thực hành
những kỹ năng ứng dụng trong cuộc sống: xâu dây giày, cài khuy, tết tóc.
Tôi đã làm những bộ đồ dùng để cho trẻ luyện tập hàng ngày: xúc xắc,
xâu hoa , kéo khóa áo ... Trong giờ hoạt động góc, trẻ luân phiên chơi với

những đồ dùng này, qua đó rèn luyện vận động tinh cho trẻ cũng như củng
cố một số kỹ năng ứng dụng trong cuộc sống.
Thông qua giờ ăn, giờ ngủ.
Ngay từ đầu năm học tôi đã luôn chú ý tới giờ ăn của trẻ, đặc biệt là
những trẻ có thói quen ăn uống không tốt như: Trẻ vừa ăn vừa nói chuyện,
12


xúc cơm vãi, chưa biết nhặt đồ ăn vãi vào khay, trước khi ăn còn chưa tự
giác vệ sinh chân tay sach sẽ, chưa biết lau miệng sau khi ăn, chưa biết cất
bát thìa của mình, ăn xong cũng chưa ý thức được việc vệ sinh răng miệng

Để tạo ra thói quen tốt trong ăn uống tôi đã sưu tầm những đoạn video
về những thói quen xấu khi ăn cho trẻ xem, để trẻ tự thấy được đó là những
thói quen cần phải thay đổi. Cho trẻ xem những đoạn video nói lên tầm quan
trọng, và cần thiết của việc thực hiện các thói quen vệ sinh
Sau khi xem những đoạn video đó xong để có thể thiết lập cho trẻ có
những thói quen này, ban đầu tôi trực tiếp giám sát trẻ để trẻ thực hiện đúng
cách như khi rửa tay thì phải như thế nào, xúc miệng ra sao… sau đó tôi chia
trẻ về thành từng nhóm để tổ chức cho trẻ ôn luyện kỹ năng vệ sinh cá nhân.
Tôi cũng đặc biệt quan tâm đến giờ ngủ của trẻ. Trước khi ngủ tôi cho trẻ
cởi những chiếc áo khoác, gấp áo và lấy gối chuẩn bị chỗ ngủ. Thông qua
giờ ngủ tôi dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ như cởi áo gấp áo, lấy cất gối, sắp
xếp quần áo gọn gàng.
3.3 Biện pháp 3. Hoạt động tập thể:
3.3.1:Mục đích, ý nghĩa của biện pháp;
Giáo dục cho trẻ tính tự tin, đoàn kết, kĩ năng giao tiếp và kĩ năng sống
ngoài xã hội thông qua các hoạt động lễ hội, hoạt động giao lưu, hoạt động
ngoại khóa nhằm phát huy kĩ năng sống cho trẻ.
3.3.2: Nội dung của biện pháp:

Hoạt động tập thể trong trường mầm non được chia làm hai mảng: tổ
chức ngày lễ ngày hội và hoạt động ngoại khóa, hoạt động giao lưu
3.3.3: Cách thức tổ chức thực hiện biện pháp:
Tổ chức ngày lễ ngày hội trong trường mầm non là một hoạt động giáo
dục trong chương trình giáo dục trẻ. Tổ chức ngày hội ngày lễ nhằm mục
đích phát triển trí tuệ, thể chất và chính là nội dung của việc giáo dục thẩm
mỹ. Qua việc chuẩn bị ngày hội ngày lễ như luyện tập văn nghệ cho trẻ giúp
13


rèn cho trẻ kỹ năng tập trung chú ý, kỹ năng nghe và cảm thụ âm nhạc.
Ngoài ra khi tổ chức lễ hội trẻ được giao lưu trò chuyện với bạn, từ đó trẻ có
kỹ năng giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ thành thạo rèn cho trẻ kỹ năng sống
như tinh thần trách nhiệm cao, phối hợp với bạn hoàn thành nhiệm vụ được
giao.
Một trong những phương tiện giúp hình thành kỹ năng cho trẻ đó là hoạt
động ngoại khóa. Thông qua hoạt động ngoại khóa, trẻ được tiếp xúc thực tế
với một số kiến thức trẻ được tìm hiểu trên lớp dưới hình thức hoạt động
ngoại khóa, dã ngoại đó là cơ hội để rèn luyện kỹ năng xã hội một cách tốt
nhất.
3.4. Biện pháp 4:. Dạy kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
3.4.1: Mục đích, ý nghĩa của biện pháp:
Đặc điểm của trẻ “Học mà chơi, chơi mà học”. Vì vậy việc dạy kĩ năng
sống cho trẻ được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi. Giúp trẻ học một cách
nhẹ nhàng, linh hoạt, không bị gò bó phù hợp với đặc điểm tâm lý của trẻ.
3.4.2: Nội dung của biện pháp:
Thông qua biện pháp này trẻ được trải nghiệm, được khám phá, tìm tòi
những điều mới lạ Trẻ có kỹ năng chào hỏi lễ phép với người lớn, biết cảm
ơn và xin lỗi. Có một số kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng thực hiện nhiệm vụ
được giao... giúp hình thành, phát triển khả năng làm việc theo nhóm, tinh

thần tập thể, sự tự tin, và một thói quen sống ngăn nắp gọn gàng, có ý thức
bảo vệ môi trường và sự tự lập cao cho trẻ
3.4.3: Cách thức tổ chức, thực hiện biện pháp:
Tôi nhận thấy rằng, trong các kỹ năng sống thì kỹ năng giao tiếp là một kỹ
năng vô cùng quan trọng. Kỹ năng này sẽ giúp trẻ có nhiều kiến thức về giao
tiếp, từ đó trẻ sẽ có những kỹ năng giao tiếp phù hợp.
Qua việc trò chuyện hàng ngày cùng cô giáo, các bạn và những người
xung quanh giúp trẻ thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho
người khác hiểu. Đây là kỹ năng có vị trí chính yếu so với các kỹ năng khác.
14


Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về ý tưởng hay chính kiến nào đó sẽ trở
nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Từ đó sẽ giúp
trẻ thành thạo hơn trong giao tiếp và trẻ sẵn sàng tiếp nhận mọi thứ.
Một hoạt động khác cũng cung cấp cho trẻ nhiều kỹ năng sống đó là
quá trình “thực hành ” hay nói cách khác giúp đỡ cô trong các hoạt động.
Việc thực hiện nhiệm vụ vừa sức cũng rất quan trọng, giúp cho trẻ có nhiều
kinh nghiệm sống như hiểu được mối quan hệ giữa các đồ vật, hiện tượng
khi thực hiện các nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, hình thức này cũng giúp tôi
nhận ra là những trẻ nào nghe và hiểu được yêu cầu và thực hiện đúng yêu
cầu của mình, những cháu nào còn yếu, chưa tự tin tôi giúp đỡ và bổ sung
những khiếm khuyết đó. Quá trình thực hiện sẽ giúp trẻ có hứng thú hơn và
thích được làm việc. Trẻ quan sát cô làm, từ đó những kinh nghiệm của trẻ
cũng được tích lũy. Ngoài ra thực hiện một số nhiệm vụ còn giúp trẻ ý thức
đó là không chỉ có phục vụ bản thân mà còn giúp đỡ những người xung
quanh mình. Nhờ có biện pháp này mà trẻ lớp tôi tiến bộ rõ rệt.
3.5 Biện pháp 5. Tuyên truyền với phụ huynh cách dạy trẻ kỹ năng
sống trong gia đình.
3.5.1: Mục đích, ý nghĩa của biện pháp:

Tuyên truyền đến nhiều đối tượng xung quanh trẻ, đặc biệt là phụ huynh
học sinh. Ngoài mục đích phối hợp giáo dục trẻ một cách đồng nhất từ gia
đình và nhà trường, giáo viên còn phối hợp với phụ huynh tham gia vào quá
trình giáo dục ở trường, thông qua việc chuẩn bị đồ dùng cho trẻ.
Biện pháp này đã giúp trẻ phát triển đúng tâm lý lứa tuổi, trẻ có rất nhiều
tiến bộ, trẻ có sức khỏe tốt, tự tin, mạnh dạn để học tập và sống tích cực,
phát huy tốt những khả năng và sở trường của mình. Cùng với những bài
tuyên truyền, trao đổi cởi mở với phụ huynh về quan điểm của mình về việc
dạy những kỹ năng sống cho trẻ, từ đó phụ huynh ngày càng tin tưởng, có ý
thức và trách nhiệm cao hơn khi phối hợp cùng cô để dạy những kỹ năng
sống phù hợp cho trẻ.
15


3.5.2: Nội dung của biện pháp:
Tôi trao đổi với phụ huynh qua giờ đón trả trẻ. Qua bảng tuyên truyền ở
lớp, lịch học và giáo dục kĩ năng thông qua kế hoạch hoạt động tháng, hoạt
động tuần, hoạt động ngày của trẻ. Gửi hình ảnh và những yêu cầu cần thiết
cho các hoạt động dạy trẻ qua nhóm za lo của lớp, qua trang fanpage của
trường. Phụ huynh sẽ cùng xem chia sẻ và có sự phối kết hợp kịp thời cùng
giáo viên trong việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
3.5.3: Cách thức tổ chức thực hiện biện pháp:
- Thông báo trước cho phụ huynh về các sự kiện, các hoạt động mà các con
sẽ được học trong năm học qua zalo của nhóm lớp.
- Gợi ý về việc chuẩn bị đồ dùng, sưu tầm tư liệu cho trẻ và đặc biệt là giúp
giáo viên rèn những kỹ năng đã học trên lớp và dạy những kỹ năng khác tại
gia đình.
- Tuyên truyền, giới thiệu vào buổi họp phụ huynh đầu năm.
Đầu năm học 2019- 2020, trong cuộc họp phụ huynh, sau khi triển khai
các nội dung chính, tôi nói với phụ huynh về sự quan trọng của việc giáo

dục cho trẻ những kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ từ đó hình thành những
thói quen tốt cho trẻ ở bậc học mầm non (Bởi những kỹ năng sống được
hình thành ở thời gian này có thể theo trẻ đến suốt cuộc đời về sau, điều mà
đa số phụ huynh đều không nhận thấy và không để ý); Tôi cũng nói với họ
về sự cần thiết và quan trọng của gia đình và sự kết hợp giáo dục từ phía gia
đình. Sau khi họ đã hiểu được mục đích chính đó, tôi giới thiệu với phụ
huynh các hoạt động, sự kiện của năm học và lịch học của lớp mình đặc biệt
là dành một buổi chiều để dạy kỹ năng cho trẻ đó là kỹ năng sống và kỹ
năng tự phục vụ (phát giấy đã được phô tô sẵn). Đề nghị phụ cùng tham gia
vào quá trình giáo dục con em mình, tạo được sự nhất quán trong giáo dục
giữa gia đình và nhà trường.
Chính vì thế trẻ đều có kỹ năng phù hợp và rất tự tin trong giao tiếp. Và
một điều quan trọng hơn mà tôi thu được khi tiến hành công việc trên là
16


được phụ huynh đồng thuận ủng hộ, nhất quán trong việc giáo dục kỹ năng
cho trẻ giữa gia đình và nhà trường, giúp cho trẻ được rèn luyện kỹ năng
thường xuyên”.
4. Hiệu quả sáng kiến:
Qua một năm thực hiện với những biện pháp trên với lứa tuổi 3 -4 tuổi
tôi đã thu được một số kết quả như sau:
4.1. Đối với trẻ:
- Trẻ lớp tôi có sự chuyển biến rõ nét về việc hình thành kỹ năng sống
và kỹ năng tự phục vụ: Giao tiếp, hợp tác làm việc theo nhóm, thể hiện tính
đồng đội, biết chia sẻ, giao tiếp với nhau một cách thân thiện, biết xử lý tình
huống, biết giải quyết vấn đề, biết giải quyết xung đột... Phát triển một số
phẩm chất tốt như: Kiên trì, trung thực, nhường nhịn. Biết một số kỹ năng tự
phục vụ như: Rửa chân tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, tết tóc, biết cất
đồ dùng đúng nơi quy định, cởi và gấp áo ...

Trẻ tự tin, mạnh dạn, linh hoạt nhanh nhẹn hơn rất nhiều.... Trẻ tích cực
và chủ động trong mọi hoạt động, thích tìm tòi và khám phá thế giới xung
quanh.
Bên cạnh đó, thói quen lao động tự phục vụ ở trẻ tốt hơn. Không những
thế ở trẻ còn hình thành những phẩm chất tốt như khả năng phối hợp hoạt
động tốt với các bạn, nhường nhịn bạn, biết chơi cùng bạn và biết giúp đỡ
bạn. Trẻ khỏe mạnh và nhanh nhẹn hơn rất nhiều so với đầu năm học.
4.2. Đối với phụ huynh:
- Phụ huynh luôn coi trọng và tích cực tham gia vào hoạt động giáo dục
trẻ ở lớp; đã có thói quen phối hợp với cô giáo trong việc giáo dục kỹ năng
sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức khác nhau: trao đổi trực
tiếp, trao đổi thông qua bảng thông tin dành cho cha mẹ, qua zalo của nhóm
lớp bảng đánh giá ở lớp của trẻ; tin tưởng cô giáo và phương pháp giáo dục
của nhà trường vì con em mình tiến bộ rõ rệt.

17


4.3. Đối với giáo viên:
- Bản thân tôi nắm chắc nội dung giáo dục kỹ năng sống và kỹ năng tự
phục vụ của trẻ 3 - 4 tuổi. Qua đó chú ý hơn trong việc trò chuyện với trẻ,
tích cực trả lời những câu hỏi của trẻ, giải quyết hợp lý và công bằng trong
mọi tình huống xảy ra trong mọi hoạt động của trẻ
- Trong giảng dạy chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm, được
phụ huynh tin tưởng và trẻ yêu mến, và đồng nghiệp tôn trọng, bản thân tôi
cũng tự tin hơn trong công việc.
Quan trọng hơn là cha mẹ đã hiểu con trẻ hơn. Phần lớn, cha mẹ kiên
trì hơn, dịu dàng hơn và biết lắng nghe hơn trong việc giáo dục trẻ. Đặc biệt,
tôi không còn nhìn thấy cảnh phụ huynh lớp tôi bế trẻ đến trường, cũng
không thấy cảnh bố mẹ phải cất ba lô, quần áo, giầy dép cho con như đầu

năm học… Thay vào đó là bố mẹ dắt tay trẻ đến trường, khi đến lớp trẻ tự
biết cất giày dép và ba lô vào đúng nơi quy định, biết tự giác khoanh tay
chào cô, chào bố mẹ mà không cần nhắc nhở…
Chỉ từ những hành động đơn giản đó của trẻ thôi nhưng điều đó cũng
một lần nữa khẳng định sự tiến bộ vượt bậc của trẻ, của phụ huynh và của
giáo viên sau một năm cố gắng. Và cũng chính điều này đã khiến phụ huynh
tin tưởng vào nhà trường và giáo viên hơn, đặc biệt là tin tưởng hơn vào con
em mình. Chính niềm tin đó sẽ là động lực thôi thúc trẻ cố gắng hơn nữa
trên con đường phấn đấu trở thành “Chủ nhân tương lai của đất nước”.

18


4.4 Bảng tổng hợp, kết quả khảo sát, đánh giá trẻ cuối năm:
STT

Kỹ năng sống

Đầu năm

Cuối năm

Đạt

Chưa đạt

Đạt

Chưa đạt


1

Sự tự tin

7
30%

16
70%

17
74%

6
26%

2

Kỹ năng hợp tác

6
26%

17
74%

18
78%

5

22%

3

Kỹ năng giao tiếp

7
30%

16
70%

19
83%

4
17%

4

Kỹ năng xử lý tình
huống

5
22%

18
78%

17

74%

6
26%

19


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Bài học kinh nghiệm:
Sau khi thực hiện đề tài này với những kết quả đạt được tôi rút ra bài
học kinh nghiệm sau:
Dạy cho trẻ kỹ năng sống là một trong những hoạt động vô cùng quan
trọng mang ý nghĩa rất lớn trong quá trình hình thành nhân cách con người.
Thông qua việc dạy cho trẻ những kỹ năng sống chúng ta hoàn toàn có thể
giáo dục và hình thành cho trẻ những kỹ năng quan trọng của cuộc sống mà
những hoạt động khác khó làm được.
Hãy luôn gần gũi với trẻ và hiểu trẻ đang cần gì, đang muốn gì, hãy tạo
cho trẻ cơ hội được học và chơi một cách thực sự, hãy là những người cha,
người mẹ thông thái để chuẩn bị cho con mình một tương lai tươi sáng, hãy
dành những gì tốt nhất cho con em chúng ta.
2. Ý nghĩa của đề tài:
Từ những nhận định, đánh giá và phân tích như trên, chúng ta có thể
thấy được vai trò to lớn của “kỹ năng sống” với việc hình thành và phát triển
toàn diện nhân cách một con người. Trong giai đoạn hiện nay, nhận thức của
trẻ ngày càng cao đòi hỏi giáo viên mầm non không chỉ yêu nghề, mến trẻ
mà còn phải luôn đổi mới, tự trau dồi kinh nghiệm, nâng cao trình độ của
bản thân nhằm giúp trẻ phát triển tốt nhất về mọi mặt.
Trong năm học này, tôi nhận thấy trẻ lớp tôi đi học đều hơn, trẻ rất
thích đến trường, và tham gia các hoạt động cùng cô và các bạn. Đặc biệt,

trẻ lớp tôi đã có được một số kỹ năng cơ bản như: sống trung thực, tự tin,
hòa động, yêu thương giúp đỡ, hợp tác, đoàn kết ngoài ra trẻ còn có được
một số kỹ năng tự phục vụ đơn giản như cởi mặc áo chải răng, chải tóc, …
3. Khả năng ứng dụng:
Với những kinh nghiệm và biện pháp trên tôi mong muốn mang lại cho
trẻ những trải nghiệm để trẻ hào hứng và tích cực hơn trong hoạt động, như
câu nói “một đứa trẻ được dạy bảo tốt sẽ trở thành người tốt”. Trẻ không
20


những được giáo dục mà còn được học nhiều hơn nữa về cách sống, về tình
cảm của con người, về những phẩm chất đạo đức tốt đẹp và hình thành ở trẻ
những thói quen, những tính cách cần có của con người thế hệ mới nhanh
nhẹn, năng động, đó chính là mục tiêu mà giáo dục hướng tới.
4. Kiến nghị:
Trên đây là một số chia sẻ của tôi về một số biện pháp dạy kỹ năng
sống cho trẻ 3 - 4 tuổi. Những kinh nghiệm này dễ thực hiện và đem lại hiệu
quả cao. Ngoài việc đạt được những mục tiêu giáo dục tôi còn tích lũy được
rất nhiều kỹ năng mới. Tuy nhiên quá trình thực hiện còn nhiều thiếu sót, tôi
rất mong được các đồng chí trong hội đồng khoa học nhà trường góp ý, xây
dựng bổ sung thêm giúp tôi có nhiều kinh nghiệm hơn nữa trong công tác
giáo dục nói chung và dạy kỹ năng sống nói riêng.
I.

PHỤ LỤC:

- Một sô câu chuyện và hình ảnh dạy trẻ kĩ năng sống tại lớp.

Hoàn Kiếm, ngày 12tháng 02 năm 2020
Người viết


Tạ Ngọc Yến

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

Tác giả ( Năm xuất
bản)

Tên tài liệu

Nhà xuất bản

1

GS. TS Nguyễn Quang
Uẩn .Năm xuất bản

Tâm lý học trẻ em

NXB Đại học sư
phạm

PGS. TS Nguyễn Thị
Mỹ Lộc. Năm xuất bản

Giáo dục giá trị sống

và kỹ năng sống cho

NXB Đại học quốc
gia

2012

trẻ mầm non.

2009
2

3

Bộ giáo dục. Năm xuất Chương trình chăm sóc
bản 2016.
giáo dục mầm non và

NXB giáo dục Việt
Nam

hướng dẫn thực hiện
trẻ 24 – 36 tháng tuổi.
4

GS. Nguyễn Thị Hòa.
Năm xuất bản 2015

Giáo dục học mầm non


22

NXB Đại học sư
phạm


PHỤ LỤC
KHEN CON ĐÚNG LÚC
Nhiều bố mẹ khắt khe quá với con, làm con trẻ dễ nhút nhát khi ra
ngoài xã hội. Khi con bạn có ước mơ, đừng dập tắt ước mơ của bé bằng
những lời chê bai. Hãy động viên bé bằng những lời khen. Vì khen ngợi giúp
trẻ phát triển.
Một khảo sát mới đây của Đại học Columbia (Mỹ) cho thấy, cách trẻ
được khen và lý do được khen sẽ góp phần rất lớn, tạo ra sự khác biệt khi
chúng đối diện với thử thách và chịu đựng thất bại ra sao khi lớn lên.
Khi các bé tỏ ra bướng bỉnh, có lỗi …thì bố mẹ thường có những trừng
phạt đánh đòn, không cho đi chơi vào những ngày nghỉ….nhưng điều quan
trọng đối với các bé là bố mẹ chưa chú ý tới, đó là những lời khen nhằm
khuyến khích trẻ phát triển trong học tập hay trong sinh hoạt.
Trong tay các bố mẹ hiện đang có sẵn một công cụ hữu hiệu nhất,
nhưng nhiều bậc cha mẹ không nhận ra được điều đó, công cụ đó chính là
khen ngợi. Nếu sử dụng “khen ngợi” đúng cách, đúng chỗ, đúng mực thì đó
là cách tốt nhất giúp trẻ phát triển những hành vi tốt của mình, và sớm nhận
ra được những lời khen thưởng của cha mẹ là phần thưởng vô giá mà bố mẹ
dành cho mình.
Tâm lý của trẻ là rất khoái được khen ngợi hơn là những lời chê, muốn
được nghe những lời ngọt ngào từ bố mẹ. Nhưng các bé cũng rất tinh ý,
không phải lời khen nào, vào bất kỳ lúc nào cũng có tác dụng tích cực đối
với trẻ. Những lời khen đúng chỗ, động viên đúng lúc, thì những lời khen đó
đã khuyến khích con làm những việc tốt, giúp cho con mình tạo được sự

phấn khởi vui, vẻ vẻ và dễ dàng khi tiếp thu những lời dạy bảo của bố mẹ
hơn.
Khi trẻ mắc lỗi bị bố mẹ đánh, mắng nhiều thì sẽ làm cho trẻ ảnh hưởng
đến cảm xúc và tâm lý. Nhưng khi bé có những thành tích mà nhận được
23


những lời khen từ bố mẹ thì tác dụng trong việc dạy bảo trẻ lại trở lên rất có
lợi và có giá trị. Nhưng khen con là cả một nghệ thuật, các bậc cha mẹ có thể
rèn luyện được những kỹ năng này, đó chỉ là việc diễn tả của bố mẹ về việc
nhìn thấy hay cảm nhận được những thành tích và tiến bộ của con mình.
Kết quả trên cho thấy, khi trẻ được khen với những lời khen trân thành,
đúng chỗ và cụ thể đều có tác dụng tích cực cho trẻ. Đó chính là sự khích lệ
trẻ, đem lại lòng tự tin, kích thích tiềm năng sáng tạo, làm động cơ cho trẻ
tích cực học tập và lao động… giúp trẻ phát triển.

24


DẠY CON TỰ LẬP NGAY TỪ KHI CÒN BÉ
“Nếu như bắt cho con một con cá, con sẽ có cá ăn một ngày. Nhưng nếu dạy
con bắt cá, con sẽ có cá ăn cả đời”.
Xuất phát từ tư duy này, cha mẹ và cô giáo nên dạy con tính tự lập,
sống bằng đôi tay của mình ngay từ nhỏ. Với mỗi độ tuổi khác nhau, chúng
ta nên đặt ra mục tiêu và cách thực hiện các bước khác nhau để dạy trẻ về
tính tự lập theo phương châm “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của
mình”. Và theo đúc kết của các chuyên gia tâm lý có 6 bước giúp con trẻ
sống tự lập.
5 bước dạy cho trẻ kĩ năng sống có tính tự lập
Bước 1: Dạy cho trẻ những kỹ năng rèn luyện cần thiết

Trước hết, cha mẹ phải dạy con tự lập sống dựa vào chính đôi tay của mình
ngay từ khi còn nhỏ. Trẻ em từ 2 tuổi trở đi đã dần nhận thức được mọi thứ
xung quanh và đây cũng là giai đoạn quan trọng để cha mẹ áp dụng phương
pháp dạy trẻ 2 tuổi hiệu quả nhất. Trẻ phải thành thục những kỹ năng cơ bản
phù hợp với lứa tuổi như:
- Kỹ năng chăm sóc bản thân: Bé nên biết tự dọn dẹp đồ chơi, tự thay quần
áo, tự đánh răng, tự đi, tự ăn…
- Kỹ năng giữ gìn vệ sinh: Bé nên biết đi vệ sinh đúng nơi, xả nước sau khi
đi vệ sinh, cho quần áo bẩn vào máy giặt, bỏ rác đúng nơi quy định…
- Kỹ năng giúp đỡ người khác: là một trong những cách nuôi dạy trẻ 4 tuổi
bố mẹ nên cho trẻ biết giúp đỡ người khác là một việc tốt và nên được thực
hiện thường xuyên. Những công việc nhẹ, bé có thể giúp được như bật quạt,
bật tivi (vị trí thấp), lấy chén ăn cơm, xách phụ đồ đạc, tưới cây…
Bước 2: Cha mẹ phải kiên nhẫn khi con mình cố gắng tự lập
Khi con trẻ cố gắng làm một điều gì đó vì tính tò mò hoặc cũng có thể là bắt
chước người khác thì cha mẹ phải kiên nhẫn chờ đợi xem con đã làm đúng
hay chưa. Đó cũng là phương pháp nuôi dạy trẻ từ 0 đến 6 tuổi biết cách xử
lý và giải quyết vấn đề theo hướng tích cực.
Ví dụ: Bé đang cố gắng mang giày vào chân, bạn nên hướng dẫn cách mang
giày nhưng không nên nóng vội mà trực tiếp làm thay bé.
Bước 3: Xây dựng tính tổ chức ngay tại gia đình
Mọi hoạt động và việc làm của các thành viên trong gia đình đều có thể
được bé ghi nhận lại và sẽ bắt chước làm theo. Bạn có thể chú ý hoặc nghe
25


những câu hỏi từ trẻ và từ đó tìm ra cách dạy trẻ tự lập hợp lý nhất. Đó cũng
chính là một phương pháp dạy trẻ 5 tuổi mà phụ huynh cần tham khảo.
Ví dụ: Khi bạn nhặt rau, bạn nên giải thích và hướng dẫn để con bạn có thể
hiểu cách nhặt rau và tại sao phải nhặt rau, từ đó, bé hình thành suy nghĩ và

hành động đúng đắn về các công việc phụ giúp gia đình.
Bước 4: Phân công công việc cho bé
Mỗi người trong gia đình đều có công việc riêng nhưng trách nhiệm chung
vẫn là vun đắp cho tổ ấm. Vì vậy, mỗi phương pháp giáo dục trẻ từ độ tuổi
mầm non của bố mẹ đều ảnh hưởng tới thói quen của con mình.
Ví dụ: Khi bố đi làm về thì bé có thể giúp bố cất áo, cất nón và các hành
động này nên được khuyến khích lặp lại thường xuyên. Đây là kỹ năng và là
cách dạy trẻ 5 tuổi mà nhiều phụ huynh áp dụng thành công.
Bước 5: Dạy con kỹ năng sống bằng cách khuyến khích trẻ làm việc
Việc dạy con kỹ năng sống bằng cách khen ngợi đem đến những biểu hiện
tích cực cho bé. Bé sẽ vui mừng hơn khi được cha mẹ khen ngoan, khen
giỏi. Điều này sẽ khuyến khích những hành động tốt của bé trở thành thói
quen, hình thành tính cách cho bé sau này.
Bố mẹ cũng nên khen thưởng bằng những món quà nho nhỏ để bé càng thích
thú hơn. Tuyệt đối không nên thưởng tiền khi bé chưa bé hiểu hết được giá
trị của nó.

26


×