Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.3 KB, 19 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực.
1.1.1. Các quan niệm về nguồn nhân lực.
Theo Từ điển thuật ngữ của Pháp, nguồn nhân lực xã hội bao gồm những
người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và mong muốn có việc làm.
Như vậy theo quan điểm này thì những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động nhưng không muốn có việc làm thì không được xếp vào nguồn
nhân lực xã hội.
Ở Úc xem nguồn nhân lực là toàn bộ những người bước vào tuổi lao
động, có khả năng lao động. Trong quan niệm này không có giới hạn trên về
tuổi của nguồn lao động.
Theo Liên Hợp quốc, Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, kiến thức
năng lực, toàn bộ cuộc sống của con người hiện có, thực tế hoặc tiềm năng để
phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng .
Nhân lực dưới góc độ từ và ngữ là danh từ (từ Hán Việt): nhân là người,
lực là sức. Ngay trong phạm trù sức người lao động cũng chứa một nội hàm rất
rộng. Nếu dừng lại ở các bộ phận cấu thành đó là sức óc, sức bắp thịt, sức
xương… Sức thể hiện thông qua các giác quan mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, da
cảm giác… Còn chất lượng của sức lao động đó là trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn kỹ thuật, lành nghề…
Nếu xét theo nghĩa rộng, toàn bộ tổng thể nền kinh tế được coi là một
nguồn lực thì nguồn lực con người (Human Resources) là một bộ phận của các
nguồn lực trong nền sản xuất xã hội. Chẳng hạn nguồn lực vật chất (Physical
Resources), nguồn lực tài chính (Financial Resources)…
Theo quan điểm của tổ chức Liên Hợp Quốc, nguồn nhân lực là trình độ
lành nghề, kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống, sức khỏe con người
hiện có, thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng
đồng.
Đại từ điển kinh tế thị trường, nguồn nhân lực là nhân khẩu có năng lực
lao động tất yếu, thích ứng được với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nhân


lực là chỉ tổng nhân khẩu xã hội, là nguồn tài nguyên. Tài nguyên nhân lực là
tiền đề vật chất của tái sản xuất xã hội. Tài nguyên nhân lực vừa là động lực vừa
là chủ thể của sự phát triển, có tính năng động trong tái sản xuất xã hội. Chính
vì lẽ đó khi phân tích về nguồn tài nguyên nhân lực, phải xem xét nó trong mối
quan hệ với tốc độ tăng dân số, sự phát triển của giáo dục đào tạo, nâng cao
phẩm chất của người dân, và những điều kiện vật chất cần thiết đảm bảo tái sản
xuất sức lao động, tái sản xuất nguồn lực cho xã hội [42-1064].
Có ý kiến cho rằng: nguồn lao động bao gồm những người trong độ tuổi
lao động, có khả năng lao động. Như vậy, nguồn nhân lực rộng hơn nguồn lao
động; bởi nguồn nhân lực bao gồm cả những người ngoài tuổi lao động thực tế
có tham gia lao động. Tuy nhiên, “Ở chừng mực nào đó, có thể coi nguồn lao
động hay nguồn nhân lực, đồng nhất về số lượng, cả hai cùng bao gồm những
người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, cũng như cả người ngoài
tuổi lao động có nhu cầu và khả năng tham gia lao động” [25.29].
Nguồn nhân lực là tổng hợp tiềm năng lao động của con người trong một
quốc gia, một vùng, một khu vực, một địa phương trong một thời điểm cụ thể
nhất định. Tiềm năng của nguồn nhân lực bao gồm thể lực, trí lực và tâm lực
(đạo đức, lối sống, nhân cách và truyền thống, lịch sử, văn hóa, dân tộc) của bộ
phận dân số có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội. “Chúng tôi hiểu
sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh
thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó
đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [10. 217].
Đề cao vai trò của yếu tố con người cũng là nét nổi bật trong tư tưởng
kinh tế của Karl Marx với tư tưởng chủ đạo: chỉ có lao động mới tạo ta giá trị
nguồn gốc duy nhất của mọi của cải trong xã hội. Tư tưởng này có ý nghĩa quan
trọng; nó cho thấy tiến bộ kỹ thuật không hề làm giảm ý nghĩa của yếu tố con
người mà ngược lại, cùng với quá trình áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất con người cùng với tiềm năng trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng.
Nguồn nhân lực của xã hội bao gồm những người trong độ tuổi lao động
(theo Bộ Luật Lao động) và ngoài độ tuổi lao động nhưng có khả năng hoặc sẽ

tham gia lao động. Số lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên và độ tuổi lao động; chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào sự nghiệp
giáo dục đào tạo và thể chất người lao động, yếu tố di truyền, nhu cầu sử dụng
lao động ở địa phương. Trong một chừng mực nào đó nguồn nhân lực đồng
nghĩa với nguồn lao động, nhưng nói về nguồn nhân lực là nói tới chất lượng
của lao động.
Đề cập đến nguồn nhân lực, việc sử dụng nguồn nhân lực liên quan đến
việc làm. Đây chính là tiêu chí xác định hiệu quả nguồn nhân lực. Guy Hân-tơ,
chuyên gia Viện phát triển hải ngoại Luân đôn đã đưa ra định nghĩa: “ Việc làm
theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả
những gì quan hệ đến cách thức kiếm sống của con người, kể cả các quan hệ xã
hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế”
[30.62].
1.1.2 Phát triển nguồn nhân lực.
Từ khái niệm về nguồn nhân lực, chúng ta có thể hiểu về phát triển nguồn
nhân lực là gia tăng giá trị cho con người trên các mặt đạo đức, trí tuệ, kỹ năng
lao động, thể lực, tâm hồn… Để họ có thể tham gia vào lực lượng lao động,
thực hiện tốt quá trình sản xuất và tái sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm, góp phần
làm giàu cho đất nước làm giàu cho xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực được xem xét trên hai mặt chất và lượng. Về
chất phát triển nguồn nhân lực phải được tiến hành trên cả ba mặt: phát triển
nhân cách, phát triển trí tuệ, thể lực, kỹ năng và tạo môi trường thuận lợi cho
nguồn nhân lực phát triển; về lượng là gia tăng số lượng nguồn nhân lực, điều
này tùy thuộc vào nhiều nhân tố trong đó dân số là nhân tố cơ bản.
Bất kỳ quá trình sản xuất nào cũng có 3 yếu tố: sức lao động, đối tượng
lao động và tư liệu lao động. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực chính là đầu tư
vào các các yếu tố của quá trình sản xuất. Cần lưu ý rằng trong tất cả các yếu tố
đầu tư thì đầu tư vào con người, đầu tư cho nguồn nhân lực là đầu tư quan trọng
nhất. Đầu tư cho con người được thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau, chẳng
hạn: giáo dục tại nhà trường, đào tạo nghề nghiệp tại chỗ, chăm sóc y tế….

Phát triển nguồn nhân lực dưới góc độ của một đất nước là quá trình tạo
dựng một lực lượng lao động năng động, thể lực và sức lực tốt, có trình độ lao
động cao, có kỹ năng sử dụng, lao động có hiệu quả. Xét ở góc độ cá nhân thì
phát triển nguồn nhân lực là việc nâng cao kỹ năng, năng lực hành động và chất
lượng cuộc sống nhằm nâng cao năng suất lao động. Tổng thể phát triển nguồn
nhân lực là các hoạt động nhằm nâng cao thể lực, trí lực của người lao động,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất. Trí lực có được nhờ quá trình đào tạo và tiếp
thu kinh nghiệm. Thể lực có được nhờ vào chế độ dinh dưỡng, rèn luyện thân
thể và chăm sóc y tế, môi trường làm việc….
1.1.3. Sự cần thiết khách quan phát triển nguồn nhân lực.
Sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi phải có nguồn nhân
lực không chỉ về chất lượng và số lượng mà còn phải có một cơ cấu đồng bộ.
Nguồn nhân lực được coi là vấn đề trung tâm của sự phát triển. Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định “nguồn lực con người - yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [40,108] “con
người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [40,201]. Nguồn lực con người là điểm cốt
yếu nhất của nguồn nội lực, do đó phải bằng mọi cách phát huy yếu tố con
người và nâng cấp chất lượng nguồn nhân lực.
Vai trò và vị trí của nguồn nhân lực đối với sự phát triển của đất nước
ngày càng cao đặc biệt đối với khoa học xã hội và nhân văn. Nó là cơ sở “cung
cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối chính sách phát triển kinh
tế xã hội, xây dựng con người, phát huy những di sản văn hóa dân tộc, sáng tạo
những giá trị văn hóa mới của Việt Nam” [40,112].
Trong chương trình KX - 05 “Xây dựng văn hóa, phát triển con người và
nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đã phản ánh một
cách đầy đủ và súc tích về mối quan hệ các vấn đề văn hóa, con người nguồn
nhân lực gắn quyện với nhau: hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con
người tạo ra qua giáo dục lại trở lại với con người được con người thừa kế và
phát triển, phải trở thành sức mạnh ở mỗi con người cũng như trong từng tập thể

lao động thành vốn người, nguồn lực con người tạo ra các giá trị mới, đáp ứng
nhu cầu phát triển của từng người nhóm người, đội lao động, tập thể một đơn vị
sản xuất, kinh doanh đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nói chung và của
từng tế bào kinh tế nói riêng.
Sự cần thiết khách quan phát triển nguồn nhân lực xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau. Trước hết sự phát triển nguồn nhân lực xuất phát từ
nhu cầu về lao động. Sở dĩ như vậy bởi yêu cầu phát triển của xã hội nguồn
nhân lực xã hội ngày càng tăng nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng lớn,
ngày càng phong phú đa dạng. Điều đó tất yếu xã hội phải tạo ra nhiều của cải
theo đà phát triển ngày càng tăng của xã hội; nghĩa là lực lượng tham gia vào
các hoạt động của nền sản xuất xã hội phải ngày càng nhiều, chất lượng lao
động phải ngày càng nâng lên, phải nâng cao trình độ trí tuệ và sức sáng tạo của
con người hay nói cách khác phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tạo ra
một đội ngũ lao động có trình độ ngày càng cao mới đáp ứng được yêu cầu đó.
Sự cần thiết phải nâng cao trình độ sức lao động còn cần thiết ở chỗ từ
nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Khi kinh tế phát triển
mạnh hơn, xã hội trở nên văn minh hơn thì con người luôn luôn được hoàn thiện
ở cấp độ cao hơn. Đến lượt nó đòi hỏi việc nâng cao trình độ tri thức của người
lao động; nghĩa là không phải chỉ do yêu cầu thực tiễn của sản xuất mà do yêu
cầu đòi hỏi từ chính bản thân con người, hay nói cách khác, chất lượng của
nguồn nhân lực sẽ tăng lên là điều tất yếu trong tiến trình phát triển của nền sản
xuất xã hội.
Sự phát triển của nguồn nhân lực còn là một tất yếu do tiến trình phát
triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là sự phát triển của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ, yêu cầu khoa học của tính đồng bộ trong tiến trình phát triển.
Đối với Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế,
chất lượng nguồn nhân lực tăng lên không chỉ có ý nghĩa để sử dụng các thành
tựu mới của khoa học công nghệ mà còn có điều kiện để sáng tạo ra các tư liệu
lao động mới. Hơn thế quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa yêu cầu nguồn
nhân lực phải có sự chuyển biến về chất từ lao động thủ công sang lao động cơ

khí và lao động trí tuệ.
Sự phân tích trên cho thấy nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng, việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là một tất yếu
khách quan, là xu thế phát triển của thời đại là yêu cầu tất yếu của quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hoá là sự cần thiết khách quan đối với Việt Nam nói
chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng. Một nguồn nhân lực chất lượng cao là tiền
đề, là cơ sở quyết định sự thành bại trong công cuộc xậy dựng và phát triển đất
nước. Hơn nữa nguồn nhân lực chất lượng cao còn là nhân tố khắc phục được
những hạn chế của đất nước về tài nguyên thiên nhiên, môi trường, vị trí địa
lý… Là cách duy nhất để đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu thúc
đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh bền vững.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển nguồn nhân lực.
1.2.1. Dân số, giáo dục - đào tạo.
Như chúng ta đều biết bất kỳ một quá trình sản xuất xã hội nào cũng cần
có 3 yếu tố: sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động; trong đó sức
lao động là yếu tố chủ thể của quá trình sản xuất; nó không chỉ làm “sống lại”
các yếu tố của quá trình sản xuất mà còn có khả năng sáng tạo ra các yếu tố của
quá trình sản xuất. Điều đó chứng tỏ vai trò của nguồn nhân lực có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng. Trong các nguồn nhân lực sẵn có thì chất lượng nguồn nhân lực
có ý nghiã đặc biệt quan trọng. Như đã phân tích trên để cải biến đối tượng lao
động thông qua tư liệu lao động phải sử dụng lao động chân tay, song để sáng
tạo ra các đối tượng lao động và tư liệu lao động mới tất yếu cần đến đội ngũ
lao động trí óc.
Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trước hết phải
kể đến là sức khỏe của nguồn nhân lực. Đây là một yêu cầu tất yếu, tiên quyết
và không thể thiếu. Bởi sức khỏe là nhân tố quyết định để duy trì sự tồn tại, là
cơ sở cốt yếu để tiếp nhận, duy trì và phát triển trí tuệ. Hơn thế, chỉ có sức khỏe
mới là cơ sở cho giáo dục đào tạo tốt hơn, mới hình thành được nguồn nhân lực
có sức khỏe tốt không chỉ về thể trạng mà cả nội dung bên trong của nó nguồn
nhân lực có chất lượng cao.

Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ thì vai trò của đội ngũ trí thức, lao động chất xám ngày càng tăng và
càng có ý nghĩa quyết định. Điều này đã được Karl Marx dự báo khoa học về
vai trò của lao động trí tuệ: đến một trình độ nào đó, tri thức xã hội biến thành
lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự tiên đoán của Karl Marx đã trở thành hiện thực
trong điều kiện ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Trí tuệ - lao động trí tuệ là nhân tố quan trọng hàng đầu đội ngũ nguồn
nhân lực trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội ngày nay. Trí tuệ của nguồn
nhân lực được thể hiện thông qua tri thức. Tuy nhiên, tri thức chỉ thực sự trở
thành nguồn lực khi nó được con người tiếp thu, làm chủ và sử dụng chúng.
Hơn nữa dù máy móc công nghệ hiện đại đến đâu mà không có phẩm chất và
năng lực cao, có tri thức khoa học thì không thể vận hành để làm “sống lại” nó
chứ chưa nói đến việc phát huy tác dụng của nó thông qua hoạt động của con
người.
Việc phân tích nhân tố trên đây cho thấy vai trò của nguồn nhân lực nói
chung đặc biệt là nguồn lao động chất xám lao động trí tuệ là hết sức cần thiết,
nhân tố đóng vai trò quyết định đối với nguồn nhân lực của xã hội, đánh dấu
bước phát triển của một xã hội nhất định trong điều kiện quốc tế hóa, toàn cầu

×