CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG Ở CÔNG TY
NGHIỆP QUẢNG.
- Hành vi người tiêu dùng.
Mục đích của marketing là thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của
người tiêu dùng. Muốn vậy ta phải hiểu được người tiêu dùng muốn gì,
khi nào,…điều gì khiến họ chọn và có thể thay đổi quyết định của mình,
đây là một việc làm không hề đơn giản. Nhưng muốn thành công thì đây
là khâu không thể bỏ qua hay xem nhẹ.
Trước tiên ta xem xét mô hình hành vi người tiêu dùng.
Các tác nhân
marketing
Các tác nhân khác
Sản phẩm
Giá
Địa điểm
Khuyến mại
Kinh tế
Công nghệ
Chính trị
Văn hóa
Đặc điểm của
người mua
Quá trình quyết định
của người mua
Văn hóa
Xã hội
Cá tính
Tâm lý
Nhận thức nhu cầu
Tìm kiếm thông tin
Đánh giá
Quyết định
Hành vi
Quyết định của người mua
Lựa chọn sản phẩm
Lựa chọn nhãn hiệu
Lựa chọn đại lý
Định thời gian mua
Định số lượng mua.
Ta thấy rằng có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình mua sắm
của người tiêu dùng. Quá trình này mang tính chất phức tạp. Sau đây
chúng ta nghiên cứu một số yếu tố thuộc nhóm yếu tố đặc điểm của
người tiêu dùng tác động đến quá trình nhận thông tin của người tiêu
dùng khi họ là đối tượng truyền thông của các tổ chức.
1. Những yếu tố tâm lý.
1.1. Động cơ.
Con người sống và phát triển thì tại bất kỳ thời điểm nào cũng có
nhu cầu. đó có thể là nhu cầu mang tính bẩm sinh như đói khát…chúng
hình thành từ những trạng thái căng thẳng về sinh lý. Một số nhu cầu
khác có nguồn gốc từ tâm lý, chúng nảy sinh từ những căng thẳng về
tâm lý, như nhu cầu được thừa nhận, được gần gủi về tinh thần. Và một
nhu cầu trở thành động cơ khi nó tăng đến một mức độ đủ mạnh. Hay
một động cơ là một nhu cầu có đủ sức để thôi thúc người ta hành động.
Việc thỏa mãn nhu cầu sĩ làm giảm bớt căng thẳng.
Các nhu cầu được nhà tâm lý học Maslow sắp xếp thành tháp nhu
cầu như sau:
Nhu cầu khẳng định
Nhu cầu được tôn trọng
Nhu cầu xã hội
Nhu cầu an toàn
Nhu cầu sinh lý
Theo Abraham Maslow thì tại những thời điểm khác nhau, người ta
bị thôi thúc những nhu cầu khác nhau, lúc đó người ta bỏ ra nhiều thời
gian và sức lực để thõa mãn nhu cầu, ông cho rằng nhu cầu được sắp
xếp theo thứ bậc từ cấp thiết nhất đến ít cấp thiết nhất. Con người sẽ cố
gắng thỏa mãn truớc hết là những nhu cầu quan trọng nhất. Khi con
nguời đã thỏa mãn được nhu cầu quan trọng nào đó thì nó sẽ không
phải là động cơ hiện thời nữa, và con ngừơi ta lại cố gắng thỏa mãn nhu
cầu quan trọng tiếp theo.
1.2 Nhận thức.
Một người có động cơ luôn sãn sang hành động. Vấn đề người có
động cơ sẽ hành động như thế nào trong thực tế còn chịu ảnh hưởng từ
sự nhận thức của người đó về tình huống lúc đó. Cùng một tình huống
nhưng chúng ta lại có nhận thức khác nhau, đây là do nắm bắt sự vật
thông qua năm giác quan của mình. Nhưng mỗi người lại có sự suy xét,
tổ chức giải thích thông tin cảm giác đó theo cách riêng của mình. Nhận
thức được định nghĩa là “một quá trình thông qua đó cá thể tuyển chọn,
tổ chức và giải thích thông tin đầu vào để tạo ra một bức tranh có ý
nghĩa về thế giới xung quanh” nhận thức không chỉ phụ thuộc vào
những tác nhân vật lý mà còn phụ thuộc vào cả mối quan hệ của các tác
nhân đó với môi trường xung quanh.
Người ta có những nhận thức khác nhau về cùng một khách thể do
có ba quá trình nhận thức:
Sự quan tâm có chọn lọc: một con người một ngày tiếp xúc với rất
nhiều tác nhân kích thích. Nhưng họ không chú ý đến tất, mà phần
lớn các tác nhân đó bị sàng lọc. Người ta thường chú ý đến các tác
nhân sau: những tác nhân kích thích có liên quan đến một nhu cầu
hiện có; những tác nhân mà họ mong đợi; những tác nhân kích
thích có những điểm khác biệt hẳn với những tác nhân thông
thường.
Sự bóp méo có chọn lọc: các tác nhân kích thích đã được chú ý
đến cũng không nhất thiết sẽ được tiếp nhận như dự kiến. sự bóp
méo thông tin có chọn lọc mô tả khuynh hướng con nguời muốn
gán cho thông tin những ý nghĩa của cá nhân.
Sự ghi nhớ có chọn lọc: người ta sẽ quên đi nhiều cái mà họ đã
học. Họ có khuynh hướng giữ lại những thông tin ủng hộ thái độ
và niền tin vủa mình