Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.64 KB, 32 trang )

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Bản chất của ngân hàng thương mại.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, Ngân hàng thương mại ra
đời là một tất yếu khách quan do đòi hỏi của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Qua quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
NHTM đang dần dần hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ cơ bản của mình.
Ở Việt Nam, theo Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng: “Tổ chức tín
dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của này và các quy định
khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với
nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch
vụ thanh toán khác”.
Qua những khái niệm trên có thể thấy ngân hàng thương mại là một
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, có hai hoạt động cơ bản:
- Nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, cá nhân, các tổ chức, cơ quan nhà
nước và các tổ chức tín dụng tài chính khác kể cả trong nước và ngoài nước.
- Sử dụng các nguồn vốn nói trên để cho vay hoặc chiết khấu và cung ứng
các sản phẩm dịch vụ khác cho nền kinh tế.
Cho đến ngày nay, một ngân hàng thương mại hiện đại có thể có tới hơn
300 sản phẩm dịch vụ các loại để phục vụ cho các yêu cầu ngày càng phong
phú, đa dạng của mọi đối tượng khách hàng. Tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu một
số chức năng chủ yếu của ngân hàng thương mại trong cơ chế thị trường.
1.1.2. Chức năng của NHTM.
1.1.2.1. Chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán.
Chức năng thủ quỹ là chức năng đầu tiên của NHTM, gắn liền với sự ra
đời của NHTM và làm cơ sở cho Ngân hàng thực hiện các chức năng tín dụng,
thanh toán và các dịch vụ khác.
Ngay từ khi các NHTM chưa ra đời, các thương gia buôn bán lớn có một
lượng của cải dư thừa thường gửi vào các tiệm kim hoàn hoặc gửi những người
nhận giữ hộ tiền với mục đích cất trữ an toàn nguồn vốn dư thừa đó. Về sau các


cá nhân và các doanh nghiệp cũng tiến hành việc gửi tiền và ngoài mục đích an
toàn ra họ còn có mong muốn được hưởng các dịch vụ khác như thanh toán, bảo
lãnh, chi trả hộ và khi đó NHTM chính thức ra đời.
Như vậy NHTM ra đời với chức năng đầu tiên là làm thủ quỹ cho các cá
nhân và doanh nghiệp gửi tiền, sau đó thực hiện việc thanh toán hộ cho khách
hàng dựa trên tài khoản mà khách hàng mở tại Ngân hàng thông qua việc khách
hàng uỷ nhiệm cho Ngân hàng thu hộ, chi hộ.
Với chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán, NHTM đã thực hiện
việc luân chuyển, thanh toán những khối lượng vốn lớn và trên phạm vi rộng.
Việc thanh toán qua Ngân hàng đã giảm bớt được khối lượng tiền mặt lưu
thông, giảm chi phí giao dịch, chi phí thanh toán và hạn chế rủi ro trong quá
trình thanh toán, góp phần tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng tốc độ lưu thông
tiền tệ trong nền kinh tế.
1.1.2.2. Chức năng trung gian tín dụng.
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM, nó có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thực hiện chức năng
này, một mặt, NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay.
Mặt khác, trên cơ sở vốn đã huy động được Ngân hàng tiến hành việc cho vay
để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của các chủ thể cần vốn
trong nền kinh tế, điều đó đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy sản xuất
kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, NHTM vừa là người đi vay,
vừa là người cho vay, hay nói cách khác nghiệp vụ tín dụng của NHTM là đi
vay và cho vay.
Hơn nữa, tín dụng Ngân hàng còn là một trong những nguồn hình thành
vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng Ngân hàng đã
góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh được liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, động viên vật
tư hành hoá đưa vào hoạt động sản xuất lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy
tiến bộ kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Đối với NHTM hoạt động tín

dụng là hoat động chủ yếu mang lại nguồn thu lớn nhất cho Ngân hàng, bên
cạnh đó nó cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro.Vì vậy Ngân hàng nghiên
cứu, áp dụng biện pháp quản lý nhằm mở rộng hoạt động và đảm bảo an toàn
tín dụng.
1.1.2.3. Chức năng tạo tiền.
Qúa trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín
dụng và thanh toán trong hệ thống Ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ
thống Ngân hàng trung ương của mỗi nước. Khả năng tạo tiền là khả năng biến
mức tiền gửi ban đầu tại một Ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản
tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua
nhiều Ngân hàng. Một Ngân hàng này cho vay xong là hết vốn, thì số vốn đó lại
chuyển sang Ngân hàng khác trở thành vốn tiền gửi và làm tăng thêm vốn tiền
gửi của các Ngân hàng khác.
Chức năng tạo tiền của hệ thống NHTM liên quan chặt chẽ với chính
sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Thông qua đó Ngân hàng Trung ương
có thể tăng hay giảm lượng tiền cung ứng bằng việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt
buộc nhằm điều tiết vĩ mô, ổn định nền kinh tế.
1.1.3. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại
Theo Từ điển thuật ngữ tài chính tín dụng: “ Nghiệp vụ ngân hàng là
những sản phẩm mà ngân hàng thực hiện trong việc huy động các nguồn vốn
tiền tệ và đầu tư số vốn huy động được, cấp tín dụng, phục vụ thanh toán cho
khách hàng và làm các dịch vụ khác theo sự uỷ thác của khách hàng”.
Các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại được thể hiện ở nội
dung các khoản mục thuộc bảng tổng kết tài sản hay bảng cân đối kế toán của
ngân hàng và có thể phân chúng thành ba nhóm: Các nghiệp vụ Tài sản Nợ, các
nghiệp vụ Tài sản Có và các nghiệp vụ trung gian.
1.1.3.1 Tiền gửi
Với nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng sẽ huy động vốn của các doanh
nghiệp, cá nhân, các tổ chức kinh tế qua tài khoản séc, tài khoản vãng lai; tài
khoản tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi của khách hàng thường chia làm hai loại: tiền

gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.
- Tài khoản séc: Là loại tiền gửi được áp dụng phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới. Theo Công ước Giơ-ne-vơ năm 1931 thì “Séc là một tờ lệnh
trả tiền vô điều kiện do một khách hàng ký phát cho ngân hàng, yêu cầu ngân
hàng trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định để trả cho người cầm séc
hoặc cho người được chỉ định trên séc”.
Việc phát hành séc tiến hành đồng thời với dịch vụ mở tài khoản tiền gửi
(tài khoản séc), các chủ tài khoản séc sẽ dùng séc để mua sắm hàng hoá, dịch
vụ, nộp thuế, trả nợ cho nhau, vay mượn...; đồng thời nhập vào tài khoản này
mọi khoản thu nhập thường xuyên hay bất thường như tiền lương, tiền bán
hàng, bán dịch vụ, thu nợ... Tài khoản séc bao giờ cũng có số dư nên ngân hàng
có thể tạm thời sử dụng được số tiền này vào mục đích kinh doanh của ngân
hàng, tài khoản séc thật sự là công cụ quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh
doanh của hệ thống ngân hàng.
- Tài khoản vãng lai: Tài khoản vãng lai là tài khoản phát sinh hàng ngày
các khoản gửi tiền, rút và chuyển tiền của khách hàng. Trong tài khoản séc, chủ
tài khoản luôn luôn phải có số dư, nhưng trong tài khoản vãng lai, khách hàng
có thể có số dư, có thể thiếu (dư nợ), nếu dư có ngân hàng phải trả lãi, nếu dư
nợ khách hàng phải trả lãi cho ngân hàng nhưng không được vượt hạn mức dư
nợ ngân hàng cho phép. Tài khoản vãng lai là một thủ tục vừa gửi tiền, vừa vay
tiền có lợi cho cả hai bên: người mở tài khoản và ngân hàng. Người gửi tiền
chắc chắn được vay tiền với mức dư nợ cao nhất, còn ngân hàng càng thu hút
được nhiều tài khoản vãng lai càng có thêm nhiều vốn tiền gửi để kinh doanh.
- Tài khoản gửi tiết kiệm: Phần lớn là tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân,
tuy số tiền gửi của mỗi người không nhiều, nhưng số người gửi đông nên tiền
gửi tiết kiệm của nhiều triệu người trong nước thực sự là một nguồn vốn kinh
doanh quan trọng của ngân hàng, đồng thời việc thu hút nhiều nguồn vốn này
còn có tác dụng kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả thị trường. Số lượng tiền gửi tiết
kiệm thu hút được nhiều hay ít, trước hết phụ thuộc vào lãi suất danh nghĩa của nó
có cao hơn lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát hay không.

1.1.3.2 Cho vay
* Thứ nhất: Cho vay tiền
Là loại cho vay mang hình thức một hợp đồng vay tiền. Trong hợp đồng
nêu rõ: ngân hàng cam kết giao cho người vay một khoản tiền trong một thời
gian nhất định và người vay cam kết trả cho ngân hàng khoản tiền tương ứng
với số tiền đã vay cùng với số tiền lãi tỷ lệ với số tiền gốc và thời hạn vay.
* Thứ hai: tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền
Tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền có các hình thức chủ
yếu: chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá, bao thanh toán Factoring...
- Chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá: Chiết khấu thương phiếu là
nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu
thương phiếu chưa đến hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá
của thương phiếu trừ đi lợi tức và hoa hồng chiết khấu.
- Bao thanh toán (Factoring): Bao thanh toán là một hợp đồng mà trong
đó một tổ chức tín dụng chuyên nghiệp được gọi là “Factor” mua đứt các trái
quyền của người cung cấp (người bán) đối với khách hàng của họ (người mua).
Thứ ba: cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính là hình thức tài trợ vốn bằng cách ngân hàng giao động
sản, bất động sản, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, dây chuyển sản xuất,
khách sạn, kho tàng... cho khách hàng (người thuê) sử dụng. Nói cách khác, cho
thuê tài chính là hình thức tín dụng trung, dài hạn thông qua vịêc cho thuê máy
móc, thiết bị bất động sản và động sản.
Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ sinh lời quan trọng, chủ yếu của ngân
hàng thương mại, không có nghiệp vụ tín dụng thì cũng không còn ngân hàng
thương mại, nên nghiệp vụ tín dụng luôn luôn tồn tại và phát triển cùng ngân
hàng thương mại. Kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh
doanh, cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày càng nhiều, vì thế vai trò của tín
dụng ngân hàng cũng ngày càng quan trọng và cần thiết hơn. Nhưng tín dụng là
lĩnh vực kinh doanh có nhiều rủi ro, đã có rất nhiều ngân hàng phải phá sản vì
cho vay mà không thu được nợ hoặc có tỷ lệ nợ quá hạn lớn. Vì vậy, bên cạnh

việc phát triển nghiệp vụ tín dụng, các ngân hàng thương mại đều thực hiện đa
dạng hoá nghiệp vụ, đa dạng hoá các khoản mục tài sản có để phân tán bớt rủi
ro và nâng cao hiệu quả hoạt động.
1.1.3.3 Bảo lãnh
Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết của ngân hàng nhận bảo
lãnh, chịu trách nhiệm trả tiền thay cho người xin bản lãnh nếu người đó không
thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã thoả thuận với người đã thụ hưởng
bảo lãnh đã được qui định cụ thể trong thư bảo lãnh.
1.1.3.4 Nghiệp vụ thanh toán trong nước và quốc tế
a. Thanh toán chuyển tiền trong nước
Thanh toán chuyển tiền là một dịch vụ, mà ngân hàng thực hiện lệnh của
khách hàng thanh toán chuyển tiền từ ngân hàng đó đi nơi khác cho một người
nhất định, hay ngân hàng trích một khoản tiền từ tài khoản của khách hàng theo
lệnh của nó, để ghi có cho tài khoản của người khác và ngân hàng thu được một
khoản phí nhất định.
Các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt gồm có: Ngân phiếu thanh
toán, Séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, Thẻ thanh toán...
b. Thanh toán - chuyển tiền quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc chi trả các nghĩa vụ và yêu cầu về tiền tệ phát
sinh từ các quan hệ kinh tế, tài chính giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các
hãng, giữa các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt
động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ
trên các tài khoản tại các ngân hàng.
Các công cụ thanh toán quốc tế chủ yếu gồm có: Hối phiếu, Lệnh phiếu,
Séc
c. Thu hộ tiền thuế, tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại
Trên cơ sở các uỷ nhiệm chi, hoá đơn, hợp đồng nhờ thu hộ của các cơ
quan thuế điện lực, bưu điện, nước... ngân hàng sẽ thực hiện ghi nợ tài khoản
của khách và ghi có tài khoản tiền gửi cho các cơ quan trên.
d. Cung ứng các phương tiện thanh toán hiện đại như: Phát hành và thanh

toán các loại thẻ, thực hiện rút tiền tự động qua máy ATM, Thẻ séc...
Khách hàng cá nhân có tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản vãng lai ở ngân
hàng đảm bảo có số dư khi thanh toán, nếu muốn sử dụng thẻ ngân hàng sẽ cấp
cho khách hàng một thẻ séc. Tấm thẻ ghi rõ số tiền tối đa của thẻ, tên của ngân
hàng phát hành thẻ, mã số của chi nhánh phát hành, tên của khách hàng sử
dụng, số thẻ và ngày hết hạn của thẻ. Thẻ được sử dụng theo hai nội dung: rút
tiền mặt tại các ngân hàng và “đảm bảo” cho việc thanh toán hàng hoá và dịch
vụ.
Do khách hàng không phải ký quỹ hoặc không nhất thiết phải có đủ số dư
trên tài khoản so với số tiền ghi trên thẻ, nên trong trường hợp số tiền ghi trên
séc lớn hơn số dư trên tài khoản của khách, ngân hàng vẫn phải đảm bảo thanh
toán cho người thụ hưởng, phần vượt quá số dư ngân hàng sẽ làm vịêc và xử lý
với chủ tài khoản sau. Vì vậy, khi cấp phát thẻ séc, ngân hàng phải chọn lọc đối
tượng để được cấp thẻ séc.
Thẻ séc thường được kết hợp với thẻ rút tiền tự động (ATM) và thẻ thanh
toán thành một thẻ đa năng.
- Thẻ thanh toán (Debit Card): Thẻ thanh toán hay còn gọi là “thẻ nợ” là
một loại thẻ do ngân hàng phát hành. Thẻ dùng để thanh toán hàng hoá và dịch
vụ.
- Thẻ tín dụng (Credit Card): Thẻ tín dụng hay gọi là “thẻ có” cũng là một
loại thẻ do ngân hàng phát hành. Khi phát hành thẻ khách hàng không cần có số
dư trên tài khoản tiền gửi mà được cấp một hạn mức tín dụng theo tài khoản thẻ
tín dụng của họ. Thẻ tín dụng dùng để mua hàng hoá và các dịch vụ trả tiền sau.
Việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ được thực hiện tại những nơi có máy đọc thẻ
và tại các điểm bán lẻ có các ký hiệu của loại thẻ tín dụng mà chúng chấp nhận.
- Máy rút tiền tự động ATM: Các ngân hàng, các chi nhánh, các điểm bán
hàng được đặt những máy rút tiền tự động, những máy này đã được nối mạng
với trung tâm thanh toán. Khách hàng có thể dùng thẻ rút tiền (Thẻ từ hoặc thẻ
thông minh) do ngân hàng phát hành để rút tiền mặt ở các máy trên, mà không
phải trực tiếp đến ngân hàng hoặc chi nhánh.

Ngoài các nghiệp vụ cơ bản truyền thống nêu trên, các Ngân hàng thương
mại hiện đạ còn cung cấp doanh mục rất đa dạng các sản phẩm khác như:
Nghiệp vụ đầu tư tài chính; Nghiệp vụ ngân quỹ; Dịch vụ ngân hàng qua điện
thoại (Telephone Banking); Dịch vụ ngân hàng sử dụng máy tính cá nhân (PC-
Based Banking);Dịch vụ ngân hàng qua mạng Internet (Internet Banking);
Nghiệp vụ quản lý và tín thác; Dịch vụ tư vấn….
1.2. Nghiệp vụ kinh doanh thẻ của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ thanh toán
Thẻ đã được đưa vào sử dụng rộng rãi trên thế giới. Trong phạm vi rộng,
thẻ nói chung bao gồm tất cả các loại: thẻ séc, thẻ rút tiền mặt, thẻ ghi nợ, thẻ
tín dụng… Thẻ thanh toán là một trong những thành tựu của ngành công nghiệp
ngân hàng. Đó là cuộc cách mạng trong lĩnh vực tài chính cá nhân và sẽ không
có sự bùng nổ trong bán lẻ vào những năm 1970 và 1980 nếu không có sự ra đời
của thẻ. Sự phát triển của thẻ là thành quả của sự đổi mới và khả năng
marketing của các chuyên gia ngân hàng thế giới.
Tuy nhiên, ngân hàng không phải là người đầu tiên phát hành thẻ. Tại
Mỹ, các thẻ bách hoá, thẻ du lịch và giải trí được phát hành trước khi bước vào
ngành công nghiệp ngân hàng. Các ngân hàng tham gia vào lĩnh vực thẻ, nó cho
phép các ngân hàng đưa ra được các dịch vụ mới cho các khách hàng hiện có và
là một phương tiện tối ưu để hấp dẫn các khách hàng mới- các cá nhân cũng
như những doanh nghiệp bán lẻ. Mặc dù không phải là một yếu tố quyết định,
có lẽ nhiều ngân hàng đã tham gia vào lĩnh vực này nhằm đuổi kịp những phát
triển mà sự cạnh tranh đòi hỏi. Dĩ nhiên là các ngân hàng cũng được khuyến
khích áp dụng các dịch vụ thẻ do khả năng gia tăng lợi nhuận của chính ngân
hàng.
Thẻ xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1914 khi tổng công ty xăng dầu
California (ngày nay là công ty Mobie) cấp thẻ cho nhân viên và một số khách
hàng của mình. Thẻ chỉ nhằm khuyến khích bán sản phẩm của công ty chứ
không kèm theo việc gia hạn tín dụng. Sau đó, các hệ thống cửa hàng bán lẻ tiếp
tục phát triển hình thức tài trợ khách hàng thông qua việc phát hành thẻ, theo

hình thức tiêu trước trả tiền sau, cho các khách hàng phù hợp với những tiêu
chuẩn thẩm định của họ để khuyến khích tiêu dùng, tăng doanh thu. Thực tế thì
hình thức này đã đem lại những hiệu quả nhất định.
Tuy nhiên, việc phát hành thẻ (hay các phiếu bán hàng) có nhiều hạn chế
với các cửa hàng: khả năng tài trợ có hạn, chi phí quản lý cao ảnh hưởng đến lợi
nhuận, thẻ của mỗi hệ thống chỉ sử dụng được trong hệ thống đó nên tính tiện
lợi của thẻ không cao, nhiều đại lý nhỏ không đủ điều kiện và khả năng cung
cấp tín dụng cho các khách hàng của họ. Nhu cầu có một loại thẻ chung để có
thể sử dụng thanh toán tại các điểm bán hàng trở nên cấp thiết và chính nó đã
tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính vào cuộc.
Năm 1946, dạng thẻ đầu tiên của thẻ ngân hàng là Charge-It của ngân
hàng John Biggins xuất hiện tại Mỹ, cho phép các khách hàng thực hiện các
giao dịch nội địa bằng các phiếu có giá trị do ngân hàng phát hành. Các đại lý
nộp các phiếu giao dịch cho ngân hàng Biggins, ngân hàng sẽ thanh toán các
giao dịch đó cho các đại lý và thu lại tiền từ các khách hàng.
Những năm sau đó, ngày càng có nhiều tổ chức tài chính tham gia vào thị
trường thẻ. Thẻ Charge-It đã mở đường cho sự ra đời của thẻ vào năm 1951 do
ngân hàng Franklin National, New York phát hành. Tại đây, khách hàng xin cấp
hạn mức tín dụng và được thẩm định khả năng thanh toán, tình hình tài chính
thông qua hoạt động tín dụng trước đó của họ với ngân hàng. Những khách
hàng đủ tiêu chuẩn sẽ được cấp thẻ để thực hiện giao dịch tại các đại lý chấp
nhận thẻ. Các cơ sở này khi nhận được giao dịch sẽ liên hệ với ngân hàng, nếu
được phép chuẩn chi họ sẽ thực hiện giao dịch và đòi tiền sau đối với ngân
hàng. Các chủ thẻ phải trả toàn bộ dư nợ vào cuối tháng.
Năm 1955, hàng loạt thẻ mới như Trip Charge, Golden Key, Dinner
Club, Gourmet Club rồi đến Carte Blanche và American Express (1958), JCB
(1961) ra đời. Năm 1960, ngân hàng Bank of America giới thiệu sản phẩm thẻ
ngân hàng của riêng mình, the Bank Americard, và đã đạt được nhiều thành
công. Với những lợi ích của hệ thống thanh toán này, ngày càng có nhiều tổ
chức tín dụng tham gia thanh toán. Nhiều tổ chức phát hành thẻ khác bắt đầu

liên kết để cạnh tranh với Bank of America. Năm 1966, 14 ngân hàng Mỹ liên
kết thành tổ chức Interbank (Interbank Card Association-ICA), một tổ chức mới
có khả năng trao đổi thông tin các giao dịch thẻ tín dụng. Năm 1967, việc hợp
tác của bốn ngân hàng ở California đổi tên từ California Bankcard Association
thành Western States Bank Card Association (WSBA) và mở rộng mạng lưới
thành viên với các tổ chức tài chính khác ở phía tây nước Mỹ. Sản phẩm thẻ của
tổ chức này là Master Charge. Tổ chức này cũng cấp phép cho Interbank sử
dụng tên và thương hiệu Master Charge. Vào cuối thập niên 1960, nhiều tổ chức
tài chính đã trở thành thành viên của Master Charge và đủ sức cạnh tranh với
Bank Americard.
Tuy nhiên, để hình thức thanh toán thẻ có thể thu hút được khách hàng
cần phải có một mạng lưới thanh toán lớn, không chỉ trong phạm vi một địa
phương, một quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu. Đứng trước đòi hỏi đó,
InterBank (Master Charge) và Bank of American (Bank Americard) đã xây
dựng một hệ thống các quy tắc, tiêu chuẩn trong xử lý thanh toán thẻ toàn cầu.
Năm 1977, Bank Americard trở thành Visa USA và sau đó trở thành tổ chức thẻ
quốc tế Visa. Năm 1979, Master Charge cũng trở thành một tổ chức thẻ quốc tế
lớn khác là Master Card. Bốn tổ chức thẻ quốc tế lớn nhất hiện nay là Visa,
Master Card, Amex, JCB.
-> Do thẻ ngày càng được sử dụng rộng rãi, các công ty và các ngân hàng liên
kết với nhau để khai thác lĩnh vực thu lợi nhuận này. Thẻ dần dần được xem
như một công cụ văn minh, thuận lợi trong các cuộc giao dịch mua bán. Các
loại thẻ Master Card, Visa, Amex, JCB được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu và
cùng phân chia những thị trường rộng lớn.
Chính sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại và những ứng
dụng của cuộc cách mạng thông tin trong lĩnh vực ngân hàng đã góp phần thúc
đẩy sự ra đời của thẻ với nhiều tên gọi khác nhau mà hiện nay đang được sử
dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Với lợi thế về vốn, chuyên môn
trong nghiệp vụ thẩm định, cơ sở hạ tầng sẵn có phục vụ cho hoạt động phát
hành và thanh toán, thẻ do ngân hàng phát hành thực sự được đông đảo công

chúng quan tâm và ưa thích. Trong khoảng thời gian 25 năm trở lại đây, ngành
công nghiệp thẻ thanh toán, đặc biệt là thẻ ngân hàng mới thực sự được phát
triển.
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của thẻ thanh toán.
1.2.2.1. Khái niệm
Thẻ là một tấm nhựa chứa băng từ hoặc chip điện tử để lưu giữ các thông
tin, số liệu cần thiết đã được mã hoá. Nói một cách ngắn gọn, thẻ là một phương
tiện thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng hoặc tổ chức tài chính phát
hành cấp cho khách hàng và được sử dụng để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại
lí, các máy rút tiền tự động hoặc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại những cơ
sở chấp nhận thẻ trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng
được ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ.
Đối với ngân hàng, việc phát hành và thanh toán thẻ là hoạt động bao
gồm các nghiệp vụ cho vay, huy động vốn (đặt cọc hoặc có tiền trong tài
khoản), thanh toán trong nước và ngoài nước.
1.2.2.2. Đặc điểm cơ bản của thẻ thanh toán
Hầu hết các loại thẻ thanh toán quốc tế làm bằng nhựa cấu tạo với 3 lớp
được ép với kĩ thuật cao. Thẻ có kích thước: 84mm x 54mm x 0,76mm có góc
tròn gồm 2 mặt có in đầy đủ các yếu tố như: nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên
và logo của nhà phát hành thẻ, số thẻ, tên chủ thẻ và ngày hiệu lực… và một số

×