Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Pháp luật về điều kiện giao dịch chung trong hoạt động thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG
TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

PHẠM NGỌC KHÁNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TĂNG VĂN NGHĨA

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của trường Đại học Mở Hà Nội
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày
tháng
năm 20
NGƯỜI CAM ĐOAN



Phạm Ngọc Khánh


LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trường, với sự giảng
dạy, hướng dẫn nhiệt tình, trách nhiệm của thầy, cô trường Đại học Mở Hà Nội, kết
hợp với kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn công tác và sự cố gắng nỗ lực của
bản thân tôi.
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.TS Tăng
Văn Nghĩa đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, tận tình chỉ dạy cho tôi về kiến thức
cũng như phương pháp nghiên cứu trong thời gian thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo trường Đại học Mở Hà Nội; bạn
bè đồng môn và anh chị em cơ quan đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng
như trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có sự nỗ lực cố gắng của bản thân, luận văn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các Thầy Cô, đồng
nghiệp và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.

Học viên

Phạm Ngọc Khánh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU........................................................................................................ 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH
CHUNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ........................................ 7
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của điều kiện giao dịch chung ............... 7

1.2. Khái niệm và đặc điểm điều kiện giao dịch chung ...................................... 8
1.2.1. Khái niệm ...................................................................................................8
1.2.2. Đặc điểm...................................................................................................12
1.3. Phân loại điều kiện giao dịch chung ............................................................ 13
1.3.1. Phân loại điều kiện giao dịch chung .........................................................13
1.3.2. Điều kiện giao dịch chung trong hoạt động thương mại ..........................14
1.4. Phân biệt điều kiện giao dịch chung và hợp đồng mẫu ............................. 15
1.5. Ưu điểm và hạn chế của việc sử dụng điều kiện giao dịch chung ............ 19
1.5.1. Ưu điểm ....................................................................................................19
1.5.2. Hạn chế .....................................................................................................21
1.6. Yêu cầu và giá trị pháp lý cơ bản đối với ĐKGDC ................................... 22
1.6.1. Yêu cầu pháp lý cơ bản đối với ĐKGDC.................................................22
1.6.2. Giá trị pháp lý của ĐKGDC .....................................................................25
Kết luận chương 1 ................................................................................................... 26
Chương 2. PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TRONG
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG Ở VIỆT
NAM ............................................................................................................ 27
2.1. Quy định của pháp luật về ĐKGDC trong hoạt động thương mại ở Việt
Nam ....................................................................................................................... 27
2.1.1. Đối tượng ĐKGDC trong hoạt động thương mại bị kiểm soát ................27
2.1.2. Cơ quan kiểm soát: ...................................................................................27
2.1.3. Cơ chế kiểm soát ......................................................................................28
2.1.4. Phạm vi kiểm soát ....................................................................................28


2.1.5. Quy định về chế tài xử lý trong trường hợp vi phạm ...............................35
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về ĐKGDC trong hoạt động thương mại
trong một số lĩnh vực ........................................................................................... 37
2.2.1. Lĩnh vực kinh doanh bất động sản ...........................................................37
2.2.2. Lĩnh vực tài chính ngân hàng ...................................................................40

2.2.3. Đánh giá các quy định về ĐKGDC trong hoạt động thương mại ............41
2.3. Đánh giá về áp dụng ĐKGDC trong hoạt động thương mại .......................45
Chương 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH
CHUNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ...................................... 51
3.1. Định hướng của việc hoàn thiện pháp luật về ĐKGDC trong hoạt động
thương mại trong hoạt động thương mại .......................................................... 51
3.2. Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
đăng ký giao dịch chung ...................................................................................... 54
3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật ............................................................54
3.2.2. Giải pháp nâng hiệu quả về thực hiện quy định về thực hiện đăng ký giao
dịch chung ..........................................................................................................57
KẾT LUẬN.................................................................................................. 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 65


TÓM TẮT LUẬN VĂN
Xu thế hội nhập toàn cầu đã và đang là mục tiêu hướng tới của các quốc gia
trên thế giới ngày nay mà một trong những mục tiêu mang tính nhân bản của nó là
xoá nhoà ranh giới giữa các nước giàu – nghèo, các quốc gia giúp đỡ nhau cùng
phát triển trong bầu không khí hoà bình, thịnh vượng chung. Khi thương mại quốc
tế càng mở rộng và phát triển thì cũng chính là lúc các hoạt động thương mại trong
và ngoài nước phát triển và trong hoạt đông đó thì hợp đồng càng trở nên phổ biến
và cần thiết hơn bao giờ hết. Việc vận dụng các quy định về hợp đồng nói chung và
các ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong hoạt động thương mại được cụ thể
hóa thành các quy định cụ thể để từ đó làm nền tảng cho hoạt động áp dụng trong
thực tế. Ở Việt Nam, việc hiểu, áp dụng các ĐKGDC trong hoạt động thương mại
thì các quy định về vấn đề này đã và đang được tiến hành nhằm hoàn thiện các vấn
đề có liên quan để thực hiện tốt hơn các quy định hiện hành trong hoạt động thương
mại. Tuy nhiên, trong thực tế thì ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong thương
mại cần thiết phải có tính nhất quán để hoàn thiện quy định nhằm vừa đảm bảo các

nguyên tắc trong hoạt động giao kết hợp đồng thương mại trong thực tế, đồng thời
đảm bảo cho quyền và lợi ích của các chủ thể trong hoạt động thương mại nói
chung. Trong thực tiễn thì các ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong hoạt
động thương mại đã đạt được một số kết quả nhất định, song, về cơ bản thì vấn đề
ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong thương mại vẫn còn một số vướng mắc
cần thiết phải tháo gỡ để đảm bảo việc tăng cường hoạt động kiểm soát của pháp
luật đối với việc áp dụng ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong giao dịch hợp
đồng thương mại. Với mục đích làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu về hợp
đồng ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong thương mại bằng đường bộ còn,
tác giả chọn đề tài: Pháp luật về điều kiện giao dịch chung trong hoạt động thương
mại ở Việt Nam để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của
luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể:


- Chương 1: Những vấn đề lý luận về điều kiện giao dịch chung trong hoạt
động thương mại
- Chương 2: Pháp luật về điều kiện giao dịch chung trong hoạt động thương
mại và thực trạng áp dụng ở Việt Nam
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện giao dịch chung trong
hoạt động thương mại.


DANH MỤC KÝ HIỆU, VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Tiếng Việt

APEC


Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương

APTA

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

CPTTP

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

BLDS

Bộ luật dân sự

BVQLNTD

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

ĐKGDC

Điều kiện giao dịch chung

GDDS

Giao dịch dân sự

HĐTM

Hợp đồng thương mại


QLNN

Quản lý nhà nước

TCTD

Tổ chức tín dụng

CTTC

Công ty tài chính

TCDS

Tranh chấp dân sự

TAND

Tòa án nhân dân

WTO

Tổ chức thương mại quốc tế


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Trang
Bảng 2.1. Số hồ sơ đăng ký giao dịch chung trong mua bán căn hộ ..................... 38


DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ

Trang
Biểu đồ 2.1. Số hồ sơ đăng ký giao dịch chung trong mua bán căn hộ ................. 38


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xu thế hội nhập toàn cầu đã và đang là mục tiêu hướng tới của các quốc gia
trên thế giới ngày nay mà một trong những mục tiêu mang tính nhân bản của nó là
xoá nhoà ranh giới giữa các nước giàu – nghèo, các quốc gia giúp đỡ nhau cùng
phát triển trong bầu không khí hoà bình, thịnh vượng chung. Trong quá trình phát
triển của hoạt động thương mại thì việc buôn bán của các thương nhân với nhau,
hoặc giữa các quốc gia với nhau có sự đóng góp không nhỏ của hoạt động thương
mại trong và ngoài nước.
Khi thương mại quốc tế càng mở rộng và phát triển thì cũng chính là lúc các
hoạt động thương mại trong và ngoài nước phát triển và trong hoạt đông đó thì hợp
đồng càng trở nên phổ biến và cần thiết hơn bao giờ hết. Việc vận dụng các quy định
về hợp đồng nói chung và các ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong hoạt động
thương mại được cụ thể hóa thành các quy định cụ thể để từ đó làm nền tảng cho hoạt
động áp dụng trong thực tế. Việc áp dụng các ĐKGDC trong hoạt động thương mại
trong thương mại nói riêng và trong giao dịch hợp đồng nói chung được thực hiện
trên hầu hết các hoạt động kinh doanh mà khách hàng là số đông, chủ yếu là chủ thể
với quan niệm họ là “bên yếu thế”. Với tầm quan trọng như vậy, cộng thêm với chính
tính chất riêng biệt của hoạt động thương mại cần có các quy định pháp luật điều
chỉnh lĩnh vực hoạt động này có những đặc thù riêng cần tìm hiểu và hoàn thiện.
Mặc dù pháp luật quy định về ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong
thương mại đã sửa đổi theo hướng phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên
vẫn còn có những điểm cần sửa đổi nhằm đẩy mạnh cho phát triển thương mại trong
nước. Mặt khác, trong hoạt động thương mại thì các thương nhân ở nước ta đa số

chưa nắm chắc các quy định có lợi của pháp luật Việt Nam về ĐKGDC, khi tranh
chấp xảy ra vẫn lúng túng trong việc giải quyết.
Ở Việt Nam, việc hiểu, áp dụng các ĐKGDC trong hoạt động thương mại thì
các quy định về vấn đề này đã và đang được tiến hành nhằm hoàn thiện các vấn đề
có liên quan để thực hiện tốt hơn các quy định hiện hành trong hoạt động thương

1


mại. Tuy nhiên, trong thực tế thì ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong thương
mại cần thiết phải có tính nhất quán để hoàn thiện quy định nhằm vừa đảm bảo các
nguyên tắc trong hoạt động giao kết hợp đồng thương mại trong thực tế, đồng thời
đảm bảo cho quyền và lợi ích của các chủ thể trong hoạt động thương mại nói
chung. Với việc Việt Nam tiến hành các hoạt động nhằm hội nhập sâu rộng hơn vào
nền kinh tế thế giới với sự kiện trở thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới
WTO, thành viên của các diễn đàn kinh tế lớn trên thế giới như APEC, AFTA và
mới gần đây là thành viên trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ Xuyên Thái
Bình Dương CPTPP. Điều này cũng đồng nghĩa với việc thị trường kinh tế nước ta
là nền kinh tế quan tọng để đảm bảo cho các hoạt động đầu tư của các tập đoàn
trong khu vực và trên thế giới. Với nghiên cứu gần đây thì nền kinh tế Việt Nam là
nơi thu hút đầu tư với nhiều ưu đãi của chính phủ trong giai đoạn mới. Đồng thời,
thông qua việc thu hút đầu tư thì sẽ tăng cường hoạt động cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp để từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng, doanh nghiệp Việt
Nam được tiếp cận với những hàng hoá, dịch vụ chất lượng cao, có nhiều cơ hội lựa
chọn sản phẩm chất lượng tốt và phù hợp với khả năng tài chính của mình.
Pháp luật hợp đồng là vấn đề đã được Nhà nước ta quan tâm thông qua việc
hoàn thiện hệ thống pháp lý trên thực tế. Trong thực tiễn thì các ĐKGDC trong hoạt
động thương mại trong hoạt động thương mại đã đạt được một số kết quả nhất định,
song, về cơ bản thì vấn đề ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong thương mại
vẫn còn một số vướng mắc cần thiết phải tháo gỡ để đảm bảo việc tăng cường hoạt

động kiểm soát của pháp luật đối với việc áp dụng ĐKGDC trong hoạt động thương
mại trong giao dịch hợp đồng thương mại. Với những tính chất ưu việt và tầm quan
trọng nêu trên, ĐKGDC trong hoạt động thương mại đã trở thành một hoạt động
không thể thiếu được trong đời sống xã hội - nhất là trong nền kinh tế hàng hoá với
cơ chế mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và thế giới như hiện nay. Thế nhưng, thực
tiễn của quá trình áp dụng pháp luật ĐKGDC trong hoạt động thương mại còn gặp
nhiều khó khăn, bất cập, còn có những khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn, giữa
văn bản và thực tế. Với mục đích làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu các quy

2


định pháp luật về ĐKGDC trong hoạt động thương mại, tác giả chọn đề tài: Pháp
luật về điều kiện giao dịch chung trong hoạt động thương mại ở Việt Nam để làm
luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động ĐKGDC trong hoạt động
thương mại là một trong những nội dung rất quan trọng trong công cuộc xây dựng
và phát triển bền vững ở nước ta. Đồng thời đáp ứng với công cuộc cải cách trong
tình hình mới nên việc nghiên cứu lĩnh vực ĐKGDC trong hoạt động thương mại
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận và chỉ đạo thực tiễn của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Lĩnh vực phát triển nền kinh tế đã có nhiều đề tài
khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí đã đề cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép
vào những nội dung liên quan: Đáng kể là một số bài báo như:
- “Thực tiễn thực hiện các ĐKGDC trong hoạt động thương mại và những
vấn đề đặt ra để bảo vệ người tiêu dùng” của tác giả Văn Thành;
- “Giới hạn của hợp đồng mẫu” của tác giả Cao Thị Hà Giang và Trần
Thanh Tùng;
- “Hàng hoá, dịch vụ: Thiết yếu hay thứ yếu” của tác giả Lê Quỳnh;
- “Người tiêu dùng vẫn lép vế” của tác giả Văn Ngọc Thuỷ, PGS.TS Nguyễn

Như Phát vào năm 2003.
* Luận văn thạc sỹ, khóa luật tốt nghiệp như:
- Luận văn thạc sỹ “Điều kiện giao dịch chung trong lĩnh vực kinh doanh
quốc tế và khả năng áp dụng tại Việt Nam” vào năm 2008 của tác giả Lê Thanh Hà,
Đại học Ngoại thương;
- Luận văn thạc sỹ “Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong các hợp đồng gia nhập” vào năm 2010 của tác giả Lò Thị Thuỳ Linh, Đại học
Luật Hà Nội;
- Khóa luận tốt nghiệp “Điều kiện giao dịch chung trong hoạt động thương
mại của các doanh nghiệp Việt Nam, lý luận và thực tiễn” vào năm 2006 của tác giả
Nguyễn Thị Thúy, Đại học Ngoại thương... những công trình nghiên cứu, các bài

3


viết trên ít nhiều đều đề cập đến vấn đề ĐKGDC trong hoạt động thương mại ở
nước ta dưới mọi góc nhìn của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào lý luận và thực tiễn của các hoạt động thương
mại có ĐKGDC hay những quy định nhằm bảo vệ người tiêu dùng mà chưa tập
trung phân tích, nghiên cứu sâu các quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Luận văn thạc sĩ này sẽ nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống cơ sở lý luận và
thực tiễn pháp luật về vấn đề ĐKGDC trong hoạt động thương mại ở Việt Nam giai
đoạn điều tra hiện nay. Do vậy, không có bất kỳ một công trình khoa học nào trùng
lặp với đề tài luận văn mà tác giả chọn nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua hoạt động nghiên cứu, tác giả mong muốn cung cấp cho người
đọc một cách tổng thể các quy định cũng như thực tiễn của ĐKGDC trong hoạt
động thương mại. Trên cơ sở đó, nghiên cứu thực trạng về việc thực hiện các quy
định của pháp luật kinh tế cũng như xem xét ĐKGDC trong hoạt động thương mại

trên phương diện lý luận thông qua các nghiên cứu trong và ngoài nước. Đồng thời,
thực tế ĐKGDC trong hoạt động thương mại ở nước ta hiện nay. Qua đó, đánh giá
tình hình áp dụng các quy định của pháp luật ĐKGDC trong hoạt động thương mại
trong một số lĩnh vực. Đồng thời dựa vào thực trạng đó để nghiên cứu về nguyên
nhân từ đó đưa ra những giải pháp để tháo gỡ vướng mắc còn tồn tại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi đề tài phải
giải quyết các vấn đề sau:
Đề tài có nhiệm vụ hệ thống hóa những vấn đề lý luận về hợp đồng; ĐKGDC
trong hoạt động thương mại trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam; nội dung
ĐKGDC trong hoạt động thương mại theo quy định hiện hành.
Nghiên cứu về thực tiễn thực hiện ĐKGDC trong hoạt động thương mại ở
nước ta hiện nay. Qua đó, tìm hiểu các thành tựu, hạn chế và các nguyên nhân của
hoạt động ĐKGDC trong hoạt động thương mại ở nước ta hiện nay.

4


Đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò ĐKGDC trong hoạt động thương
mại ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về ĐKGDC trong hoạt động
thương mại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: ở Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu trong thời gian 04 năm gần đây (từ năm
2014 đến năm 2018) sẽ chỉ rõ hiệu quả áp dụng trong quá trình thực hiện ĐKGDC
trong hoạt động thương mại và các giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về ĐKGDC trong hoạt động thương mại ở nước ta hiện nay để
phân tích, lý giải các vấn đề.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả sử dụng phương pháp này để
nghiên cứu các văn bản pháp luật có liên quan đến vai trò ĐKGDC trong hoạt động
thương mại ở nước ta hiện nay thông qua các quy định của BLDS và các đề tài khoa
học, chương trình, dự án, các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: tác giả sử dụng phương pháp này để nêu
lên cơ sở lý thuyết về vai trò ĐKGDC trong hoạt động thương mại ở nước ta hiện
nay và đánh giá, khái quát thành những quan điểm, luận điểm làm nền tảng lý luận
cho luận văn.
- Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu ở chương
2 của luận văn, các số liệu thu thập, điều tra được tổng hợp, phân tích làm cơ sở
đánh giá thực trạng qua đó đánh giá về thành tựu, hạn chế để đưa ra những giải

5


pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, tạo
một cái nhìn sâu hơn, rộng hơn về hoạt động ĐKGDC trong hoạt động thương mại
ở nước ta hiện nay đáp ứng với yêu cầu trong công cuộc phát triển nền kinh tế ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, thông qua quá trình nghiên cứu và những kết quả đã đạt được thì
luận văn có ý nghĩa trong việc làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận và thực tiễn, hệ
thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về ĐKGDC trong hoạt động thương mại
theo quy định của pháp luật cũng như những chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra.

Đồng thời, điểm mới của luận văn chính là trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo
các công trình khoa học, bài viết nghiên cứu có liên quan thì luận văn đã tiến hành
phân tích, tổng hợp, đưa ra dẫn chứng từ đó rút ra kết luận về sự phù hợp của các
quy định pháp luật trong vai trò ĐKGDC trong hoạt động thương mại ở nước ta
hiện tại cũng như tương lai.
Đặc biệt, đối với sinh viên nghiên cứu, kết quả của đề tài là nguồn tài liệu có
giá trị tham khảo khi học tập, nghiên cứu, nhất là khi hoàn thành các báo cáo khoa
học cấp khoa, cấp trường trong công tác nghiên cứu về ĐKGDC trong hoạt động
thương mại. Ngoài ra, đề tài còn có ý nghĩa thiết thực đối với một số đối tượng khác
quan tâm đến lĩnh vực này ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về điều kiện giao dịch chung trong hoạt
động thương mại
- Chương 2: Pháp luật về điều kiện giao dịch chung trong hoạt động thương
mại và thực trạng áp dụng ở Việt Nam
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện giao dịch chung
trong hoạt động thương mại.

6


Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO
DỊCH CHUNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của điều kiện giao dịch chung
Điều kiện giao dịch chung (ĐKGDC) được mô tả là sản phẩm của cuộc cách
mạng công nghiệp thế kỷ XIX ở châu Âu, là công cụ hiệu quả để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giao kết và thực hiện các hợp đồng. Tuy nhiên, ĐKGDC trong
hoạt động thương mại vốn ra đời từ thế kỷ XV nhưng đến giữa thế kỷ XIX vẫn là

một khái niệm mới lạ, việc sử dụng vẫn còn nhỏ lẻ, không phổ biến và tập trung vào
các ngành đặc thù như bảo hiểm, hàng hải. Thời điểm đó, các hãng bảo hiểm hay
chủ tàu phải ký kết hợp đồng với nhiều khách hàng với nội dung hợp đồng lặp đi
lặp lại. Để quá trình ký kết diễn ra thuận lợi, họ đã soạn sẵn những hợp đồng mẫu
để khách hàng xem xét và ký chấp nhận. Phải đến khi cuộc cách mạng công nghiệp
thế kỷ XIX bùng nổ, dựa vào tính lặp đi lặp lại của những giao dịch cùng loại cũng
như việc xuất hiện khả năng sản xuất, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ mang tính
hàng loạt, liên tục cho vô số khách hàng đã đòi hỏi cần tiêu chuẩn hóa các điều
khoản của các hợp đồng mua bán, cung cấp dịch vụ nhằm đẩy nhanh được tốc độ và
nâng cao hiệu quả của các giao dịch.
Nhờ tính hữu dụng và lợi ích trong việc thúc đẩy hoạt động thương mại,
ĐKGDC trong hoạt động thương mại dần trở nên phổ biến và được sử dụng rộng
rãi. Trước tiên, ĐKGDC trong hoạt động thương mại được áp dụng trong các doanh
nghiệp bảo hiểm, giao thông, tín dụng rồi sau đó lan ra hầu hết các doanh nghiệp
sản xuất, cung cấp dịch vụ đều thiết lập cho mình những quy tắc và điều kiện thống
nhất, được áp dụng trong các giao dịch với khách hàng của mình.
Có thể khẳng định sự xuất hiện các ĐKGDC trong hoạt động thương mại là
tất yếu khách quan của nền kinh tế sản xuất và dịch vụ phát triển với mục tiêu giảm
thiểu chi phí, thời gian giao dịch. Ngày nay, khi điều kiện thương mại và công
nghiệp phát triển chóng mặt, đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã đưa

7


ĐKGDC trong hoạt động thương mại trở thành một phần không thể thiếu trong các
giao dịch thương mại, xuất hiện trong đa số các hợp đồng song vụ, không chỉ giữa
thương nhân và người tiêu dùng mà còn giữa các thương nhân với nhau.
1.2. Khái niệm và đặc điểm điều kiện giao dịch chung
1.2.1. Khái niệm
ĐKGDC trong hoạt động thương mại hay còn được gọi là điều kiện thương

mại chung (thuật ngữ trong tiếng Anh là “general condition of trade” hoặc “general
terms and conditions” hay “standard terms”) được khái quát là những nội dung có
tính tiêu chuẩn, ổn định trong hợp đồng, được doanh nghiệp sử dụng chung cho các
khách hàng khác nhau đối với cùng một loại giao dịch mà các khách hàng không thể
sửa đổi nội dung đó [1].
* Theo Viện thống nhất Tư pháp Quốc tế (UNIDROIT)
UNIDROIT đề cập đến ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong giao dịch
thương mại như một điều khoản mẫu trong “Nguyên tắc về Hợp đồng thương mại
quốc tế” (The Principles of International Commercial Contract - PICC). Theo đó,
Điều 2.1.19 PICC quy định “Điều khoản hợp đồng soạn sẵn (standard terms) là
điều khoản được chuẩn bị từ trước cho việc sử dụng lại nhiều lần và nhìn chung
được tiến hành không qua đàm phán với phía bên kia”.
Tại bình luận số 2 của điều này mô tả khái niệm “điều khoản soạn sẵn” được
hiểu là những điều khoản trong hợp đồng được chuẩn bị trước là để sử dụng chung
và làm nhiều lần hay đang được sử dụng cho bên kia mà không cần phải thoả thuận
lại. Điều quan trọng ở đây không phải là hợp đồng được trình bày dưới dạng nào (ví
dụ hợp đồng được trình bày trong văn bản soạn riêng, hoặc hợp đồng được in sẵn ,
hoặc được lưu trữ trong máy tính...), hoặc do bên nào soạn thảo (một bên đối tác,
hiệp hội thương mại hay nghề nghiệp,...), hoặc số lượng những điều khoản cần thiết
cấu thành hợp đồng, hoặc một vài điều khoản điển hình, vd: điều khoản về trọng tài,
hoặc điều khoản miễn trừ trách nhiệm ). Điều quan trọng là những điều khoản này
được soạn thảo trước để một bên sử dụng chung và làm nhiều lần, kể cả khi sử dụng
chung cho bên kia, mà không cần phải thoả thuận lại. Yêu cầu sau rõ ràng chỉ liên

8


quan đến những điều khoản soạn sẵn, mà đối tác phải chấp nhận toàn bộ, trong khi
các điều khoản khác của cùng hợp đồng có thể được thoả thuận lại giữa các bên.
Như vậy, theo quan điểm của UNIDROIT, về mặt nội dung ĐKGDC trong

hoạt động thương mại chính là ý chí đơn phương của một bên trong quan hệ hợp
đồng; về hình thức ĐKGDC trong hoạt động thương mại chính là các nội dung soạn
sẵn được đưa vào thành một bộ phận của hợp đồng hay là các điều khoản hợp đồng
soạn sẵn không dựa trên sự thương lượng và đàm phán của các bên trong quan hệ
hợp đồng. Điều đó làm cho các hợp đồng có sử dụng ĐKGDC trong hoạt động
thương mại khác với các hợp đồng hình thành trên sự trao đổi, thảo luận ý chí giữa
hai bên. Tuy vậy, hợp đồng giao kết sử dụng ĐKGDC trong hoạt động thương mại
không phải không có sự đồng thuận bởi việc chấp nhận tham gia hợp đồng chính là
sự chấp nhận hợp đồng. Nếu không đồng ý với ĐKGDC trong hoạt động thương
mại thì họ có quyền không chấp nhận ký hợp đồng.
* Theo pháp luật Cộng hòa liên bang Đức
Cộng hòa liên bang Đức ban hành luật riêng về ĐKGDC trong hoạt động
thương mại tên gọi Gesetz zur Regelung des Rechts der Allgemeinen
Geschaftsbedinggungen - AGB Gesetz năm 1976, sửa đổi bổ sung năm 1996 [3].
Năm 2002, Bộ luật dân sự Đức tại quyển 2, chương 2 về các nghĩa vụ hợp đồng
hình thành từ các điều kiện thương mại chung đã quy định chi tiết về ĐKGDC trong
hoạt động thương mại thay thế cho AGB Gesetz. Cụ thể, tại điều 305 Bộ luật nêu
khái niệm của ĐKGDC trong hoạt động thương mại là “tất cả các điều khoản hợp
đồng được soạn thảo trước và được sử dụng ít nhất trong 2 hợp đồng trở lên, do một
bên - được gọi là bên phát hành đưa ra và phía bên kia chỉ tham gia hợp đồng”.
Cũng theo điều 305 tại mục a đã đưa ra các điều kiện để trở thành ĐKGDC trong
hoạt động thương mại gồm:
- Phải được soản thảo bởi một bên đã sử dụng nhiều lần (ít nhất 2 lần).
Những hợp đồng với các điều khoản được soạn sẵn nhưng chỉ được sử dụng một lần
thì không được coi là các ĐKGDC.
- ĐKGDC trong hoạt động thương mại không nhất thiết là toàn bộ các điều

9



khoản trong hợp đồng mà có thể làm một phần của hợp đồng dưới dạng một phần
của các điều khoản trong hợp đồng hoặc dưới dạng các tài liệu kèm theo hợp đồng
hoặc thậm chí dưới dạng các thông báo hoặc bản khai báo thông tin thể hiện sự chấp
nhận của một bên ở những bản điền thông tin trước khi lập hợp đồng nhưng phải
được thông báo cho bên trong quan hệ hợp đồng.
- Các điều kiện hợp đồng do một bên áp đặt, phía bên kia hầu như không có
cơ hội để sửa đổi và phải chấp nhận để tham gia giao dịch.
Như vậy, Bộ luật dân sự Đức cùng cách tiếp cận với quan điểm UNIDROIT
về ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong PICC với các tiêu chí: phải được
soạn sẵn, được sử dụng nhiều lần; một bên hầu như không có hoặc ít có cơ hội đàm
phán, thương lượng về những điều khoản đã soạn. Ngoài ra, Bộ luật dân sự Đức
cũng quy định nếu có những điều khoản mập mờ, dễ gây hiểu nhầm cho bên giao
kết thì chúng sẽ được giải thích “chống” lại bên soạn thảo.
Ngoài đưa ra các tiêu chí, Bộ luật này cũng nêu ra các nguyên tắc làm cơ sở
tuyên vô hiệu các ĐKGDC trong hoạt động thương mại vi phạm, được xem xét vô
hiệu hoặc đương nhiên vô hiệu. Đây là một trong những căn cứ để người tiêu dùng,
bên yếu thế hơn trong giao dịch đảm bảo được quyền lợi.
* Liên minh châu Âu (EU)
Liên quan đến vấn đề ĐKGDC, Hội đồng châu Âu đã ban hành Chỉ thị
93/13/EEC quy định các điều khoản bị lạm dụng trong hợp đồng với người tiêu
dùng, hạn chế ý nghĩa tiêu cực của các ĐKGDC trong hoạt động thương mại với
mục đích bảo vệ người tiêu dùng và chỉ giới hạn trong hợp đồng ký kết giữa người
bán hàng, cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng. Khoản 1 Điều 3 Chỉ thị nêu rõ: “A
term shall always be regarded as not individually negotiated where it has ”. Tạm
dịch là “Một điều khoản không được đơn phương thỏa thuận sẽ được coi là”.
* Theo pháp luật Việt Nam
Trước khi được ghi nhận chính thức tại BLDS 2015, Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng năm 2010 cũng đã quy định một khái niệm tương tự (trong lĩnh vực
kinh doanh thương mại):


10


“Điều kiện giao dịch chung là những quy định, quy tắc bán hàng, cung ứng
dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ công bố và áp dụng đối
với người tiêu dùng.”
Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực từ 01/01/2017 quy định về điều kiện giao dịch
chung trong giao kết hợp đồng. Đây là một điểm mới mà trước đây Bộ luật dân sự
2005 chưa đề cập tới. Theo đó, khi giao hết hợp đồng, các bên hướng đến điều kiện
giao dịch chung chính là hướng đến tính ổn định, tiêu chuẩn và thống nhất trong
hợp đồng. Quy định về điều kiện giao dịch chung giúp cho việc giao kết hợp đồng
trở nên dễ dàng hơn, góp phần bảo vệ quyền lợi cho bên xác lập giao dịch.
Theo Bộ luật dân sự 2015 quy định tại Điều 406 Bộ luật Dân sự 2015 về Điều
kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng:
“1. Điều kiện giao dịch chung là những điều khoản ổn định do một bên công
bố để áp dụng chung cho bên được đề nghị giao kết hợp đồng; nếu bên được đề
nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận các điều khoản này.
2. Điều kiện giao dịch chung chỉ có hiệu lực với bên xác lập giao dịch trong
trường hợp điều kiện giao dịch này đã được công khai để bên xác lập giao dịch biết
hoặc phải biết về điều kiện đó.
Trình tự, thể thức công khai điều kiện giao dịch chung thực hiện theo quy định
của pháp luật.
3. Điều kiện giao dịch chung phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên. Trường
hợp điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của bên đưa ra điều
kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia
thì quy định này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Như vậy, điều kiện giao dịch chung thực chất là các “điều khoản mẫu” trong
hợp đồng do một bên soạn sẵn để áp dụng còn bên còn lại không có khả năng đàm
phán thay đổi nội dung mà chỉ có quyền chấp nhận hoặc từ chối. Có thể lý giải, xuất
phải điểm của quy định này là bởi ngày nay quan hệ hợp đồng phát triển ngày càng

đa dạng, những chủ thể tham gia hợp đồng thường giao kết số lượng hợp đồng lớn,
nên họ thường đưa ra những điều kiện chung nhằm áp dụng chung cho các đối tác

11


hay khách hàng của mình. Mặt khác, nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng,
trong một số lĩnh vực pháp luật quy định phải đăng ký điều kiện giao dịch chung.
1.2.2. Đặc điểm
Căn cứ theo quy định tại Điều 406 BLDS 2015, có thể khái quát điều kiện
giao dịch chung trong giao kết hợp đồng mang một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, điều kiện chung trong giao kết hợp đồng là ý chí đơn phương của
bên đề nghị giao kết hợp đồng trong hợp đồng được thiết lập từ trước đặt ra cho bên
được đề nghị giao kết hợp đồng. Những quy tắc, quy định này được ban hành một
cách đơn phương mà không có bất kỳ sự thỏa thuận nào giữa thương nhân và người
tiêu dùng. Vì vậy, điều kiện giao dịch chung thường thể hiện ý chí độc đoán và áp
đặt của thương nhân, thường vì mục tiêu dành lấy phần thuận lợi và an toàn pháp lý
cho mình và đẩy quả bóng bất lợi cho phía người tiêu dùng mà nội dung của nó lại
có thể vi phạm pháp luật hoặc không lành mạnh, thiếu đạo đức. Trong khi, các quy
tắc, điều kiện đó tuy không thể hiện trong hợp đồng (miệng hay văn bản) nhưng trở
thành nội dung mặc nhiên của hợp đồng khi người tiêu dùng tham gia quan hệ tiêu
dùng. Bởi khi xác lập giao dịch dân sự các chủ thể này đều thông qua người đại
diện. Tuy nhiên, ĐKGDC lại mang ý kiến đơn phương của bên được thiết lập. Các
điều kiện giao dịch chung là nền tảng cơ bản cho quá trình áp dụng trong thực tiễn
hoạt động thương mại nói chung.
Thứ hai, ý chí đơn phương trên được thể hiện thành các quy tắc hay điều kiện
được ghi nhận trong hợp đồng; nó mang tính ổn định, lâu dài. Ngoài ra, các điều
kiện giao dịch này phải được được công khai để bên xác lập giao dịch biết hoặc
phải biết về điều kiện đó. ây có thể coi là đặc điểm nổi bật nhất của điều kiện
thương mại chung.

Thứ ba, điều kiện chung có sự ràng buộc pháp lý đối với bên được đề nghị nếu
bên này đã chấp nhận các điều khoản do bên đề nghị đưa ra và không thể thay đổi,
sửa chữa hay huỷ bỏ các quy tắc, quy định này được. ác quy tắc, quy định mà
thương nhân ban hành không phải hướng đến một người tiêu dùng nào cụ thể hay
một trường hợp nào cụ thể mà nó như một “luật” riêng mà thương nhân áp dụng cho

12


nhiều người tiêu dùng và sử dụng một cách lâu dài. Phương thức bán hàng hóa
truyền thống dựa trên cơ sở hợp đồng được giao kết với từng đối tượng theo cách
thức khác nhau và các quyền, nghĩa vụ cũng có thể có sự khác nhau trên cơ sở
thương lượng, thỏa thuận giữa thương nhân và người tiêu dùng. Tuy nhiên, khi sử
dụng điều kiện thương mại chung, thì dường như không có bất kỳ sự phân biệt nào
giữa các người tiêu dùng với nhau, hay nói cách khác là các quy tắc, quy định mặc
nhiên áp dụng cho tất cả người tiêu dùng khi xác lập giao dịch với thương nhân.
Thứ tư, điều kiện giao dịch chung phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên.
Trường hợp điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của bên đưa ra
điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên
kia thì quy định này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
1.3. Phân loại điều kiện giao dịch chung
1.3.1. Phân loại điều kiện giao dịch chung
Hiện nay, việc phân loại điều kiện giao dịch chung trong hoạt động thương
mại được thực hiện dựa trên việc áp dụng trong thực tiễn và quá trình áp dụng pháp
luật của các chủ thể nói chung, do đó, có thể dựa vào một số tiêu chí để nhằm phân
loại ĐKGDC trong hoạt động thương mại như sau:
Một là, dựa vào căn cứ pháp lý và nội dung của ĐKGDC trong hoạt động
thương mại có thể phân thành:
- ĐKGDC trong hoạt động thương mại mô phỏng các quy định của pháp luật:
Được xem là các ĐKGDC trong hoạt động thương mại thông qua các điều khoản,

các điều kiện quy định của pháp luật hiện hành nhằm hình thành nên các thỏa thuận
và ghi nhận thành ĐKGDC trong hoạt động thương mại trong hoạt động thương
mại trong thực tế, Trường hợp này nếu các ĐKGDC trong hoạt động thương mại
không được ghi nhận rõ ràng thì được thực hiện theo các quy định của pháp luật
điều chỉnh các vấn đề có liên quan.
- ĐKGDC trong hoạt động thương mại dựa vào ý chí của chủ thể ban hành:
trong đó nội dung là ghi lại các thỏa thuận trên cơ sở ý chí của người ban hành.
Điều kiện áp dụng đó là các điều kiện này không bị cấm và không vi phạm các quy

13


định pháp luật. Việc chấp nhận các ĐKGDC trong hoạt động thương mại phải được
bên chấp nhận thừa nhận thông qua việc thể hiện việc đồng ý hoặc không đồng ý
trong quá trình giao kết.
Hai là, căn cứ vào hình thức và sự thể hiện của ĐKGDC trong hoạt động
thương mại mà chia thành 03 loại, cụ thể:
- Các ĐKGDC trong hoạt động thương mại nằm trong nội dung của HĐTM
được các bên thừa nhận, thể hiện bằng hình thức văn bản và được ký kết, thi hành.
Trong nội dung này ĐKGDC điều khoản chưa được thỏa thuận sẽ nằm trong cùng
một văn bản hợp đồng và được các bên thừa nhận.
- ĐKGDC trong hoạt động thương mại nằm ngoài nội dung hợp đồng song là một
phần không thể tách rời của hợp đồng. Thông thường, trong thực tế thì các điều kiện
này sẽ được xem xét một cách cẩn trọng và cụ thể khi tiến hành thỏa thuận ký kết.
- ĐKGDC trong hoạt động thương mại nằm trong hợp đồng nhưng là một
phần riêng tách biệt với các điều khoản thỏa thuận của các bên trong hợp đồng
thương mại trên thực tế.
1.3.2. Điều kiện giao dịch chung trong hoạt động thương mại
ĐKGDC được xem là quy định hoàn toàn mới trong Bộ luật Dân sự năm
2015. Theo đó, tại Điều 406 Bộ luật này quy định: Điều kiện giao dịch chung là

những điều khoản ổn định do một bên công bố để áp dụng chung cho bên được đề
nghị giao kết hợp đồng; nếu bên […]. Trên cơ sở đó thì ĐKGDC trong hoạt động
thương mại là những điều khoản ổn định do một bên công bố để áp dụng chung cho
bên được đề nghị giao kết hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp
đồng thì coi như chấp nhận các điều khoản này. Như vậy, có thể hiểu rằng với
những nội dung trong hợp đồng, các bên chỉ có thể chấp nhận hoặc không chấp
nhận chứ không được phép thay đổi. Đồng thời, điều kiện giao dịch trong hoạt động
thương mại được sử dụng trong hoạt động thương mại với một trong các bên tham
gia là thương nhân để từ đó tăng cường hoạt động giao kết và thực thi HĐTM một
cách có hiệu quả hơn.
Điều kiện giao dịch chung chỉ có hiệu lực với bên xác lập giao dịch trong

14


trường hợp điều kiện giao dịch này đã được công khai để bên xác lập giao dịch biết
hoặc phải biết về điều kiện đó. ĐKGDC trong HĐTM có đặc điểm đó là có thương
nhân tham gia và tiến hành soạn thảo. Các quy định về ĐKGDC trong hoạt động
thương mại phải đáp ứng với các điều kiện về của Luật Thương mại và HĐTM nói
chung. Quá trình trình bày, trình tự, thể thức công khai điều kiện giao dịch chung
trong hoạt động thương mại được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Điều kiện giao dịch chung trong hoạt động thương mại phải bảo đảm sự bình
đẳng giữa các bên. Trường hợp điều kiện giao dịch chung trong hoạt động thương
mại có quy định về miễn trách nhiệm của bên đưa ra điều kiện giao dịch chung,
tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì quy định này
không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Việc quy định về điều kiện giao dịch chung trong hoạt động thương mại trong
giao kết hợp đồng giúp cho việc giao kết hợp đồng thương mại trở nên dễ dàng hơn,
góp phần bảo vệ quyền lợi cho bên xác lập giao dịch.
1.4. Phân biệt điều kiện giao dịch chung và hợp đồng mẫu

Hiện nay, theo quy định của BLDS 2015 và các văn bản hướng dẫn hiện hành
thì các quy định của HĐTM và ĐKGDC trong hoạt động thương mại là các căn cứ
quan trọng đảm bảo cho hoạt động dân sự nói chung trên thực tế. Về cơ bản thì các
quy định này có điểm giống nhau và có những điểm khác biệt, có thể nói đưa ra
những đặc điểm như sau:
Giữa hợp đồng mẫu và ĐKGDC trong hoạt động thương mại có những điểm
giống nhau đó là hợp đồng mẫu và ĐKGDC trong hoạt động thương mại đều là
những tiền đề về nội dung do một bên soạn sẵn, đưa ra và trở thành nội dung của
hợp đồng nếu được bên kia chấp nhận.
Bên cạnh đó, Hợp đồng mẫu và ĐKGDC trong hoạt động thương mại đều
giống nhau ở mục đích sử dụng. Mục đích hướng tới của các bên khi tham gia
hợp đồng là để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự đối với
thỏa thuận, giao dịch nào đó. Quyền và nghĩa vụ dân sự trong hợp đồng có phạm
vi rất rộng, theo quy định của pháp luật hiện hành thì không liệt kê cụ thể các

15


quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể đó tuy nhiên về bản chất thì các quyền và nghĩa
vụ mà các bên hướng tới khi giao kết, thực hiện hợp đồng là những quyền và
nghĩa vụ để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng, đó cũng chính
là một trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt giữa hợp đồng dân sự và các
hợp đồng kinh tế, thương mại.
Sự ra đời của ĐKGDC trong hoạt động thương mại và hợp đồng mẫu với tính
chuẩn hoá và ổn định cao, là nhằm mục đích giúp cho việc giao kết hợp đồng trở
nên thuận tiện, dễ dàng, tiết kiệm được thời gian và chi phí cho các bên khi tham
gia ký kết hợp đồng, góp phần đẩy nhanh tốc độ các giao dịch từ đó thúc đẩy
thương mại phát triển. Thông qua việc thiết lập các quy tắc bán hàng, cung cấp dịch
vụ thống nhất, các thương nhân đã phát triển nhiều loại hợp đồng cụ thể mà các nhà
làm luật chưa lường hết được. Điều này có ý nghĩa thực tiễn rất cao vì nó kịp thời

đáp ứng được những thay đổi của các loại giao dịch trong khi luật pháp thường có
sự chẫm trễ hơn so với thực tiễn.
* Những điểm khác biệt
Tuy nhiên, điểm khác giữa hợp đồng mẫu với ĐKGDC trong hoạt động
thương mại đó là trong thực tiễn áp dụng, ĐKGDC trong hoạt động thương mại là
bản mang tính áp đặt áp dụng trong các thương vụ, trong khi hợp đồng mẫu chỉ vẫn
mang tính tham khảo nhiều hơn. Với hợp đồng mẫu, khách hàng có thể đồng ý hay
không đồng ý với nội dung của các điều khoản được soạn sẵn, tuy nhiên nếu muốn
tiến tới giao dịch với phía bên kia, hai bên có thể tiến hành thương lượng, đàm phán
để cùng đi đến thống nhất hình thành một bản hợp đồng mới đảm bảo những điều
kiện trong thỏa thuận giữa các giao dịch nói chung giữa các chủ thể.
Một là, thông thường HĐTM thường được áp dụng với các chủ thể là những
thương nhân, tập đoàn đối với các giao dịch tại các địa điểm, thành viên của mình,
lấy ví dụ: các hợp đồng vay của các ngân hàng thương mại, Các hợp đồng mua bán
hàng hóa.... Các điều kiện giao dịch được soạn sẵn và áp dụng đối với các khách
hàng. Song, đối với điều kiện giao dịch chung, khách hàng chỉ có thể lựa chọn một
là không đồng ý thực hiện giao dịch với chủ thể soạn thảo ra ĐKGDC trong hoạt

16


×