Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 105 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








ĐẶNG CÔNG HIẾN



PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT VỆ SINH AN TOÀN
THỰC PHẨM TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












Hà Nội - 2012





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






ĐẶNG CÔNG HIẾN





PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT VỆ SINH AN TOÀN
THỰC PHẨM TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM





Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN CẢNH QUÝ


Hà nội – 2012




2
MỤC LỤC

Trang

Lời cam đoan ………………………………………………………
1

Mục lục…………………………………………………………….
2


Danh mục các chữ viết tắt …………………………………………
3

MỞ ĐẦU …………………………………………………………….
5

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KIỂM
SOÁT VSATTP TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI…………

10
1.1.
Khái niệm pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong
hoạt động thương mại………………………………………………
10
1.2.
Vai trò và các tiêu chí đánh giá pháp luật kiểm soát VSATTP trong
hoạt động thương mại………………………………………………….
25
1.3.
Pháp luật kiểm soát VSATTP một số nước trên thế giới và những kinh
nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam…………………………………
34

Chương 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG
PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT VSATTP TRONG HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM………………………………………

49
2.1.
Quá trình phát triển của pháp luật kiểm soát VSATTP trong hoạt động

thương mại Việt Nam ………………………………………………….

49
2.2.
Đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động
thương mại ở Việt Nam………………………………………………

61

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ KIỂM SOÁT VSATTP TRONG HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM……………………………………….


79
3.1.
Những yêu cầu đặt ra và quan điểm hoàn thiện pháp luật kiểm soát
VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam…………………….
79
3.2.
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt
động thương mại……………………………………………………….
85

KẾT LUẬN……………………………………………………………
98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………….
100



3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. Danh mục cụm từ viết tắt Tiếng Việt:
ATTP
An toàn thực phẩm
BVMT
Bảo vệ môi trường
BVTV
Bảo vệ thực vật
KH&CN
Khoa học và Công nghệ
NN&PTNN
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
QPPL
Quy phạm pháp luật
TC-CL-ĐL
Tiêu chuẩn - Chất Lượng - Đo lường
TCVN
Tiêu chuẩn Việt Nam
TW
Trung ương
VSATTP
Vệ sinh an toàn thực phẩm

2. Danh mục cụm từ viết tắt Tiếng Anh:
Viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
ASEAN

Association of South East
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
EC
European Commission
Uỷ ban Châu Âu
EU
European Union
Liên minh châu Âu
FDA
Food and Drug
Administration
Cơ quan quản lý thực phẩm và
dược phẩm Hoa Kỳ
GMP
Good Manufacturing Pratice
Quy phạm sản xuất tốt


4
HACCP
Hazard Analysis and Critical
Control Point
Hệ thống phân tích mối nguy và
điểm kiểm soát tới hạn
IPPC
International Plant Protection
Convention
Công ước bảo vệ thực vật quốc

tế
ISO
International Standard
Organization
Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế
ISPM
International Standard for
Phytosanitary Measures
Tiêu chuẩn quốc tế về biện pháp
kiểm dịch thực vật
OIE
World Organisation for
Animal Health
Tổ chức sức khoẻ động vật thế
giới
SPS
Sanitary and Phytosanitary
Measures
Biện pháp kiểm dịch động thực
vật
TBT
Technical Barriers to Trade
Hàng rào kỹ thuật đối với
thương mại
TRIPs
Trade related aspects of the
intellectual and property
rights
Các khía cạnh của quyền sở hữu
trí tuệ liên quan đến thương mại

WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới


5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) là vấn đề liên quan trực tiếp đến
sức khoẻ và tính mạng con người, duy trì và phát triển nòi giống cũng như
quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, vấn đề
VSATTP đang được quan tâm cả trên phạm vi quốc gia và quốc tế.
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế và hội nhập
vào nền kinh tế thế giới. Quá trình này sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế -
xã hội phức tạp cần được xử lý, trong đó đảm bảo VSATTP là một trong
những vấn đề hết sức cấp bách, được toàn xã hội rất quan tâm. Hàng loạt các
yêu cầu đang được đặt ra và cần phải thực hiện một cách nghiêm túc, khẩn
trương nhằm kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong cộng đồng. Việc
kiểm soát nhập khẩu thực phẩm không đảm bảo yêu cầu vệ sinh và an toàn,
các chất phụ gia thực phẩm độc hại, các loại hoá chất bảo vệ thực vật, các
giống cây trồng vật nuôi, di nhập các loài sinh vật lạ, nhập khẩu các sản phẩm
biến đổi gen… đang là thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Bên cạnh đó, quản lý lưu thông thực phẩm, các cơ sở giết mổ, hệ thống kinh
doanh ăn uống, quy trình trồng trọt, chăn nuôi, phòng chống và triệt tiêu dịch
bệnh… đang gặp nhiều khó khăn. Những bất cập trong hoạt động kiểm soát
VSATTP là nguyên nhân của các vụ ngộ độc thức ăn và lây lan dịch bệnh từ
thực phẩm. Chất lượng thực phẩm không đảm bảo các yêu cầu vệ sinh còn
làm giảm khả năng thâm nhập thị trường và cạnh tranh hàng thực phẩm của ta trên
thị trường thế giới.
Thực tiễn cho thấy, vai trò của các quy định pháp luật điều chỉnh các

hoạt động thương mại nhằm quản lý vấn đề VSATTP là hết sức quan trọng.
Nó là cơ sở pháp lý để các cơ quan quản lý nhà nước đảm bảo an toàn thực
phẩm trong hoạt động thương mại.


6
An toàn thực phẩm là một trong những vấn đề mà Đảng và Nhà nước
Việt Nam đặc biệt quan tâm và coi đây là một vấn đề có ý nghĩa lớn về kinh
tế - xã hội, về an toàn xã hội, sức khoẻ cộng động, về bảo vệ môi trường và
cũng là vấn đề có ảnh hưởng lớn đến tiến trình hội nhập của Việt Nam. Do
vậy, Đảng ta và Nhà nước ta thường xuyên chỉ đạo và đưa ra các giải pháp
nhằm không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về an
toàn thực phẩm, bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày
25 tháng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới đã đề ra nhiệm vụ và
giải pháp để phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân nói chung và lĩnh vực ATTP nói riêng, một trong những nhiệm vụ đó là
"Triển khai mạnh mẽ các biện pháp kiểm soát vệ sinh, an toàn thực phẩm".
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành hàng loạt văn bản pháp luật
nhằm kiểm soát VSATTP nói chung và trong hoạt động thương mại nói riêng.
Các văn bản đó đã góp phần không nhỏ vào việc quản lý chất lượng vệ sinh
an toàn thực phẩm, đảm bảo sức khỏe nhân nhân. Tuy nhiên cần có những rà
soát, đánh giá lại các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề
VSATTP trong hoạt động thương mại để thấy được những ưu điểm, tồn tại
cũng như đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định
pháp luật điều chỉnh vấn đề VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt
Nam.
Từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về kiểm
soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam” là
hết sức cần thiết.

2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, hiện nay đã có một số công trình đề cập đến vấn đề vệ sinh
an toàn thực phẩm như: Nguyễn Văn Thung (2010), “Hỏi đáp về Pháp lệnh
Vệ sinh an toàn thực phẩm và các văn bản hướng dẫn thi hành”, NXB Chính


7
trị quốc gia; Nguyễn Văn Nam (2010), “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về vệ
sinh an toàn thực phẩm”, NXB Lao động; Trần Đáng (2005), “Vệ sinh an
toàn thực phẩm’’, NXB Y học; Trần Đáng (2008) “An toàn thực phẩm’’,
NXB Hà Nội. Ngoài ra, còn có những bài viết trên các tạp chí, báo như: “Vệ
sinh an toàn thực phẩm - trách nhiệm của cả cộng đồng” của tác giả Văn
Đông trên báo Hậu Giang số ra ngày 10/05/2010; “Vệ sinh an toàn thực
phẩm, một vấn đề xã hội bức xúc cần phải giải quyết sớm và hiệu quả” của
GS. Chu Phạm Ngọc Sơn được đăng tải trên Website của Hội các phòng thử
nghiệm Việt Nam; Những công trình này đã đề cập đến vấn đề Vệ sinh an
toàn thực phẩm dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình nào
nghiên cứu thực trạng những quy định pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn
thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam để từ đó đề xuất những
giải pháp nhằm hoàn thiện nó.
Ở nước ngoài, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu về pháp luật
kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Phân tích những vấn đề lý luận của pháp luật kiểm soát
VSATTP trong hoạt động thương mại và đánh giá thực trạng pháp luật về
kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam hiện nay. Trên
cơ sở đó nêu lên những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại của Việt Nam
* Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có những nhiệm vụ:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát VSATTP trong

hoạt động thương mại như: khái niệm, đặc điểm, vai trò cũng như tiêu chí
đánh giá pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại. Đông
thời tìm hiểu pháp luật ATTP của một số nước trên thế giới.


8
- Phân tích quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về kiểm soát
VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. Qua đó, nhận xét, đánh
giá những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật về kiểm soát VSATTP trong
hoạt động thương mại hiện hành, rút ra nguyên nhân của những hạn chế.
- Nêu những yêu cầu đặt ra, quan điểm cũng như giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thươn mại ở Việt
Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật
vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn chủ yếu nghiên cứu những vấn đề về pháp luật
kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam.
Ngoài ra còn nghiên cứu pháp luật an toàn thực phẩm của một số nước điển
hình trên thế giới.
- Về thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật về
kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm từ năm 2003 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau để làm rõ
những vấn đề của đề tài:
- Thu thập, tập hợp số liệu, tài liệu liên quan đến đề tài;
- Phân tích so sánh hệ thống quy định tiêu chuẩn của Việt Nam về an toàn
thực phẩm với các quy định quốc tế để đánh giá sự phù hợp.
6. Những đóng góp của luận văn

* Đóng góp mới trong khoa học: Luận giải và đưa ra hệ thông khái
niệm liên quan đến pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương


9
mại; Chỉ ra những thành tựu và hạn chế của pháp luật hiện hành về kiểm soát
VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam.
* Đóng góp mới trong thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực
trạng pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại, luận văn
đã gởi mở những hướng mới cho công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật này.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn
thực phẩm trong hoạt động thương mại.
Chương 2: Quá trình phát triển và thực trạng pháp luật kiểm soát vệ
sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam.


10
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT VỆ SINH
AN TOÀN THỰC PHẨM TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực
phẩm trong hoạt động thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm vệ sinh an toàn và kiểm soát vệ sinh an toàn thực
phẩm trong hoạt động thương mại
1.1.1.1. Khái niệm vệ sinh an toàn và kiểm soát VSATTP

- Khái niệm về thực phẩm và VSATTP
Có thể hiểu thực phẩm là những sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng
tươi sống hoặc đã qua chế biến, bảo quản. Thực phẩm cung cấp các chất dinh
dưỡng cần thiết để duy trì và phát triển sức khoẻ của mỗi cá nhân và cộng đồng
xã hội.
Việc bảo vệ sức khoẻ của cộng đồng liên quan đến hầu hết các lĩnh vực
hoạt động của xã hội, song nhu cầu về dinh dưỡng vẫn là nhu cầu thiết yếu mà
thực phẩm là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đáp ứng nhu cầu đó. Dó
đó, chất lượng của thực phẩm có vai trò quyết định đối với phát triển thể chất
của con người, bảo tồn và phát triển nòi giống của con người. Phần lớn thức ăn
của con người là những sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên như rau, quả, các
loại hạt, thịt gia súc, gia cầm, hải sản… Cùng với sự phát triển của công nghệ,
đặc biệt là công nghệ sinh học, nhiều loại thực phẩm chức năng được sản xuất và
phổ biến rộng rãi.
Cùng với việc đáp ứng nhu cầu về dinh dưỡng, thực phẩm cũng có nguyên
nhân gây nên những tác hại đến sức khoẻ của con người và cộng đồng nếu thực
phẩm không đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng vệ sinh an toàn. Do điều kiện
về môi trường cũng như các tác nhân khác, trong thành phần của thực phẩm có
thể chứa các độc tố cũng như các vi khuẩn gây bệnh. Nếu lượng độc tố và vi
khuẩn có trong thực phẩm vượt qua ngưỡng cho phép thì có thể gây nên các nạn


11
dịch, các vụ ngộ độc, đồng thời cũng là nguồn gốc của nhiều bệnh tật ảnh hưởng
đến sức khỏe con người trong các thế hệ tương lai.
Thực phẩm gây nguy hiểm đối với sức khoẻ và tính mạng con người là
do:
Thứ nhất, thực phẩm bị nhiễm các chất vi sinh độc hại như nấm, vi khuẩn,
ký sinh trùng (dư lượng vi sinh). Các chất vi sinh này có thể bị nhiễm bẩn trong
quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, bảo quản thực phẩm, cũng có thể là

mầm bệnh có trong động, thực vật. Những vi sinh vật chủ yếu gây ngộ độc và
dịch bệnh tương đối phổ biến hiện nay là Salmonella, Ecoli, cryptospora…
Những bệnh có ở động vật có hại cho con người thường thấy như là bệnh lở
mồm long móng ở lợn, bệnh bò điên, bệnh cúm gia cầm (H5N1).
Thứ hai, thực phẩm bị nhiễm các chất độc hại trong quá trình sản xuất,
chế biến, vận chuyển, lưu thông,… (dư lượng độc tố). Đó là những hoá chất
được thêm vào một cách vô tình trong quá trình sản xuất, chế biến, lưu thông
như phân bón, thuốc trừ sâu, kháng sinh, chất kích thích tăng trưởng; hoặc kim
loại nặng, hoá chất làm sạch, bôi trơn máy móc thiết bị trong quá trình chế biến.
Việc sử dụng các chất phụ gia, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm tùy tiện cũng có
thể gây nên nguy hiểm đối với con người.
Thứ ba, những ảnh hưởng tác động từ sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ mới như công nghệ sinh học, áp dụng phương pháp chiếu xạ thực phẩm
trong bảo quản, đóng gói bao bì. Việc sử dụng các quy trình công nghệ này nếu
không có được sự phân tích và đánh giá mối nguy tiềm ẩn của nó có thể gây nên
những đột biến trong quá trình sinh trưởng và tồn tại của thực phẩm. Những hậu quả
thường là các loại thực phẩm bị biến đổi gen, chứa các chất phóng xạ nguy hại…
Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về “vệ sinh an toàn thực phẩm”.
Tuy nhiên, theo tác giả, khái niệm sau có tính khái quát hơn cả. “Vệ sinh an toàn
thực phẩm là các điều kiện và biện pháp cần thiết để bảo đảm thực phẩm không
gây hại cho sức khoẻ và tính mạng con người”. Có nghĩa là những hành động


12
của con người nhằm ngăn chặn các mối nguy, hạn chế và xử lý hậu quả do thực
phẩm gây ra đối với con người động thực vật. Cụ thể:
+ Phòng ngừa các mối nguy về an toàn và vệ sinh thực phẩm;
+ Kiểm tra, kiểm soát, xử lý các trường hợp vi phạm VSATTP;
+ Can thiệp để loại trừ hậu quả do thực phẩm gây nên đối với con người,
môi trường và phát triển kinh tế - xã hội.

Như vậy, mục đích trực tiếp của việc đảm bảo VSATTP là bảo vệ sức
khỏe người tiêu dùng. Tuy nhiên, vấn đề VSATTP còn có ý nghĩa to lớn hơn đó
là vấn đề phát triển con người, vấn đề chất lượng cuộc sống, vấn đề công bằng
xã hội, vấn đề hội nhập quốc tế và văn hoá.
Trước hết, xét về bình diện xã hội, an toàn vệ sinh thực phẩm liên quan
đến chất lượng lao động của cả nền kinh tế hiện tại và tương lai, duy trì và phát
triển nòi giống của dân tộc. Thứ hai, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, an toàn
vệ sinh thực phẩm ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là
những nước đang phát triển mà nguồn tích luỹ ban đầu dựa chủ yếu vào các
nguồn lực tự nhiên. Các sản phẩm nông nghiệp và thuỷ sản đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm là lợi thế cạnh tranh của các nước này trong thương mại quốc tế,
làm tăng khả năng tiếp cận thị trường. Thứ ba, đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm còn có vai trò quan trọng trong việc tạo môi trường thuận lợi thu hút ngoại
lực như đầu tư trực tiếp nước ngoài, du lịch, nâng cao hình ảnh quốc gia trong
con mắt của người nước ngoài. Cuối cùng, vệ sinh an toàn thực phẩm còn liên
quan đến các yếu tố văn hoá - xã hội. Văn hoá ẩm thực của một vùng, một nước
là di sản vô cùng quý giá góp phần cho phát triển.
Để hiểu rõ thêm về vệ sinh an toàn thực phẩm cần phân biệt một số khái
niệm sau đây:
+ An toàn thực phẩm: là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến
sức khỏe, tính mạng con người.[26]


13
+ Vệ sinh thực phẩm: tất cả các điều kiện và biện pháp cần thiết để đảm
bảo sự an toàn và tính phù hợp của thực phẩm ở mọi khâu thuộc chu trình thực
phẩm, trong đó tính phù hợp của thực phẩm là việc đảm bảo rằng thực phẩm
được chấp nhận cho người tiêu dùng theo đúng mục đích sử dụng của chúng.
+ Tính phù hợp của thực phẩm: việc đảm bảo rằng thực phẩm được chấp
nhận cho người tiêu dùng theo đúng mục đích sử dụng của chúng.

+ Người xử lý thực phẩm: là người tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm mà
thực phẩm đó được đóng gói hay không được đóng gói, người đó có sử dụng
trang bị và dụng cụ dùng để chế biến xử lý thực phẩm hay có các bề mặt vật
dụng tiếp xúc với thực phẩm và vì vậy họ phải tuân theo các yêu cầu về vệ sinh
thực phẩm.
Tiêu chuẩn nguyên tắc chung này là nền móng vững chắc cho việc đảm bảo
vệ sinh thực phẩm và cần được sử dụng liên kết với từng quy phạm riêng về thực
hành vệ sinh một cách thích hợp, phối hợp với những hướng dẫn về chỉ tiêu vi
sinh.
Tuy nhiên, cần phải phân biệt rõ giữa hai khái niệm an toàn thực phẩm và
chất lượng thực phẩm. Nếu như an toàn thực phẩm được xem xét dưới góc độ
các chất độc hại cấp hoặc mãn tính mà khi tồn tại trong thực phẩm có khả năng
gây nguy hiểm cho sức khoẻ người tiêu dùng thì chất lượng thực phẩm bao gồm
tất cả các thuộc tính có ảnh hưởng đến giá trị của sản phẩm. Những thuộc tính
này tác động theo hai khía cạnh, đó là những thuộc tính tiêu cực như hư hỏng,
thối rữa, nhiễm bẩn, đổi màu… và các thuộc tính tích cực như nguồn gốc, màu
sắc, hương vị, phương pháp chế biến thực phẩm… An toàn thực phẩm là một
trong yêu cầu về chất lượng thực phẩm nhưng chất lượng thực phẩm còn bao
gồm các yếu tố khác.
- Khái niệm về kiểm soát VSATTP
Tại bất cứ một quốc gia nào, hệ thống kiểm soát thực phẩm luôn đóng vai
trò quan trọng trong việc khắc phục, hạn chế và phòng ngừa những nguy cơ do


14
thực phẩm gây ra đối với sức khoẻ con người. Kiểm soát thực phẩm tập trung
vào hai nhóm hành động đó là: đảm bảo về an toàn vệ sinh thực phẩm chủ yếu là
kiểm soát các dư lượng độc tố và dư lượng vi sinh trong thực phẩm và kiểm dịch
động, thực vật, hạn chế bệnh dịch hại và lây lan mầm bệnh từ thực phẩm.
Phạm vi kiểm soát: Hệ thống kiểm soát thực phẩm cần bao hàm tất cả các

hoạt động sản xuất, chế biến và tiêu thụ thực phẩm trên thị trường không chỉ đối
với nguồn thực phẩm trong nước mà còn tính đến hàng thực phẩm nhập khẩu.
Hệ thống này cần phải có cơ sở được pháp luật quy định cụ thể.
+ Những yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát thực phẩm:
Thứ nhất, các quy định và luật thực phẩm: Đây là một thành phần cốt yếu
của hệ thống kiểm soát thực phẩm hiện đại. Nhiều quốc gia hiện nay không có
một hệ thống pháp luật thực phẩm tương xứng và do đó đã ảnh hưởng đáng kể
tới hiệu quả của các hoạt động kiểm soát thực phẩm. Theo truyền thống, luật
thực phẩm bao gồm các quy định pháp lý về thực phẩm không an toàn, các công
cụ pháp lý có tính chất bắt buộc để loại bỏ nguồn thực phẩm không đảm bảo an
toàn ra khỏi quá trình thương mại cũng như để xử phạt các hành vi vi phạm. Tuy
nhiên, nhìn chung hệ thống các cơ quan kiểm soát thực phẩm không được uỷ
nhiệm một cách rõ ràng về quyền hạn để xử lý những vấn đề an toàn thực phẩm.
Do vậy phần lớn các chương trình VSATTP đều phản ứng lại, mang chiều
hướng ép buộc hơn là chủ động phòng ngừa.Theo quan điểm hiện nay, luật thực
phẩm không chỉ chứa đựng những quy định pháp lý cần thiết đủ mạnh mà còn có
những điều khoản cho phép các nhà quản lý thực phẩm có thẩm quyền xây dựng
các kế hoạch phòng ngừa.
Bên cạnh các quy định pháp luật, chính phủ cần phải xây dựng hệ thống
các tiêu chuẩn thực phẩm. Các tiêu chuẩn này có thể được chia ra làm hai loại:
(a) căn cứ vào mức độ rủi ro đối với nhà sản xuất theo dạng thiệt hại tiềm năng
hoặc giảm sút năng lực sản xuất, (b) rủi ro đối với người tiêu dùng từ việc sử
dụng các sản phẩm bị nhiễm độc hoặc hư hỏng. Cụ thể:


15
Trong những năm gần đây, nhiều tiêu chuẩn pháp lý với mức độ cao đã
được thay thế bằng nhiều tiêu chuẩn mang tính chất theo chiều rộng. Trong khi
các tiêu chuẩn này được coi là cách thức để thực hiện các mục tiêu an toàn thực
phẩm thì chúng lại đòi hỏi chu trình thực phẩm cần được kiểm soát ở mức cao và

các nguồn dữ liệu cần được cung cấp đầy đủ về những mối nguy an toàn thực
phẩm cũng như chiến lược quản lý mối nguy hiện nay. Tương tự, nhiều tiêu chuẩn
về chất lượng thực phẩm đã được xoá bỏ và thay thế bằng các yêu cầu dán nhãn.
Thứ hai, hoạt động quản lý kiểm soát thực phẩm: Hệ thống kiểm soát thực
phẩm có hiệu quả đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa hành động và chính sách ở
cấp độ quốc gia. Trong khi các chức năng cụ thể chi tiết của hệ thống kiểm soát
được xác định bởi pháp luật của mỗi nước thì hoạt động quản lý kiểm soát bao
hàm việc thiết lập các nhiệm vụ trọng tâm, cơ cấu hành chính với việc giải trình
một cách rõ ràng về các vấn đề như: Việc phát triển và thực hiện một chiến lược
kiểm soát thực phẩm quốc gia thống nhất; Sự hoạt động của chương trình kiểm
soát thực phẩm quốc gia, các nguồn lực phân phối; Việc thiết lập các tiêu chuẩn
và quy định; Việc tham gia vào các hoạt động có liên quan tới kiểm soát thực
phẩm quốc tế, thực hiện phân tích rủi ro…
Nhiệm vụ trọng tâm của việc quản lý kiểm soát thực phẩm là hình thành
các biện pháp điều tiết cũng như một hệ thống quan trắc mang tính cải thiện liên
tục và việc cung cấp tổng thể về các hướng dẫn chính sách.
Thứ ba, lực lượng thanh tra: Việc thiết lập và thi hành luật thực phẩm đòi
hỏi một lực lượng thanh tra thực phẩm chất lượng, được đào tạo, hoạt động có
hiệu quả. Thanh tra thực phẩm là lực lượng quan trọng có mối liên hệ hàng ngày
với các ngành công nghiệp thực phẩm, thương mại và cộng đồng. Một hệ thống
kiểm soát thực phẩm hoạt động hiệu quả phụ thuộc nhiều vào kỹ năng, trình độ
và tính trung thực của đội ngũ thanh tra.
Do hệ thống thực phẩm hiện nay khá phức tạp nên thanh tra thực phẩm
cần được đào tạo đầy đủ về khoa học thực phẩm và kỹ thuật để hiểu rõ về các


16
quá trình chế biến công nghiệp, kỹ năng và kinh nghiệm để thanh tra pháp lý, thu
thập mẫu thực phẩm và đánh giá tổng thể. Hiện nay, tại các quốc gia đang phát
triển nguồn lực thanh tra thực phẩm trong các tổ chức kiểm soát thực phẩm còn

nhiều yếu kém, thông thường các thanh tra sức khoẻ môi trường làm việc như là
một thanh tra thực phẩm.
Thứ tư, hệ thống kiểm định - nguồn dữ liệu dịch tễ học, quan trắc an toàn
thực phẩm: đây là thành phần chủ yếu của hệ thống kiểm soát thực phẩm. Những
kết quả phân tích từ các phòng thí nghiệm, phân tích thực phẩm là cơ sở khoa
học vững chắc để chúng ta nhìn nhận về thực trạng đảm bảo các yêu cầu
VSATTP hiện nay. Việc xây dựng một hệ thống kiểm nghiệm hiện đại, chính
xác đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư lớn để xây dựng, duy trì và hoạt động. Để đảm
bảo tính công khai minh bạch, các phòng phân tích thực phẩm có thể không nằm
dưới sự kiểm soát của một cơ quan hoặc bộ nào tuy nhiên hệ thống quản lý kiểm
soát thực phẩm nên đưa ra các quy phạm, tiêu chuẩn của các phòng kiểm soát
thực phẩm và giám sát hoạt động của chúng.
Thứ năm, thông tin, giáo dục, truyền thông và đào tạo: đây là một nguyên
tắc ngày càng đóng vai trò quan trọng đảm bảo cho hệ thống kiểm soát thực
phẩm quốc gia hoạt động một cách hiệu quả và liên tục.
Tại bất kỳ một quốc gia nào, uỷ ban kiểm soát thực phẩm phải là một tổ
chức độc lập, tồn tại riêng rẽ với những mục tiêu, phương thức rõ ràng, hoạt
động dựa trên việc hài hoà giữa mục đích của Chính phủ với các thành phần
khác nhau tham gia vào chuỗi thực phẩm.
Cơ quan kiểm soát thực phẩm nhất thiết phải được nhìn nhận như là một
đơn vị độc lập và riêng rẽ với những mục tiêu cụ thể, hoạt động phối hợp giữa
Chính phủ với các thành viên có liên quan trong chuỗi thực phẩm. Tổ chức cần
được xây dựng trên nền tảng đội ngũ chuyên gia quản lý được đào tạo, một yếu
tố được xem như là chìa khoá của chương trình, và cung cấp các biện pháp kỹ
thuật chính xác cho việc kiểm soát toàn bộ chu trình thực phẩm để bảo vệ người


17
tiêu dùng, đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp và thương mại thực phẩm an
toàn và chất lượng, ngăn chặn những hành vi gian lận.

Cơ cấu tổ chức của cơ quan kiểm soát thực phẩm quốc gia đôi khi có thể
thay đổi giữa các nước khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi quốc
gia đó nhưng nhất thiết phải đảm bảo những quy tắc, thành phần và các hoạt
động như độc lập, các quyết định đưa ra phải rõ ràng và là quá trình mở, cơ chế
phối hợp trong việc thực hiện các hoạt động.
Hoạt động kiểm soát thực phẩm là các hoạt động điều tiết có tính chất bắt
buộc ở phạm vi địa phương, quốc gia hay quốc tế để bảo vệ người tiêu dùng,
đảm bảo rằng thực phẩm trong quá trình chế biến, sản xuất, lưu trữ, đóng gói,
phân phối là an toàn và phù hợp cho sự tiêu dùng của con người; thích hợp với
các yêu cầu về an toàn và chất lượng; đảm bảo hàng hoá được dán nhãn theo các
quy định của pháp luật…
Như vậy, kiểm soát VSATTP là các biện pháp được tiến hành đồng bộ ở
tất cả các khâu trong chu trình vận động của thực phẩm: từ dịch vụ đầu vào bao
gồm giống, thức ăn, điều kiện nuôi trồng, khâu sản xuất bao gồm quy trình chăn
nuôi, các điều kiện về chuồng trại, kỹ thuật nuôi trồng, đến khâu chế biến, vận
chuyển, bảo quản, phân phối và sử dụng.
1.1.1.2. Khái niệm về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại
Thương mại, tiếng Anh là Trade, vừa có ý nghĩa là kinh doanh, vừa có ý
nghĩa là trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Ngoài ra tiếng Anh còn dùng một thuật ngữ
nữa là Business hoặc Commerece với nghĩa là buôn bán hàng hoá, kinh doanh
hàng hoá hay là mậu dịch. Tiếng Pháp cũng có từ ngữ tương đương Commerce
(tương đương với Business, Trade của tiếng Anh) là sự buôn bán, mậu dịch hàng
hoá, dịch vụ. Tiếng La tinh, thương mại là Commercium vừa có ý nghĩa là mua
bán hàng hoá, vừa có ý nghĩa là hoạt động kinh doanh. Như vậy khái niệm
thương mại cần được hiểu cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.


18
Theo nghĩa rộng, Thương mại là toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên thị
trường, Thương mại đồng nghĩa với kinh doanh được hiểu là các hoạt động kinh

tế nhằm mục tiêu sinh lời của các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Theo Pháp
lệnh Trọng tài thương mại ngày 25 tháng năm năm 2003, thì hoạt động thương
mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức
kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện,
đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn kỹ thuật;
li-xăng; đầu tư; tài chính ngân hàng; bảo hiểm; thăm do khai thác; vận chuyển
hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ
và hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật.
Theo nghĩa hẹp, Thương mại là quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ trên
thị trường, là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá. Nếu hoạt động trao đổi
hàng hoá (kinh doanh hàng hoá) vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì người ta gọi
đó là ngoại thương (hoạt động xuất, nhập khẩu)
Trên thực tế, thương mại có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác
nhau:
- Theo phạm vi hoạt động, có thương mại nội địa (nội thương), thương
mại quốc tế (ngoại thương), thương mại khu vực, thương mại thành phố, nông
thôn, thương mại nội bộ ngành…
- Theo đặc điểm và tính chất của sản phẩm trong quá trình tái sản xuất xã
hội, có thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại hàng sản xuất,
thương mại hàng tiêu dùng…
- Theo các khâu trong quá trình lưu thông, có thương mại bán buôn,
thương mại bán lẻ.
- Theo mức độ can thiệp của Nhà nước vào quá trình thương mại, có
thương mại tự do và thương mại có sự bảo hộ.
- Theo kỹ thuật giao dịch có thương mại truyền thống và thương mại điện
tử.[17]



19

Việc xem xét thương mại theo nhiều góc độ trên tuy mang tính tương đối
nhưng có ý nghĩa trong việc xây dựng các chính sách trong thương mại. Trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả hiểu khái niệm thương mại theo nghĩa
hẹp, đó là quá trình mua bán hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, là lĩnh vực
phân phối và lưu thông hàng hoá và dịch vụ. Hoạt động thương mại xảy ra trên
thị trường nội địa và hoạt động xuất nhập khẩu.
Như vậy, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương
mại được hiểu là hoạt động kiểm soát VSATTP trong các khâu liên quan đến
việc buôn bán, vận chuyển, lưu thông thực phẩm và các loại vật tư, hàng hoá
liên quan đến thực phẩm, bao gồm:
- Quản lý nhập khẩu thực phẩm và các loại vật tư hàng hoá liên quan đến
thực phẩm như thuốc BVTV, phụ gia thực phẩm, thiết bị bảo quản thực phẩm,
các giống cây trồng và vật nuôi, di nhập các loài sinh vật lạ, các sản phẩm biến
đổi gen
- Quản lý xuất khẩu thực phẩm: đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn
thực phẩm của hàng hoá xuất khẩu theo các quy định của các nước nhập khẩu
như tiêu chuẩn CODEX, HACCP, SPS
- Quản lý kinh doanh thực phẩm trên thị trường nội địa: điều kiện kinh
doanh, điều kiện vận chuyển, bảo quản, quản lý chất lượng thực phẩm (hàng giả,
hàng buôn bán trái phép, nhãn mác thực phẩm )
1.1.2. Khái niệm pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong
hoạt động thương mại
Để khái quát hoá thành khái niệm về pháp luật kiểm soát VSATTP trong
hoạt động thương mại, trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm về pháp luật.
Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan đặc biệt quan trọng nhưng cũng
vô cùng phức tạp, chính vì vậy mà từ xưa đến nay đã có không ít những cách
quan niệm, nhận thức khác nhau về pháp luật. Trên bình diện phổ quát, căn bản


20

và vận dụng và điều kiện xã hội đương đại, có thể nêu định nghĩa pháp luật như
sau:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử xử có tính bắt buộc chung do nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên
cơ sở ghi nhận các nhu cầu lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện
bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn
định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội.[16]
Khác với các quy phạm xã hội khác như đạo đức, điều lệ của các tổ chức
xã hội, giáo lý của các giáo hội,… pháp luật có những thuộc tính cơ bản sau:
- Tính quy phạm phổ biến, bắt buộc chung. Pháp luật trước hết được thể
hiện dưới dạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các
lĩnh vực đời sống xã hội. Quy phạm pháp luật là quy tắc hành vi, có giá trị như
những khuôn mẫu xử sự, hướng dẫn kiểm tra, đánh giá hành vi của cá nhân, các
quá trình xã hội. Tuy nhiên, khác với các quy phạm của đạo đức, tập quán, tôn
giao,… quy phạm pháp luật có tính phổ biến và bắt buộc chung. Quy phạm pháp
luật được áp dụng đối với tất cả cá nhân, mọi tổ chức thuộc phạm vi điều chỉnh
của các văn bản pháp luật tương ứng.
- Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức. Nội dung của pháp luật được
xác định rõ ràng, chặt chẽ, khái quát trong các điều khoản của các điều luật trong
một văn bản quy phạm pháp luật cũng như toàn bộ hệ thống pháp luật do nhà
nước ban hành. Ngôn ngữ sử dụng trong pháp luật là ngôn ngữ pháp luật, lời văn
trong sáng, đơn nghĩa. Trong pháp luật không sử dụng những từ “vân vân” hoặc
sử dụng các dấu (…), một quy phạm pháp luật không cho phép hiểu thế này
cũng được mà hiểu thế khác cũng được.
- Tính được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước. Để thực hiện, nhà nước
đưa vào quy phạm pháp luật tính quyền lực áp đặt đối với mọi chủ thể, bằng
cách gắn cho pháp luật tính bắt buộc chung. Nhà nước sử dụng các phương iện
khác nhau để thực hiện pháp luật: phương pháp hành chính,, kinh tế, tổ chức tư



21
tưởng, tuyên truyền, giáo dục pháp luật và các biện pháp cưỡng chế. Việc sử
dụng các biện pháp này, biện pháp khác hay kết hợp các biện pháp truỳ vào hoàn
cảnh lịch sử cụ thể. Biện pháp cưỡng chế chỉ áp dụng khi các biện pháp khác
không phát huy tác dụng.
- Tính hệ thống và tương đối ổn định. Có nghĩa là tất cả các văn bản pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp dưới phải phù hợp với văn bản pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên và không trái với Hiến pháp. Pháp luật khi ban hành phải
có giá trị trong một thời gian tương đối dài và phải phù hợp với các quy luật
khách quan và chỉ được sửa đổi, bổ sung khi điều kiện kinh tế, xã hội thay đổi.
Như vậy, pháp luật là công cụ để nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong một lĩnh vực nào đó. Ở Việt Nam, việc sử dụng pháp luật để điều
chỉnh quan hệ xã hội pháp sinh trong lĩnh vực an toàn thực phẩm nói chung và
VSATTP trong hoạt động thương mại nói riêng là một nhu cầu mang tính khách
quan của nhà nước.
Dựa vào định nghĩa về pháp luật và các phân tích về kiểm soát VSATTP
trong hoạt động thương mại như trên, có thể định nghĩa pháp luật kiểm soát
VSATTP trong hoạt động thương mại như sau:
Pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương
mại là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước quản lý hoạt động xuất
khẩu thực phẩm, nhập khẩu thực phẩm và kinh doanh thực phẩm trên thị trường
nội địa.
Như vậy, đối tượng điều chỉnh của pháp luật kiểm soát VSATTP trong
hoạt động thương mại là các quan hệ xã hội sau:
Thứ nhất, các quan hệ phát sinh trong hoạt động nhập khẩu thực phẩm,
bao gồm: hoạt động kiểm tra điều kiện nhập khẩu thực phẩm (tươi sống và chế
biến) như: chứng nhận khu vực không bị nhiễm sâu bệnh, dịch bệnh, nhiễm
xạ,… mô tả thiết bị và quy trình xử lý thực phẩm, bảo đảm nguồn gốc xuất xứ,



22
yêu cầu về bao gói, nhãn mác; Hoạt động kiểm dịch động thực vật nhập khẩu
như: xây dựng các phòng thí nghiệm để phát hiện bệnh dịch, mầm bệnh, độc tố,
các khu cách ly để xử lý sâu bệnh, dịch bệnh, khu tiêu huỷ,…; Các biện pháp
kiểm soát nhập khẩu hoá chất bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm: tiếp nhận
thông báo xin kiểm nghiệm, điều tra về vệ sinh, giám sát tại hiện trường, lấy mẫu
đi kiểm nghiệm và lưu giữ mẫu, đánh giá tổng hợp, cấp giấy chứng nhận với
nước ngoài.
Thứ hai, quan hệ phát sinh trong hoạt động xuất khẩu thực phẩm, bao
gồm: Hoạt động kiểm tra về vùng nuôi trồng để chế biến thự phẩm xuất khẩu;
Hoạt động phòng ngừa liên quan tới việc thu hoạch, phân lô, phân loại, đóng gói
và chất hàng (đối với rau quả) và kiểm tra, xử lý bằng các thiết bị đối với sản
phẩm thịt; Hoạt động kiểm tra các công-ten-nơ vận chuyển và nguyên liệu đóng
gói trước khi đóng hàng; Tuân thủ các quy định và điều kiện của nước nhập
khẩu.
Thứ ba: các quan hệ phát sinh trong quản lý lưu thông buôn bán thực
phẩm trên thị trường nội địa như: Các điều kiện về sản xuất và kinh doanh thực
phẩm; Hoạt động lưu thông, bảo quản và vận chuyển thực phẩm; Hoạt động
kiểm tra dư lượng độc tố và dư lượng vi sinh; Hoạt động quảng cáo, ghi nhãn
thực phẩm; Hoạt động phòng ngừa và khắc phục ngộ độc thực phẩm và bệnh
truyền qua thực phẩm.
1.1.3. Đặc điểm của pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động
thương mại Việt Nam
Tìm hiểu đặc điểm của pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động
thương mại có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về an toàn
thực phẩm nói chung và pháp luật kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương
mại nói riêng.



23
Qua việc nghiên cứu hệ thống các quy định pháp luật về kiểm soát
VSATTP trong hoạt động thương mại của Việt Nam, có thể nhận thấy pháp luật
về kiểm soát VSATTP có các đặc điểm sau:
- Thứ nhất, pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại
được quy định trong nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước.
Ở nước ta, pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại
không chỉ được quy định trong Luật An toàn thực phẩm mà còn được quy định
trong rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Luật, Pháp lệnh, khác. Hiện
nay, ngoài Luật An toàn thực phẩm có khoảng gần 20 văn bản Luật, Pháp lệnh
có những quy định liên quan đến VSATTP trong hoạt động thương mại. Ví dụ:
Trong Luật Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân năm 1989, Khoản 2 Điều 7
có quy định “Nghiêm cấm sản xuất, lưu thông, xuất khẩu, nhập khẩu những mặt
hàng lương thực, thực phẩm, các loại nước uống và rượu không bảo đảm tiêu
chuẩn vệ sinh”; Bộ Luật Hình sự năm 2005, tại Khoản 1, Điều 224 quy định về
“Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm”. Ngoài ra, tại các văn bản
pháp luật như khác như: Luật Thanh tra, Luật Cạnh tranh, Luật Thương mại,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Bảo vệ môi
trường, Luật doanh nghiệp, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất
lượng sản phẩm, hàng hoá, Luật Thuỷ sản, Pháp lệnh về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng, Pháp lệnh về kiểm dịch thực vật, pháp lệnh về quảng cáo,… cũng có
các quy định về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại.
Pháp luật kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại do nhiều cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành như Chính phủ, các Bộ, ngành, Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh. Vì vậy, pháp luật kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương
mại của chúng ta có số lượng lớn và hiệu lực pháp lý khác nhau.
- Thứ hai, pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại
Việt Nam là một hệ thống pháp luật mới.



24
Pháp luật về an toàn thực phẩm nói chung và kiểm soát VSATTP trong
hoạt động thương mại ở Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước trên thế
giới. Để có cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý chất lược vệ sinh an toàn thực
phẩm nói chung và kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại nói riêng ,
Luật thực phẩm được ra đời từ rất sớm tại một số nước, ví dụ ở Hoa Kỳ, luật này
được ra đời từ năm 1820, Australia năm 1908, Nhật Bản năm 1947, Hàn Quốc
năm 1962, Thái Lan năm 1963, Thủy Điển 1971, Đài Loan năm 1975, Malaysia
năm 1983,… Ở Việt Nam, pháp luật thực phẩm nói chung và pháp luạt về kiểm
soát VSATTP trong hoạt động thương mại nói riêng ra đời tương đối muộn. Đến
năm 1989, Luật Bảo vệ và Chăm sóc sức khoẻ nhân dân mới ra đời trong đó có
quy định về quyền được bảo vệ sức khoẻ và bảo đảm về dinh dưỡng (Điều 1),
quy định về kiểm dịch trong hoạt động xuất nhập khẩu, Khoản 1 Điều 18 quy
định “Động vật, thực vật, phương tiện vận chuyển hàng hoá ra vào biên giới và
quá cảnh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều phải được kiểm dịch”.
Đến năm 2003, Uỷ ban thường vụ Quốc hội Việt Nam mới ban hành Pháp Lệnh
Vệ sinh an toàn thực phẩm và Luật An toàn thực phẩm mới được ban hành năm
2010 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2011.
Bên cạnh đó, so với các hệ thống pháp luật khác của Việt Nam như pháp
luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật hôn nhân gia đình,… thì hệ thống pháp
luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại cũng là ra đời muôn
hơn.
- Thứ ba, pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại có
đối tượng điều chỉnh hẹp.
Pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương
mại bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình nhà nước quản lý hoạt động xuất khẩu thực phẩm, nhập khẩu
thực phẩm và kinh doanh thực phẩm trên thị trường nội địa. Vì vậy, nó là một bộ
phận của hệ thống pháp luật an toàn thực phẩm quốc gia.

×