Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện duy tiên tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1022.73 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH
CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM
MẠNH XUÂN HẢI

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ TÌNH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn nghiên cứu của riêng tôi. Các luận
điểm, dẫn chứng, số liệu, ví dụ nêu trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ đề tài, công trình nghiên cứu nào khác.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 20….

Tác giả luận văn


Mạnh Xuân Hải


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các quý thầy, cô giáo của Viện Đại học Mở đã giúp
đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập và làm luận văn.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Tình đã nhiệt
tình, tận tâm, đầy trách nhiệm hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Cảm ơn cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan, đơn vị của huyện Duy
Tiên, tỉnh Hà Nam đã tạo điều kiện cho tôi học tập và hoàn thành tốt luận văn.
Để thực hiện luận văn, bản thân tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi, tự nghiên cứu
với tinh thần, nghị lực và ý chí vươn lên. Tuy nhiên, không tránh khỏi những hạn
chế và thiếu sót. Kính mong quý thầy, cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp tiếp tục đóng
góp ý kiến để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 20….

Tác giả luận văn

Mạnh Xuân Hải


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH

CƯ VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT ...............................................................................................7
1.1. Khái quát về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất .................7
1.1.1. Khái niệm của bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ...............7
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất ........................................................................................................................12
1.1.3. Cơ sở khoa học của việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất. .............................................................................................................................14
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất ..................................................................................................................16
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ........................................................................................................16
1.2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ........................................................................................................19
1.2.3. Khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất ..............................................................................20
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH
CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
HUYỆN DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM ....................................................................26
2.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất .........................................................................................................26
2.1.1. Quy định về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất ..............................................................................................................................26


2.1.2. Quy định về phạm vi và đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất .................................................................................................31
2.1.3. Quy định về điều kiện bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
...................................................................................................................................32
2.1.4. Quy định về giá đất làm căn cứ cho bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất ........................................................................................................36
2.1.5. Quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất ........................................................................................................................40
2.1.6. Quy định về giải quyết khiếu nại trong bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ........................................................................................................45
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam ..................................................45
2.2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Duy Tiên ........................45
2.2.2 Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam .............................................................49
2.2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất tại huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam ...........................................63
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ TÁI ĐỊNH
CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN DUY TIÊN,
TỈNH HÀ NAM ........................................................................................................69
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất ..................................................................................................................69
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất ..................................................................................................................71
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. ................74
3.3.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật ...................74


3.3.2. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai763.3.3. Nâng cao hiệu quả
hoạt động của đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ..77
3.3.4. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, giải quyết tốt đơn thư khiếu nại, tố
cáo đối với công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ................................................78
KẾT LUẬN ...............................................................................................................81

TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................82


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài sản quan trọng của quốc gia, có giá trị to lớn và gắn với lợi ích
thiết thân của mỗi hộ gia đình, mỗi cá nhân, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là điều kiện
tối thiểu đảm bảo cho quá trình sinh hoạt, tái sản xuất giúp xã hội (XH) không
ngừng phát triển. Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực như: kinh tế thị trường ngày càng phát triển,
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, đời sống vật chất, tinh thần của người
dân không ngừng được nâng cao, an ninh quốc phòng, đối ngoại được tăng
cường...Tuy nhiên, hiện nay kinh tế (KT) nước ta vẫn đang trên đà phát triển, với
xuất phát điểm thấp từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nên kết cấu hạ tầng còn nhiều thiếu thốn, chưa đồng bộ nên chưa phát huy được hết
tiềm năng vốn có. Để đáp ứng yêu cầu đó thì việc Nhà nước thu hồi đất (THĐ) để
xây dựng kết cấu hạ tầng, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, an ninh,
quốc phòng, phát triển kinh tế là hết sức cần thiết.
Hiện nay, trong điều kiện quỹ đất ngày càng hạn hẹp mà nhu cầu đầu tư phục
vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ngày càng tăng thì vấn đề lợi ích kinh tế của
các tổ chức, cá nhân khi Nhà nước giao đất cũng như thu hồi đất ngày càng được
quan tâm. Vì vậy, công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
đã và đang là một vấn đề mang tính thời sự cấp bách. Trong những năm qua, pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của nhà nước ta đã đi
vào cuộc sống tạo mặt bằng cho các dự án xây dựng ở Việt Nam, tạo nguồn lực sản
xuất, chuyển đổi cơ cấu, phát triển đô thị và đổi mới diện mạo nông thôn. Song
trước những đổi mới của chính sách đất đai và sự vận động của thị trường bất động
sản mà trong đó có thị trường quyền sử dụng đất, việc thực hiện pháp luật về bồi
thường thiệt hại, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất hiện hành đã bộc lộ
một số tồn tại ảnh hưởng đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng cho các dự

án đầu tư như: bất cập về giá đất bồi thường, hỗ trợ còn thấp so với giá thị trường;
thời điểm tính giá đất bồi thường chưa phù hợp; các trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ

1


trợ, tái định cư chưa được quy định thống nhất trong một văn bản mà nằm rải rác ở
nhiều văn bản khác nhau; các quy định về hỗ trợ đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm
cho người bị thu hồi đất chưa hiệu quả... Thực tiễn đã khẳng định thực hiện tốt pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đối với người dân có
đất bị thu hồi hợp lý sẽ có ý nghĩa vô cùng to lớn, quyết định đến sự thành công của
việc thực hiện các dự án đầu tư.
Duy Tiên là một huyện trọng điểm phát triển công nghiệp của tỉnh Hà Nam,
nằm trong vành đai của vùng đô thị Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng
60 km; phía bắc giáp huyện Phú Xuyên của thành phố Hà Nội, phía đông đối diện
với thành phố Hưng Yên và huyện Kim Động của tỉnh Hưng Yên qua sông Hồng và
huyện Lý Nhân, phía nam giáp huyện Bình Lục và thành phố Phủ Lý, phía tây giáp
Hà Nội và huyện Kim Bảng. Toàn huyện chiếm 05/06 KCN đã và đang hoạt động
của tỉnh Hà Nam. Theo quy hoạch phát triển các KCN tỉnh Hà Nam đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, đến năm 2020, KCN trên địa bàn huyện Duy Tiên tiếp
tục được mở rộng. Đồng thời, với tốc độ đô thị hóa nhanh nên công tác giải phóng
mặt bằng, thu hồi đất phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội đang được các
cấp, các ngành liên quan của huyện Duy Tiên tích cực triển khai. Tuy nhiên, thực tế
việc thực hiện pháp luật liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ
trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở huyện Duy Tiên còn gặp rất nhiều khó
khăn như: vẫn còn một số hộ gia đình chưa chấp nhận với phương án đền bù, thậm
chí có đơn kiến nghị về giá cả bồi thường thấp, không chịu di dời, giải tỏa... Điều
đó đã cản trở đến tiến độ công tác giải phóng mặt bằng phục vụ các dự án kinh tế xã hội của huyện.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện

Duy Tiên, tỉnh Hà Nam” để đánh giá về thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cũng như việc thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở huyện Duy tiên nhằm tìm ra

2


các giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác giải phóng mặt
bằng của huyện.
2. Tổng quan nghiên cứu
Hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước THĐ đang
được các nhà khoa học và những người làm công tác nghiên cứu quan tâm ở những
khía cạnh, góc độ khác nhau. Một số công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề
này như:
Hoàng Thị Biên Thùy (2010), Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất, luận văn thạc sỹ Luật học; Trần Thị Phương Liên (2013), Pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp,
Luận văn thạc sỹ Luật học; Doãn Hồng Nhung (2015), Thực thi pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi nhà nước thu đồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay,
luận văn thạc sỹ Luật học; Lôi Đại Phong (2016), Pháp luật về bồi thường khi nhà
nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại huyện Bình Chánh- Thành phố Hồ Chí
Minh, luận văn thạc sỹ luật kinh tế...Bên cạnh đó, các bài nghiên cứu cũng đề cập
đến vấn đề thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất như: Nguyễn Thị Nga (2013), Những tồn tại, vướng mắc phát sinh trong
quá trình áp dụng các phương thức bồi thường khi nhà nước thu hồi đất, Báo Tài
Nguyên và Môi trường, số 15; PGS, TS Nguyễn Quang Tuyến (2013), Bình luận và
góp ý đối với các quy định về bồi thường đất, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất trong dự thảo Luật đất đai sửa đổi, Báo Nhà nước và Pháp luật, số 5...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã nghiên cứu, đề cập đến

một vài khía cạnh liên quan đến pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam
vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về pháp luật bồi thường, hỗ trợ tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất. Vì vậy, việc nghiên cứu luận văn sẽ giúp hệ thống
hóa lại những vấn đề lý luận của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước THĐ, góp phần đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật hiện
hành về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và đề xuất các giải

3


pháp hoàn thiện, bảo đảm thực hiện tốt hơn pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn có mục đích nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và đánh giá đúng tình hình thực
hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước THĐ trên địa bàn
huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam để đưa ra những phương hướng hoàn thiện pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước THĐ và các giải pháp phù hợp nhằm
bảo đảm thực hiện tốt pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái
định cư khi nhà nước THĐ.
Thứ hai, đánh giá đúng thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước THĐ và thực tiễn thực hiện pháp luật pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
tái định cư khi nhà nước THĐ trên địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam thời gian
qua và chỉ ra nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế.

Thứ ba, đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư và giải pháp bảo đảm thực hiện tốt pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam thời gian
tới.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Hãy làm rõ những vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ trợ tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất?
Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất hiện nay như thế nào?
Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam ra sao?

4


Làm thế nào để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam
trong thời gian tới?
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn liên
quan đến pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam như:
Lý luận chung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Các quy định của pháp luật hiện hành về pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Thực tiễn công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
5.2. Phạm vi

- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và việc thực hiện pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Duy
Tiên, tỉnh Hà Nam.
- Về không gian: trên địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
- Về thời gian: từ năm 2015 đến nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chung
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay về pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước THĐ.
Bên cạnh đó, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích
và tổng hợp, thống kê, so sánh, nghiên cứu các báo cáo, tài liệu...để đánh giá đúng
thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam và đề xuất các giải pháp, kiến nghị

5


phù hợp để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong thực tiễn thi hành pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước THĐ ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ tái định cư và pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất và thực tiễn thực hiện tại huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam


6


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
TÁI ĐỊNH CƯ VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH
CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Khái quát về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm của bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
1.1.1.1. Khái niệm thu hồi đất
Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai nên Nhà nước có quyền giao
đất, cho thuê đất và có quyền thu hồi đất. Trong đó, THĐ là biện pháp pháp lý quan
trọng nhằm bảo vệ quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai mà Nhà nước là người đại
diện. Nếu giao đất, cho thuê đất là cơ sở làm phát sinh quan hệ pháp luật đất đai,
phát sinh quyền sử dụng của người sử dụng thì thu hồi đất có hậu quả pháp lý hoàn
toàn người lại, tức là chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai, chấm dứt quyền sử dụng
đất của người sử dụng.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì thu hồi được hiểu là: “thu về lại, lấy lại cái trước
đó đã đưa ra, đã cấp phát hoặc đã bị mất vào tay người khác” [50, tr 257]. Nếu hiểu
theo khái niệm này thì thu hồi đất chính là việc Nhà nước lấy lại quyền sử dụng đất
đã giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng hoặc lấy lại quyền sử dụng đất do người
khác lấn, chiếm đất của Nhà nước. Cách hiểu này chỉ phù hợp với trường hợp tổ
chức, cá nhân được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất; còn các trường
hợp quyền sử dụng đất hình thành từ việc Nhà nước công nhận, giao đất có thu tiền
sử dụng đất, nhất là qua cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có
sử dụng đất, thì thuật ngữ “Thu hồi đất” có vẻ như không phù hợp vì trường hợp
này Nhà nước chỉ đứng ra công nhận quyền của người sử dụng đất mà thôi.
Theo từ điển Giải thích thuật ngữ luật học thì: “thu hồi đất là việc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm quy định về
sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng

đất hợp pháp bị lấn chiếm, trường hợp cần thiết Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng
của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng” [31, tr 98]. Cách hiểu này chưa bao quát được hết các trường
hợp thu hồi đất trên thực tế hiện nay.

7


Về mặt pháp lý, khái niệm thu hồi đất lần đầu tiên được đề cập đến trong
LDĐ năm 1987 và LDĐ năm 1993 nhưng chưa định nghĩa rõ ràng mà chỉ liệt kê
các trường hợp bị thu hồi đất tại điều 14, LDĐ 1987 và điều 26, LDĐ 1993. Đến
Luật đất đai 2003 mới có định nghĩa về thu hồi đất được quy định tại khoản 5, điều
4: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng
đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản
lý theo quy định của Luật này”. Khái niệm này vẫn chưa đầy đủ và chính xác, bởi
nó dẫn đến cách hiểu là chỉ thu hồi đất đối với tổ chức, Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn, trong khi người bị thu hồi có thể là hộ gia đình, cá nhân sử dụng
đất, mà đây mới là những đối tượng phổ biến bị thu hồi hiện nay.
Để khắc phục điều đó, LDĐ năm 2013 đã quy định: “Nhà nước thu hồi đất là
việc Nhà nước ra quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước
trao quyền sử dụng đất hoặc thu hồi lại đất của người sử dụng vi phạm pháp luật về
đất đai” (khoản 11, Điều 4). Như vậy, bằng quyền lực của Nhà nước đối với vai trò
đại diện chủ sở hữu đối với đất đai, Nhà nước có quyền thu lại quyền sử dụng đất
của tất cả các chủ thể sử dụng đất mà trước đó Nhà nước đã trao quyền sử dụng đất
cho họ như: giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, để
đảm bảo sự nghiêm minh trong thực thi pháp luật đất đai, Nhà nước có quyền chấm
dứt quyền sử dụng đất đối với các hành vi vi phạm pháp luật đất đai.
Từ các cách hiểu trên, có thể thấy thu hồi đất có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, thu hồi đất là việc thực hiện quyền định đoạt đất đai của Nhà nước
với vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và được pháp luật đất đai quy

định.
Thứ hai, thu hồi đất xuất phát từ một yêu cầu cụ thể (do nhu cầu về lợi ích
chung như: phục vụ quốc phòng an ninh, phát triển kinh tế xã hội, lợi ích công
cộng...) hoặc trong một hoàn cảnh cụ thể như: do vi phạm pháp luật đất đai, hết thời
hạn sử dụng đất, người sử dụng đất trả lại đất...
Thứ ba, thu hồi đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện bằng
một quyết định hành chính có tên gọi là quyết định thu hồi đất nhằm làm chấm dứt
quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân, gia đình đối với đất.

8


Thứ tư, thu hồi đất không chỉ chấm dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân đối với một mảnh đất nhất định mà còn gây ra những hậu quả xã
hội cần phải giải quyết, đó là người bị thu hồi đất bị mất chỗ ở hoặc mất đất sản
xuất...hậu quả là, cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của họ bị đảo lộn, rơi vào cảnh
không có chỗ ở hoặc không có việc làm...đòi hỏi Nhà nước phải có biện pháp để hỗ
trợ, giải quyết sau khi thu hồi đất.
Như vậy, có thể khái quát: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành
chính để thu hồi lại đất và quyền sử dụng đất đang có người sử dụng, trong những
trường hợp nhất định theo quy định của Luật đất đai”.
1.1.1.2. Khái niệm bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
Bồi thường là một thuật ngữ được sử dụng cho những trường hợp người có
hành vi gây thiệt hại cho người khác và phải có trách nhiệm bồi thường cho người
bị thiệt hại do hành vi của họ gây ra.
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng: “bồi thường, đền bù những tổn hại đã gây
ra”
Trong lĩnh vực pháp luật đất đai, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi
Nhà nước THĐ để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, mục đích phát triển
KT-XH vì mục đích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất này không do lỗi của

người sử dụng mà vì mục đích chung của xã hội. Với tư cách là đại diện chủ sở hữu,
Nhà nước có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người bị
THĐ, đồng thời giúp chủ đầu tư nhanh chóng có mặt bằng cho việc thực hiện dự án.
Theo khoản 6, điều 4, LĐĐ năm 2003 quy định: “Bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đai đối với diện tích
đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất” [29]. Khái niệm này chưa thể hiện đầy đủ
giá trị mà Nhà nước cần phải bù đắp cho người sử dụng đất, bao hàm cả những thiệt
hại về tài sản trên đất và những thiệt hại vô hình khác mà không thể đo đếm được
như: môi trường sống của cộng đồng dân cư, điều kiện học tập, các dịch vụ, tiện ích
sinh hoạt... Vì vậy, tại Khoản 12, Điều 3 LĐĐ 2013 về giải thích từ ngữ đã quy định
rõ: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với
diện tích đất bị thu hồi cho người sử dụng đất” [29]. Mặc dù không giải thích thế

9


nào là bồi thường đối với tài sản trên đất nhưng trong tất cả các quy định của mục 3,
chương 6 của LĐĐ 2013 đều nhất quán sử dụng thuật ngữ bồi thường thiệt hại đối
với tài sản trên đất.
Từ đó có thể hiểu: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước
hoặc tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng sử dụng vào
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh
tế...phải bù đắp những tổn hại về đất và tài sản trên đất do hành vi thu hồi đất gây ra
cho người sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.
Theo quy định tại Điều 74, LDĐ 2013: “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu
hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì
được bồi thường”. Có nghĩa là, khi hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không
phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc có đủ

điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất.
Bên cạnh đó, pháp luật đất đai cũng quy định các trường hợp bị thu hồi đất
mà không được bồi thường, hỗ trợ như: đất được Nhà nước giao để quản lý, đất bị
thu hồi do vi phạm pháp luật và do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự
nguyện trả lại đấtm không đủ điều kiện cấp sổ đỏ
1.1.1.3. Hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước THĐ đều là hậu quả pháp lý
trực tiếp do hành vi THĐ của Nhà nước gây ra. Song, bồi thường là hệ quả tất yếu
của việc THĐ thì hỗ trợ được xem là biện pháp bổ sung, là sự “kéo dài” của quá
trình bồi thường, đóng vai trò khỏa lấp khoảng trống mà các quy định về bồi thường
chưa giải quyết được, nhằm bù đắp một cách thỏa đáng những thiệt hại do bị Nhà
nước THĐ gây ra. Ngoài các thiệt hại hữu hình về giá trị quyền sử dụng đất, công
trình xây dựng, cây trồng vật nuôi, đối tượng bị thu hồi đất còn chịu ảnh hưởng bởi
các thiệt hại vô hình khác như mất ổn định cuộc sống, mất chỗ ở, mất tư liệu sản
xuất, phải học nghề mới, thiệt hại về tinh thần…Hỗ trợ, tái định cư thể hiện chính

10


sách nhân đạo của Nhà nước và biểu hiện bản chất “của dân, do dân, vì dân” của
Nhà nước ta nhằm hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với người bị thu hồi đất và giúp họ
nhanh chóng ổn định cuộc sống.
Tại Khoản 7 Điều 4 LĐĐ 2003 quy định: “Hỗ trợ khi Nhà nước THĐ là việc
nhà nước giúp đỡ người bị THĐ thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới,
cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới”. Khái niệm này đã được LĐĐ 2013 điều
chỉnh lại theo hướng đảm bảo mục đích cơ bản của hỗ trợ, đó là giúp đỡ người bị
THĐ sớm ổn định cuộc sống, theo đó: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”
(khoản 14, điều 3). Với khái niệm này, LĐĐ 2013 đã khẳng định mục đích đối với

hoạt động hỗ trợ của Nhà nước, với ý nghĩa đã được thể hiện rất rõ ràng. Nếu như
việc bồi thường là trách nhiệm pháp lý của Nhà nước nhằm bù đắp những tổn hại về
đất và tài sản trên đất do hành vi thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất theo quy
định của pháp luật đất đai với nguyên tắc thiệt hại đến đâu, bồi thường đến đó. Còn
hỗ trợ thể hiện trách nhiệm xã hội của chủ thể này trong việc giúp đỡ người sử dụng
đất vượt qua những khó khăn để ổn định sản suất và đời sống, nó mang tính “giúp
đỡ”, chia sẻ, thể hiện việc cộng thêm vào nên không đòi hỏi tính tương xứng như
bồi thường.
“Tái định cư” là nội dung được đề cập trong các quy định về bồi thường
khi Nhà nước THĐ, song các văn bản quy phạm pháp luật tại thời điểm này lại
chưa đưa ra được khái niệm cụ thể về tái định cư. Tuy nhiên, căn cứ vào LDĐ
2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành, có thể hiểu tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất là: việc Nhà nước bố trí, sắp xếp nơi ở mới cho người sử dụng đất
bằng giao đất ở hoặc giao hoặc bồi thường bằng tiền để lo chỗ ở mới khi bị Nhà
nước thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở.
Như vậy, vấn đề tái định cư chỉ đặt ra khi người sử dụng đất bị thu hồi đất ở.
Trong trường hợp này, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải chuẩn bị nơi ở
mới đáp ứng đầy đủ những điều kiện mà pháp luật quy định. Sự bảo đàm cho việc
tái định cư có thể được thực hiện bằng một diện tích đất ở hoặc nhà ở tại khu tái
định cư hoặc bằng tiền để tự lo chỗ ở mới. Điều này thể hiện trách nhiệm của Nhà

11


nước đối với sự tôn trọng và bảo hộ quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp
2013 ghi nhận, đó là: công dân có quyền có chỗ ở.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất
Khi Nhà nước thu hồi đất, dù là vì lợi ích chung của quốc gia nhưng nó cũng
làm ảnh hưởng đến lợi ích của người bị thu hồi, người hưởng lợi từ việc thu hồi đất

(các nhà đầu tư, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân...) nên bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện trách
nhiệm của Nhà nước đối với quyền tài sản của người sử dụng đất, nhằm giải quyết
một cách hợp lý mối quan hệ về mặt lợi ích giữa các chủ thể có liên quan, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
- Đối với người bị thu hồi đất
Vì lợi ích chung của xã hội, Nhà nước thực hiện thu hồi đất. Điều này không
tránh khỏi một bộ phận trong xã hội bị ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và phải
gánh chịu những mất mát về mặt lợi ích. Bởi vậy, thực hiện bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư cho người bị thu hồi đất nhằm hướng tới mục tiêu bù đắp thỏa đáng
những lợi ích mà người sự dụng đất phải từ bỏ để phục vụ cho sự phát triển. Để làm
được điều đó, đòi hỏi Nhà nước phải giải quyết triệt để bài toán về mặt lợi ích giữa
Nhà nước- người có đất bị thu hồi và người nhận lại quyền sử dụng đất để thực hiện
các dự án đầu tư. Đó cũng chính là bảo đảm quyền về tải sản hợp pháp của công
dân mà Hiến pháp và Bộ luật Dân sự đã ghi nhận. Từ thực tế giải quyết các tranh
chấp, khiếu kiện về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
cho thấy, nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh những “Điểm nóng” với số đông
người tham gia, gây nên sự bất ổn về tình hình chính trị, trật tự an toàn XH là do
chưa giải quyết được một cách có hiệu quả trong hoạt động bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Đối với nhà nước
Hoạt động bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thể hiện trách nhiệm của Nhà nước
với tư cách là đại diện cho chủ sở hữu và thống nhất quản lý đất đai. Với vị trí đó,
pháp luật bảo đảm cho Nhà nước có quyền quyết định việc phân bổ và điều chỉnh

12


đất đai để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội và bảo vệ an ninh
quốc phòng, thông qua các hoạt động giao đất cho thuê đất, thu hồi đất. Bởi vậy

việc thực hiện tốt vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
giúp cho hoạt động này được thực hiện một cách nhanh chóng, hiệu quả, giảm áp
lực đối với Nhà nước từ việc tạo ra quỹ đất sạch để thực hiện các dự án đầu tư. Mặt
khác thực hiện tốt hoạt động này còn góp phần làm cho môi trường đầu tư trở nên
hấp dẫn hơn, thu hút được nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam. Với sự đảm bảo một cách hợp lý, linh hoạt quyền lợi cho
người có đất bị thu hồi sẽ giúp cho Nhà nước có được sự đồng thuận và niềm tin
của người dân trong hoạt động bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Qua đó làm bền
chặt hơn mối quan hệ gắn kết giữa Nhà nước và nhân dân. Tạo nền tảng cho sự triển
khai các hoạt động điều phối đất đai và các hoạt động quản lý khác hướng tới lợi ích
của cộng đồng. Do vậy, ngoài việc bù đắp những tổn thất về vật chất, Nhà nước còn
có trách nhiệm trong việc giảm thiểu sự tổn thất về mặt tinh thần cho người có đất
bị thu hồi, hạn chế sự xáo trộn đối với cuộc sống, phong tục tập quán và công việc
của người sử dụng đất, sao cho họ sớm ổn định và nhận được sự chia sẻ rủi ro của
xã hội. Với ý nghĩa đó, vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải đảm bảo được
yếu tố công khai, minh bạch, dân chủ, kịp thời và đúng quy định, để đất đai thực sự
trở thành nguồn lực quan trọng cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Mặt khác, với tư cách là nhà đầu tư, người có quyền lợi liên quan trong quan
hệ thu hồi đất. Nếu giải quyết được vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ giúp
cho nhà đầu tư sớm có được mặt bằng để thực hiện dự án, đảm bảo hiệu quả kinh
doanh cho nhà đầu tư. Trái lại, tiến độ thực hiện dự án không được đảm bảo do việc
bồi thường dây dưa kéo dài, không những ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh mà
thậm chí có thể vượt quá giới hạn pháp luật quy định về thời gian, chậm tiến độ.
Có thể nói, thực hiện hoạt động bồi thường, hỗ trợ, tái định cư một cách có
hiệu quả còn góp phần ngăn ngừa tình trạng khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai,
góp phần duy trì ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.

13



1.1.3. Cơ sở khoa học của việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất.
1.1.3.1. Cơ sở lý luận
Bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra dựa trên
cơ sở quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ. Tại điều 12,
Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về tài sản. Theo
đó, quyền sở hữu về tài sản của công dân Việt Nam được đảm bảo. Hiến pháp năm
2013 quy định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong
trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển
kinh tế- xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh
bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”.[24]
Như vậy, quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi cá nhân và tổ chức đã
được Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ. Khi Nhà nước THĐ để sử dụng vì mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì toàn bộ tài sản hợp pháp
gắn liền với đất bị thu hồi do người sử dụng đất tạo ra được xác định là tài sản hợp
pháp của cá nhân, tổ chức và phải được bồi thường theo giá thị trường. Đối với
trường hợp người sử dụng đất bị thu hồi đất ở phải di chuyển chỗ ở, Nhà nước thực
hiện tái định cư cho các đối tượng này.
Về bản chất, Nhà nước ta do nhân dân lao động làm chủ, thiết lập nên đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Nhà nước theo đuổi sứ mạng
cao cả là phục vụ nhân dân và chăm lo cho lợi ích của nhân dân. Vì vậy, khi Nhà
nước thu hồi đất ở của người dân để sử dụng vì bất cứ mục đích gì mà họ phải di
chuyển chỗ ở thì Nhà nước phải có bổn phận và nghĩa vụ bồi thường, thực hiện việc
tái định cư cho người sử dụng đất để họ sớm ổn định cuộc sống.
Về lý luận, thiệt hại về lợi ích của người sử dụng đất là hậu quả phát sinh
trực tiếp từ hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra. Hơn nữa, trong điều kiện nhà
nước pháp quyền, mọi chủ thể trong xã hội: nhà nước, công dân, các tổ chức chính
trị, xã hội...đều phải bình đẳng trước pháp luật. Nước ta đang từng bước xây dựng
một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đó là xã hội mà quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Với cách hiểu như


14


vậy, khi Nhà nước thu hồi đất ở mà làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của người
sử dụng đất thì Nhà nước không những có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà còn
phải thực hiện việc tái định cư cho họ.
1.1.3.2. Cơ sở thực tiễn
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện chịu nhiều thách thức do
quá trình hội nhập quốc tế đem lại, để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức của xu
thế toàn cầu hóa thì chúng ta phải biết phát huy nội lực, tinh thần đoàn kết dân tộc
và khơi dậy lòng yêu nước, tính năng động, sáng tạo của mỗi người dân. Đây là
nguồn đóng góp to lớn vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Điều này chỉ có thể được thực hiện khi Nhà nước biết tôn trọng và bảo hộ
quyền lợi chính đáng của người dân. Đây cũng là một trong những lý do dẫn đến
việc ra đời các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Vấn đề bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được xây dựng dựa
trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước giao đất cho tổ chức, cá nhân, hộ
gia đình sử dụng ổn định, lâu dài.
Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, có thể nhận thấy
những thành tựu có được là nhờ sự đổi mới về tư duy, trước hết là tư duy kinh tế,
trong đó có đổi mới tư duy về sở hữu tài sản. Để giải phóng mọi năng lực sản xuất
của người lao động, tạo ra động lực mới cho sản xuất kinh doanh, Đảng ta rất sáng
suốt khi lựa chọn và thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp
làm khâu đột phá cho toàn bộ quá trình cải cách kinh tế với từng bước xác lập địa vị
làm chủ của hộ gia đình, cá nhân đối với đất đai thông qua việc giao đất cho họ sử
dụng ổn định và lâu dài, đồng thời mở rộng các quyền cho người sử dụng đất. Kể từ
đó, quyền sử dụng đất đã được tách ra khỏi quyền sở hữu đất đai, được chủ sở hữu
đất đai chuyển giao cho người sử dụng đất thực hiện và trở thành một quyền về tài

sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất. Hay nói cách khác, quyền sở hữu đất đai
thuộc về toàn dân do Nhà nước đại diện, còn quyền sử dụng đất thuộc về quyền sở
hữu của người sử dụng đất.

15


Như vậy, bằng việc pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền của người sử dụng
đất thì dường như người sử dụng đất ở nước ta là người sở hữu một loại quyền về
tài sản đó là quyền sử dụng đất. Bởi lẽ, người sử dụng đất được pháp luật trao cho
các quyền năng liên quan đến quyền sử dụng đất như: quyền chuyển nhượng, quyền
chuyển đổi, cho thuê, cho thuê lại, tặng, cho, thừa kế quyền sử dụng đất, thế chấp,
bảo lãnh góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Một khi pháp luật đã thừa nhận quyền sử
dụng đất là một loại quyền về tài sản của người sử dụng đất, thì khi nhà nước thu
hồi đất phải có trách nhiệm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người sử dụng đất.
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất
1.2.1.1. Khái niệm của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
Bất cứ một lĩnh vực nào, một quan hệ xã hội nào phát sinh trong đời sống xã
hội cũng rất cần đến sự điều chính của pháp luật, nhằm định hướng các quan hệ này
đi theo một trật tự chung thống nhất, phù hợp với lợi ích của Nhà nước của các bên
tham gia quan hệ và vì lợi ích chung của toàn XH. Pháp luật được xem là một trong
những phương thức hiệu quả để thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Hệ thống
pháp luật được chia thành những bộ phận cấu thành khác nhau để điều chỉnh các
quan hệ xã hội riêng biệt, chúng có tác đọng qua lại với nhau, đảm bảo cho các quan
hệ này tồn tại, phát triển hợp quy luật. Trong lĩnh vực đất đai, cùng với quá trình
THĐ là hàng loạt các quy phạm pháp luật được ban hành quy định về nguyên tắc,

điều kiện, nội dung và phương thức bồi thường, trình tự, thủ tục cũng như việc giải
quyết các khiếu nại tố cáo về bồi thường khi Nhà nước THĐ. Nghiên cứu, tìm hiểu
nội dung các quy định này, có thể thấy pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ
là một chế định quan trọng của pháp luật đất đai Việt Nam và được hiểu về mặt lý
luận như sau: “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là tổng hợp các
quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp

16


sinh trong quá trình bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhằm giải quyết hài hòa
lợi ích của Nhà nước, lợi ích của chủ đầu tư và của người bị thu hồi đất”.
Cơ chế điều chỉnh của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ được thể
hiện bằng việc Nhà nước sử dụng pháp luật tác động vào hành vi xử sự của các chủ
thể trong quan hệ bồi thường khi Nhà nước THĐ theo hướng:
Thứ nhất, đối với những hành vi xử sự của các chủ thể phù hợp với quy định
của pháp luật về bồi thường khi Nhầ nước THĐ, như hành vi THĐ đúng thẩm
quyền, thực hiện đúng trình tự, thủ tục THĐ,vv…thì pháp luật bảo vệ, tạo điều kiện
khuyến khích để nó pháp triển.
Thứ hai, đối với những hành vi xử sự của các chủ thể trái hoặc không phù
hợp với quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ như THĐ không
đúng thẩm quyền, áp dụng giá đất bồi thường không đúng pháp luật v.v…thì pháp
luật sử lý, ngăn ngừa và tiến tới loại bỏ dần khỏi đời sống xã hội. Qua đó việc tuân
thủ pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được xác lập và thực hiện triệt
để.
Mặt khác, tác động của cơ chế điều chỉnh pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước THĐ thể hiện trên hai phương diện;
Phương diện tích cực: Nếu nội dung các quy định của pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước THĐ phù hợp với thực tiễn khách quan, đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước thì sẽ điều chỉnh hướng dẫn hành vi xử sử của các chủ thể quan

hệ bồi thường tuân thủ đúng pháp luật và góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế.
Phương diện tiêu cực: Nếu nội dung các quy định của pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước THĐ lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn khách quan và
chậm sửa đổi, bổ sung sẽ trở thành rào cản hành vi xử sự của các chủ thể trong quan
hệ bồi thường.
1.2.1.2. Đặc điểm của pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
Pháp luật với bồi thường khi Nhà nước THĐ với tư cách là một chế định
đặc thù trong quản lý nhà nước về đất đai, có một số đặc điểm cơ bản sau:

17


Thứ nhất, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ chịu sự ảnh hưởng và
chi phối bởi hình thức sở hữu toàn dân về đất đai, điều này được chứng minh ở hai
khía cạnh sau:
Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai nên Nhà nước có
quyền phân bổ và điều chỉnh đất đai cho các mục tiêu kinh tế, xã hội. Trên cơ sở đó,
Nhà nước có quyền THĐ của người này để chuyển giao cho người khác. Vì vậy
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ quy định quyền của Nhà nước trong
việc ra quyết định THĐ trong những trường hợp cần thiết do nhu cầu của Nhà nước
và XH ngay cả khi người sử đất đang khai thác và sử dụng.
Nhà nước với vai trò là chủ sở hữu đại diện duy nhất đối với đất đai, nên
tránh để sự lạm quyền, độc quyền, tùy tiện trong thu hồi và bồi thường khi THĐ;
đồng thời thể hiện vai trò của Nhà nước là “đại diện” cho toàn thể nhân dân. Pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ phải quy định rõ và chặt chẽ về căn cứ THĐ,
các nguyên tắc điều kiện bồi thường, nội dung bồi thường và trình tự thủ tục thực
hiện việc bồi thường, chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước THĐ.
Thứ hai, cơ sở để bồi thường, hỗ trợ trong pháp luật về THĐ không chỉ dựa

trên những thiệt hại về vật chất thực tế mà người dân phải gánh chịu khi Nhà nước
THĐ, mà còn phải tính đén những tổn hại phi vật chất ở thời điểm thu hồi và trong
tương lai mà người dân phải đối mặt. Bởi lẽ, đối tượng bị THĐ có điều kiện sống và
công việc để mưu sinh mang tính đặc thù riêng, khác với các chủ thể sử dụng đất
khác, đất bị thu hồi chính là nơi ở chính để người dân sinh sống mà không gì thay
thế được.
Thứ ba, pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước THĐ phải giải
quyết hài hòa mâu thuẫn giữa lọi ích “Công” của Nhà nước, của XH và lợi ích “Tư”
của người sử dụng đất trong THĐ. Điều nay thể hiện khi THĐ để sử dụng cho mục
đích chung thì Nhà nước phải chú trọng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất bị thu hồi, dựa trên cơ sở quyền sử dụng đất là một loại quyền về
tài sản được pháp luật bảo hộ.

18


1.2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất
- Nhóm các quy phạm về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là những quy định chung mang
tính nền tảng, định hướng cho quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật. Việc thực
hiện nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo cho quá trình thực thi
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được khách quan, công bằng, công khai,
kip thời và đúng quy định của pháp luật.
- Nhóm các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Trong mối quan hệ về quyền tài sản, người sử dụng đất được Nhà nước bảo
hộ những lợi ích hợp pháp, và một trong những lợi ích đó là sự trả lại giá trị quyền
sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi. Thực chất quan hệ này mang bản chất của loại
giao dịch đặc biệt giữa Nhà nước và người sử dụng đất. Nhà nước thu lại đất và trả
tiền hoặc giao lại một diện tích đất khác, trên cơ sở giá trị của thửa đất bị thu hồi.

Bởi vậy, để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, người có đất bị thu hồi phải đáng
ứng những điều kiện mà pháp luật quy định. Đó là căn cứ để xác định các trường
hợp được bồi thường và các trường hợp không được bồi thường trên cơ sơ xác định
tình trạng pháp lý của thửa đất, nguồn gốc sử dụng đất và thời hạn sử dụng đất để
giúp các cơ quan chức năng đưa ra phương án bồi thường phù hợp.
- Nhóm các quy định về giá đất làm căn cứ để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Trong lĩnh vực đất đai, giá đất là công cụ cho quá trình vận hành các giao
dịch diễn ra trên cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Trong mối quan hệ giữa
Nhà nước với người sử dụng đất, giá đất do Nhà nước quy định bao gồm hai loại:
bằng giá đất và giá đất cụ thể. Mỗi loại giá nói trên được sử dụng cho các mục đích
phù hợp. Căn cứ vào những thông tin về thửa đất, thông tin về giá đất thị trường,
UBND cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể để tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước
công nhận quyền sử dụng đất, tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu
tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất…tính tiền
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Với cách thức xác định giá đất cụ thể hiện
nay, đã phần nào khắc phục được độ trễ từ việc ban hành khung giá đất trước đây,

19


×