A.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng để
phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; khi
thu hồi đất, Nhà nước sẽ phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho
người có đất bị thu hồi để giải phóng mặt bằng. Mục đích của việc bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư là nhằm bù đắp những tổn thất mà NSDĐ phải gánh chịu, giải quyết
các vấn đề về kinh tế- xã hội mà hậu quả của thu hồi đất gầy ra để qua đó nhằm ổn
định xã hội, chính trị , giải quyết hài hòa lợi ích hợp pháp giữa NSDĐ, Nhà nước
và nhà đầu tư trong việc sử dụng đất vì lợi ích chung. Tuy pháp luật đã quy định rõ
ràng về vấn đề này nhưng vẫn có rất nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng đến việc
xây dựng và thi hành về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
đặc biệt là trong thời gian gần đây. Chính vì thế em xin chọn đề tài “ Phân tích
các yếu tố tác động đến việc xây dựng và thi hành pháp luật về bồi thường , hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở nước ta”
B.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.
Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Pháp luật hiện hành tuy đã đưa ra các quy định về bồi thường , hỗ trợ, tái định cư
khí Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên khái niệm thế nào là bồi thường, hỗ trợ , tái
định cư thì lại chưa được nêu rõ. Chính vì vậy ta có thể hiểu đơn giản các khái
niệm trên như sau:
Bồi thường: là việc nhà nước trả lại giá trị đối với diện tích đất bị thu hồi cho
NSDĐ
Hỗ trợ: Là việc nhà nước giúp đỡ tạo điều kiện cho người có đất bị thu hồi ổn định
sản xuất, hỗ trợ về chuyển đổi nghề nghiệp, di chuyển chổ ở , tạo việc làm để ổn
định đời sống, vượt qua khó khăn trước mắt.
Tái định cư: Là việc nhà nước bố trí chổ ở mới , ổn định cho những người sử dụng
đất bị thu hồi đất mà phải di chuyển đến chổ ở mới.
II.
Các yếu tố tác động đến việc xây dựng và thi hành pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
1.
Những tác động tích cực đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Sau khi Luật Đất đai 2003 được ban hành thay thế Luật Đất đai 1993, sửa đổi, bổ
sung năm 1998, 2001 (gọi chung là Luật Đất đai), chính sách về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ta đã có nhiều thay đổi và ngày càng
phù hợp hơn với yêu cầu của thực tế cũng như yêu cầu của các quy luật kinh tế thị
trường . Nhằm cụ thể hóa chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định
1
tại Luật Đất đai Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành như:
Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03-12-2004; NĐ 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 25-5-2007 về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực
hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất, giải quyết khiếu nại về đất đai và mới đây là NĐ 69/2009/NĐ-CP
ngày 13-8-2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá
đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; và nhiều thông tư hướng dẫn khác .
Các văn bản pháp luật về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã thể hiện
được tính khả thi trong quá trình áp dụng pháp luật vào hoạt động bồi thường, giải
phóng mặt bằng của Nhà nước. Vì thế có thể nói những chính sách mà nhà nước
đưa ra đã có tác động tích cực đến vấn đề thực thi các quy định pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên thực tế và thể hiện ở
những khía cạnh sau:
Một là, đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ngày càng được xác định
đầy đủ chính xác (khoản 1 Điều 14 NĐ 69/CP), phù hợp với tình hình thực tế phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như tạo cơ sở pháp lý rõ ràng hơn trong việc
quản lý đất đai của Nhà nước, của các tổ chức, cá nhân và cũng làm cho người
nhận đền bù phần nào cảm thấy thỏa đáng hơn khi Nhà nước thu hồi
Hai là, mức bồi thường hỗ trợ ngày càng cao đã tạo điều kiện cho người bị thu hồi
đất có thể khôi phục lại tài sản bị mất.
Ba là, trình tự thủ tục tiến hành bồi thường hỗ trợ tái định cư (Điều 28, 29 NĐ
69/CP) cũng đã được đơn giản hóa nhằm giải quyết những khúc mắc trong công
tác thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; giúp cho các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện công tác bồi thường, tái định cư đạt hiệu quả.
Bốn là, tại nhiều địa phương bên cạnh việc thực hiện các quy định Luật Đất đai
năm 2003, các Nghị định hướng dẫn thi hành cũng đã đưa ra các văn bản pháp quy
áp dụng cho địa phương mình trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm
đạt được hiệu quả cao trong việc thực hiện các dự án của Nhà nước cũng như của
các thành phần kinh tế
Năm là, nhận thức về vai trò, ý nghĩa cũng như tính phức tạp của việc thu hồi đất,
tái định cư của các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý đã được nâng lên, trong
đó về phía Chính phủ đã tạo nhiều điều kiện vật chất và kỹ thuật trong việc bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư; còn đội ngũ cán bộ đảm trách công tác bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư của các cấp, các ngành, các tổ chức về khả năng và kinh nghiệm
thực tiễn công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cũng ngày càng được khẳng định
hơn. Điều đó đã góp phần giảm bớt tác động tiêu cực đối với người dân cũng như
2
đối với dự án, nhất là xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ
cao, các dự án trọng điểm của Nhà nước, góp phần chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế,
ổn định đời sống sản xuất cho người có đất bị thu hồi.
Sáu là ý thức tự giác của nhân dân ta khá cao trong chấp hành quyết định thu hồi
đất của Nhà nước vào mục đích quốc phòng, an ninh, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ
thuật (như đường giao thông, công trình thủy lợi, v.v...), xây dựng cơ sở hạ tầng xã
hội (như trường học, bệnh viện, sân vận động, công viên, chợ, v.v...). Nhiều trường
hợp người bị thu hồi đất chịu thiệt thòi ít nhiều trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
nhưng vẫn vui lòng vì mong muốn được đóng góp chung để xây dựng một xã hội
văn minh hơn.
2.
Những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng, tác động đến việc xây dựng và thi
hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Bên cạnh chịu các tác động tiêu cực thì vấn đề xây dựng và thi hành pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất hiện nay chịu sự tác động
của nhiều yếu tố tiêu cực khiến cho vấn đề thực thi các quy định pháp luật còn gặp
nhiều khó khắn, vướng mắc khi đi vào thực tiễn. Ta có thể kể đến một vài yếu tố
chính như yếu tố con người, yếu tố về chính trị, yếu tố xã hội….
a.
Về chính trị
Để đảm bảo quyền có nhà ở của công dân và thực hiện chính sách đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu thì Nhà nước ta đã ban hành một
loạt các văn bản quy định về chế độ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người sử
dụng đất bị mất đất khi nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên vẫn có rất nhiều quy định
của pháp luật còn để ngõ ,chưa rõ ràng, thiếu tính khả thi nên đã có tác động rất
lớn đến việc thực thi các quy định đó trên thực tế, bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập
khi thi hành các quy định đó. Điều này thể hiện ở một số điểm như sau:
+ Vấn đề bồi thường, hỗ trợ tái định cư là lĩnh vực vô cùng phức tạp phát sinh do
cơ chế, chính sách của Nhà nước tới nay dù đã sửa đổi, thay thế liên tục nhưng
nhìn chung vẫn chưa hợp lý. Việc sửa đổi thường xuyên các quy phạm pháp luật
cũng vẫn chưa bao quát hết mọi vấn đề của nền kinh tế thị trường, trong đó đất đai
được coi là hành hóa đặc biệt nên đã tạo ra nhiều khoảng trống, thậm chí bất hợp lý
trong việc điều tiết các quan hệ đất đai. Chỉ tính từ năm 2003 sau khi Luật Đất đai
có hiệu lực ngày 1-7-2004, riêng trong lĩnh vực bồi thường hỗ trợ, tái định cư
Chính phủ đã liên tục ban hành, sửa đổi, bổ sung nhiều nghị định, thông tư…
hướng dẫn thi hành như: NĐ 197/CP- 2004; NĐ 84/CP năm 2005; NĐ 69/CP năm
2009; Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27- 7-2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16- 11-2004 về phương
3
pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất). Theo đó, việc quy định giá đất để
tính bồi thường cho người bị thu hồi trong một thời gian phải thay đổi liên tục
trong khi các dự án, công trình khi đã có quyết định thu hồi nhưng sau nhiều năm
vẫn không thể thực hiện do các chính sách bồi thường của chính quyền địa phương
cũng luôn phải thay đổi đã gây ra cho người dân tâm lý hoang mang và không trả
đất để chờ được bồi thường theo giá mới cao hơn giá hiện hành, nhất là việc bồi
thường đối với đất nông nghiệp thì người nông dân thường chịu thiệt thòi, còn
người bị thu hồi đất phi nông nghiệp thường được lợi.
Ngoài ra có nhiều quy định về xác định khung giá đất đã bộc lộ sự hạn chế ngay từ
đầu .Ví dụ Theo quy đinh của pháp luật hiện hành UBND tỉnh có thẩm quyền xác
định khung giá đất sử dụng làm căn cứ để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất dựa
trên nguyên tắc, phương pháp và khung giá đất do Chính phủ quy định. Quy định
này rõ ràng là không hợp lý bởi vì UBND cấp tỉnh vừa là cơ quan quản lý nhà
nước về đất đai có thẩm quyền thu hồi đất lại vừa là cơ quan có thẩm quyền xác
định khung giá đất để bồi thường như vậy sẽ dẫn đến tình trạng áp đặt, lạm quyền
trong việc xác định giá đất sao cho nhà nước có lợi nhất như vậy sẽ gây ra sự bất
công cho NSDĐ. Mặt khác việc xác định giá đất là một hoạt động mang tính
chuyên môn, mang tính kỹ thuật nghiệp vụ định giá chuyên nghiệp thực hiện.
Trong khi đó UBND tỉnh lại không phải là cơ quan định giá chuyên nghiệp nên
việc xác định giá đất để bồi thường dễ tiềm ẩn nguy cơ thiếu khách quan, công
bằng.
+ Vấn đề nữa là về cơ chế thu hồi đất: Theo quy định pháp luật hiện hành, hiện nay
có 2 cơ chế thu hồi đất đó là cơ chế hành chính và cơ chế dân sự. Việc song song
áp dụng 2 cơ chế này cũng mang lại rất nhiều lợi ích tuy nhiên cũng làm nảy sinh
một số vấn đề bất cập làm ảnh hưởng đến việc bồi thường, giải phóng mặt bằng khi
thu hồi đất. Ví dụ như đối với 2 mảnh đất có cùng một vị trí địa lý cùng một mục
đích sử dụng nếu khi thu hồi mà áp dụng 2 cơ chế khác nhau thì dẫn đến giá bồi
thường sẽ khác nhau bởi vì thường thì giá thỏa thuận bồi thường từ phía doanh
nghiệp bao giờ cũng cao hơn giá nhà nước do đó sẽ làm nảy sinh sự suy bì giữa
những người sử dụng đất có đất bị thu hồi dẫn đến việc khiếu kiện kéo dài làm cho
việc thu hồi , bồi thường gặp nhiều khó khăn.
+ Vấn đề về trình tự thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư qua nhiều
lần áp dụng trên thực tế đã dần dần có những thay đổi theo hướng tích cực. Trình
tự thủ tục đã được đơn giản hóa, rút gọn thời gian, mang lại hiệu quả cao. Tuy
nhiên do vài nguyên nhân mà cơ quan quản lý đã bỏ qua nhiều công đoạn trong
4
việc thu hồi, bồi thường ..như việc phải niêm yết thông báo cho người dân biết về
việc thu hồi đất…Điều đó đã dẫn đến nhiều người không biết đất mình bị thu hồi
hay không biết trước giá đền bù, bồi thường cho nên đến khi biết mà họ không
đồng ý thì lại khiếu nại. Do đó dẫn đến tình trạng khiếu kiện, tố cáo gây mất thời
gian trong việc thu hồi giải phóng mặt bằng…
Thực tế, tại nhiều địa phương trên cả nước nổi lên nhiều vướng mắc, bất cập trong
công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Nhiều dự án, công trình dây dưa, kéo
dài hàng chục năm do khâu giải phóng mặt bằng nhùng nhằng, chậm trễ. Nguyên
nhân thì có nhiều nhưng không thể không nói đến những bất cập trong chính sách:
Hệ thống các quy định liên quan còn nhiều chồng chéo, vừa thừa vừa thiếu; việc
thực thi còn thiếu triệt để, nhiều quy định đưa ra chỉ để đấy chứ không thể thực
hiện được.
b.
Về yếu tố con người
Thứ nhất đối với NSDĐ có đất bị nhà nước thu hồi : thì khi thực hiện chính sách
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm thực hiện các dự án, công trình như: mở rộng
đường giao thông thuộc khu dân cư; xây dựng nhà ở để kinh doanh; làm khu công
nghiệp cho doanh nghiệp hay trung tâm thương mại, v.v…thì thường xảy ra trường
hợp có người đang sử dụng đất ở vị trí thuận lợi (giáp mặt đường) nay bị thu hồi
toàn bộ phải tái định cư phải ở nơi khác, thì cũng khó có thể mua được một mảnh
đất như cũ để định cư. Hoặc ngược lại, có người đang sử dụng đất ở vị trí không
thuận lợi nhưng khi có dự án đi qua ngẫu nhiên họ lại được ở vị trí thuận lợi và
như vậy giá trị mảnh đất của họ lại tăng thêm nhiều lần do dự án, công trình đó
mang lại, nhất là tại các huyện giáp ranh trong các đô thị. Từ đó gây ra tâm lý
nhiều người bị thu hồi đất không muốn chuyển đi, hoặc nếu chấp nhận chuyển đi
họ thường đòi bồi thường với giá rất cao trong khi giá bồi thường của Nhà nước
thấp hơn nhiều so với giá thị trường, nên thường là các dự án rất chậm được triển
khai do quá trình thỏa thuận về giá bồi thường, hỗ trợ của các bên. Điều này đã làm
nảy sinh sự suy bì giữa những NSDĐ có đất bị thu hồi và gây ra tình trạng khiếu
kiện, tranh chấp kéo dài làm cho việc thu hồi, giải phóng mặt bằng, bồi thường
chậm triển khai.
Thứ hai là đối với nhà đầu tư , trong quá trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất, nhà đầu tư thường phải làm việc với nhiều đối
tác để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ…(khoản 1 Điều 28, Điều 29 NĐ 69/CP)
như: phải làm việc với UBND của cả ba cấp tỉnh, huyện và xã, làm việc với Ban
bồi thường giải phóng mặt bằng, làm việc với những người có đất bị thu hồi, với
5
Tổ chức phát triển quỹ đất nên không ít trường hợp phải chi phí đóng góp thêm
cho địa phương, chi thêm ngoài phương án cho người có đất bị thu hồi...Bên cạnh
đó, việc thu hồi đất để thực hiện những dự án như xây dựng nhà ở sinh thái, nhiều
địa phương cũng không ưu tiên trả bằng đất mà trả bằng tiền làm cho người dân
mất thêm thời gian đi tìm, mua đất để định cư nên cũng gặp nhiều khó khăn. Bên
cạnh đó theo cơ chế thu hồi dân sự có rất nhiều trường hợp Doanh nghiệp, nhà đầu
tư không tự thỏa thuận được với NSDĐ về giá bồi thường do người dân đưa ra đòi
hỏi vô lý yêu cầu giá bồi thường quá cao vượt khả năng tài chính của doanh nghiệp
khiến cho dự án không thể triển khai hoặc doanh nghiệp phải lại nhờ đến các cơ
quan công quyền để thu hồi đất.Điều này đã góp phần tăng tình trạng lạm quyền,
tham nhũng, quan liêu của một số cán bộ quản lý đất đai.
Thứ ba là về phía nhà nước, có thể nói tài nguyên đất là vô cùng quý giá đặc biệt là
trong giai đoạn nền kinh tế thị trường hiện nay, khi mà nhu cầu về tài nguyên đất
ngày càng tăng, thị trường BĐS có những biến đổi mạnh thì đã có rất nhiều cán bộ
nhà nước vì chạy theo đồng tiền đã ngày càng biến chất, tha hóa , hư hỏng đã tiếp
tay cho một số bộ phận có tiền gây nên tình trạng đầu cơ, lũng đoạn về thị trường
bất động sản. Bên cạnh đó vì sự thiếu hiểu biết cũng như yếu kém về pháp luật đất
đai của một số giới cán bộ quản lý đất đai đã gây nên tình trạng áp dụng sai quy
định của pháp luật trong việc bồi thường , hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất, hay
lạm dụng quyền lực để áp đặt ý chí của mình lên người khác khi có sự phản đối từ
phía NSDĐ có đất bị thu hồi mà điển hình là vụ cưỡng chế thu hồi đất sai quy định
pháp luật của UBND huyện Tiên Lãng đối với gia đinh ông Đoàn Văn Vươn gần
đây.
c.
Về xã hội
Tuy nhà nước đã ra các quy định ngoài việc bồi thường khi thu hồi đất thì nhà
nước còn hỗ trợ cho NSDĐ về chổ ở, chuyển đổi công việc làm, đào tạo nghề…
Tuy nhiên vấn đề hỗ trợ đòa tạo nghề, tìm kiếm công ăn việc làm mới là một điều
rất khó khăn đối với NSDĐ. Khi mà họ đều đã quen với cái cuốc , cái cày thì việc
đào tạo họ học một nghề mới, đặc biệt là các nghề đòi hỏi có kỹ thuật trình độ
chuyên môn là điều rất khó khăn, đạt hiệu quả không cao. Hằng năm nhà nước bỏ
ra hàng trăm, hàng chục tỷ đồng để nhằm hỗ trợ việc làm, đào tạo nghề cho người
bị thu hồi đất không có công ăn việc làm, nhưng để giúp NSDĐ có thể tiếp cận với
công việc mới thì đây vẫn là bài toán khó, gây đau đầu cho các cơ quan quản lý
nhà nước. Cho nên vấn đề hỗ trợ tưởng chừng như đơn giản nhưng lại rất khó
khăn bởi vì nếu không làm tốt công tác này thì sẽ dấn đến nguy cơ người thất
6
nghiệp ngày càng cao, đồng thời khi người dân bị mất đất, không có công ăn việc
làm ổn định thì dễ dẫn đến các tệ nạn xã hội, gây mất ổn định trật tự xã hội. Đồng
thời sẽ gây tốn kém, lãng phí cho ngân sách nhà nước.
Một vấn đề nữa là những trường hợp phải tái định cư cho người bị thu hồi đất ở đối
với các dự án lớn thì người bị thu hồi đất cũng chưa được giải quyết thỏa đáng do:
điều kiện khu tái định cư đa phần là rất tồi tệ về cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng cơ
sở trong khi pháp luật quy định Khu tái định cư phải có điều kiện bằng hoặc tốt
hơn khu đất bị thu hồi.Điều này khiến cho người dân bất bình, phản đối, khiếu kiện
gây nên tình trạng mất trật tự xã hội. Có thể nói nhà nước dường như chỉ giao cho
người bị mất đất một nơi chỉ để ở chứ không quan tâm đến chất lượng cuộc sống
của họ như thế nào, có tốt hơn hay không.
Còn về phía người dân, có nhiều trường hợp cho dù được đền bù giá cao, nhưng
điều họ muốn không phải nhằm hướng tới tiền nong, giá trị mà là cuộc sống ổn
định, là vấn đề tình cảm giữa chính quyền với người dân, rồi giữa những người
thân trong gia đình với nhau cũng như bảo đảm được yếu tố tâm linh đặc biệt là
trong vấn đề thu hồi đất liên quan tới mồ mả…Nhiều người dân có suy nghĩ theo
hướng tâm linh, họ không muốn rời bỏ nơi mà họ, tổ tiên của họ đã bao đời sinh
sống cho nên dù giá bồi thường có cao thì họ vẫn không muốn chuyển đi nơi khác.
Một vấn đề khác nữa là nước chúng ta là nước đang phát triển chính vì thế vấn đề
tài chính là một trong những vấn đề nan giải khi nhắc đến bồi thường , hỗ trợ hay
tái định cư. Chính vì ngân sách còn hạn hẹp nên việc bồi thường, hỗ trợ cho NSDĐ
còn chưa hợp lý và chưa đủ để người dân có thể trang trải cuộc sống của mình sau
khi bị mất đất. Hay nếu có được cấp nhà tái định cư thì chất lượng nhà ở vẫn còn
quá kém, không tốt bằng nơi ở mới chính vì vậy đa số người dân đều không có
muốn bị thu hồi đất.
3.
Giải pháp nhằm nâng cao tính thực thi các quy định của pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ,tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
+ Đảm bảo tính thống nhất, nhất quán trong chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định
cư, tránh tình trạng mỗi địa phương, mỗi dự án, mỗi công trình có mức bồi thường
và hỗ trợ khác nhau, từ đó làm nảy sinh ý tưởng so sánh quyền lợi từ phía người
dân. Khẩn trương hoàn thiện các quy định của pháp luật, theo hướng dựa trên cơ sở
thị trường để giải quyết vấn đề bồi thường cho người bị thu hồi đất theo hướng vừa
chung vừa riêng. Thống nhất nhưng không đồng nhất ,sáng tạo nhưng không vượt
rào, nhất quán nhưng không duy ý chí .Về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định
7
cư phải bảo đảm đúng theo các quy định của pháp luật, song các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cũng cần tính tới những biến động về mặt kinh tế đối với tài sản là
đất đai khi thu hồi, bởi vì đó chính là những tư liệu sản xuất chính của người dân
cũng như môi trường sinh sống duy nhất của hộ gia đình, cá nhân nếu mất đi và
nếu không được bồi thường để ổn định cuộc sống ít nhất là như cũ thì sẽ tạo lên sự
bất ổn định về mặt xã hội, về mặt chính trị cũng như sự gia tăng đói nghèo là rất
lớn. Vì vậy, khi thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì phải bảo
đảm ưu tiên trước tiên bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng cho người
bị thu hồi. Trường hợp không có đất để bồi thường thì phải bồi thường cho họ theo
giá đất của thị trường sau khi các bên đã có biên bản khảo sát tại địa phương vào
thời điểm thu hồi đất; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc giao đất
ở tái định cư hoặc nhà ở tái định cư, nếu có chênh lệch về giá trị quyền sử dụng đất
thì phần chênh lệch đó cũng được thanh toán bằng tiền cho họ.
+ Nâng cao chất lượng công trình quy hoạch tái định cư; chú ý đến yếu tố văn hóa,
tập quán, thói quen của đồng bào các dân tộc khi xây các khu tái định cư. Cần quy
định cụ thể, rõ ràng về hoàn nguyên những giá trị văn hóa, văn vật của cư dân chịu
tác động; những quy định cụ thể về bồi thường thiệt hại hữu hình và bồi thường
thiệt hại vô hình.
+ Nâng cao năng lực thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các ban, ngành ở
địa phương và các đơn vị tư vấn, cũng như tinh thần trách nhiệm, sự tuân thủ trình
tự thủ tục theo quy định của pháp luật, của cán bộ thực thi việc kiểm kê, kiểm đếm,
lập phương án bồi thường.
+ Có một kế hoạch dài hạn với nguồn tài chính đảm bảo trong nhiều năm để thực
hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Khống chế một cách nghiêm chỉnh về quy mô
thu hồi đất; xác định tiêu chuẩn bồi thường một cách hợp lý và hoàn thiện hơn nữa
quy trình thu hồi đất.
+ Khắc phục những khó khăn trong việc xác định nguồn gốc đất dẫn đến sự khó
khăn trong việc xác định điều kiện để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho
người dân bằng cách đưa vào những điều khoản để quy định rõ điều này.
+ Hoàn thiện chính sách về hậu tái định cư, cần có quy định rõ ràng về trách
nhiệm của Nhà nước, các nhà đầu tư, chủ dự án về công tác hậu tái định cư tránh
tình trạng “đem con bỏ chợ”, “nhóm dân cư bị bỏ rơi”; đảm bảo lợi ích thiết thân
của người dân: Nhà ở, đất ở, đất sản xuất, việc làm, học hành, các dịch vụ công
cộng, văn hóa, tâm linh… Có quy định về thành lập ban chuyên trách về hậu tái
định cư. Ban chuyên trách này có trách nhiệm theo dõi, nguyên cứu, lượng hóa,
8
báo cáo về đời sống xã hội của người dân trước và sau tái định cư và chịu trách
nhiệm trước pháp luật.
+ Ban hành những chế tài đủ mạnh để xử lý những trường hợp lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để trục lợi bất chính khi thực thi chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư. Cần phải rõ ràng, minh bạch trong việc thực hiện các bước quy hoạch và triển
khai dự án, bàn bạc công khai, thông báo đầy đủ đến người dân về các khâu bồi
thường, giải phóng mặt bằng.
+ Luật nên quy định hình thành những tổ chức trung gian trong việc đánh giá, giám
sát thực thi công tác bồi thường cũng như xác định giá (đất, nhà, tài sản gắn liền
với đất...) để tránh trường hợp làm sai quy trình (đang là hiện tượng khá phổ biến
trong công tác bồi thường), bao biện, vừa đánh trống vừa thổi kèn như hiện nay.
+ Xã hội hóa trong công tác di dời, giải tỏa, bồi thường, tái định cư;không chỉ định
thầu các công trình tái định cư (hoặc quy định các công trình có vốn đầu tư nhỏ
mới chỉ định thầu), các công trình lớn có ảnh hưởng lớn, tác động lớn, nhóm ảnh
hưởng lớn sẽ quy định đấu thầu công khai.
+ Luật cần quy định rõ về thời gian tối đa cho từng hạng mục bồi thường (chẳng
hạn thời gian tối đa cho việc xác định thời điểm xây dựng, nguồn gốc đất, số nhân
khẩu, lấy ý kiến người dân...) để tránh trường hợp cán bộ thực thi chính sách “vẽ
bóng”, cố tình làm trái, câu kết móc nối để trục lợi. có quy định chi tiết về việc
thưởng đối với những đối tượng giao đất đúng thời hạn và phạt đối với những đối
tượng chây ì trong công tác di dời gây thiệt hại cho Nhà nước.
C.
KẾT LUẬN
Qua những phân tích ở trên thì ta có thể thấy rằng có rất nhiều yếu tố tác động đến
vấn đề xây dựng cũng như thực thi các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ , tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Có thể nói đây là một trong các vấn đề
khó khăn và gặp nhiều vướng mắc đối với các cơ quan quản lý đất đai. Qua đó để
có thể rút ra các bài học kinh nghiệm cũng như tìm ra các biện pháp nhằm để cụ
thể hóa các quy định của phápluật một cách triệt để và có tính hiệu quả, đồng thời
xây dựng các quy địn đẳm bảo được lợi ích hài hòa giưã NSDĐ, nhà nước và nhà
đầu tư.
9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật đất đai 2003
2. Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 về hướng dẫn thi hành luật
đất đai 2003
3. NĐ 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25-5-2007 về việc cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự,
thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, giải quyết
khiếu nại về đất đai
4. NĐ 69/2009/NĐ-CP ngày 13-8-2009 của Chính phủ quy định bổ sung về
quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
5. />10
6. />
MỤC LỤC
Trang
A.
B.
I.
II.
Đặt vấn đề………………………………………………………………
Giải quyết vấn đề……………………………………………………….
Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư……………………………
Các yếu tố tác động đến việc xây dựng và thực thi pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất……………………………………..
1. Các yếu tố tác động tích cực đến việc xây dựng và thực thi pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất………………………..
2. Các yếu tố tác động tiêu cực đến việc xây dựng và thực thi pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất………………………..
3. Giải pháp nhằm nâng cao tính thực thi của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
A.
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất………………………………………..
Kết luận………………………………………………………………
11