Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.01 KB, 24 trang )

CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.1. KHÁINIỆMCHUNGVỀĐẦUTƯNƯỚCNGOÀI

1.1.1. Một số quan niệm vềđầu tư nước ngoài
Ngày nay Đầu tư nước ngoài đã trở thành một chìa khố vàng để mở cửa
nền kinh tế. Mặc dùĐầu tư nước ngoài (ĐTNN) được nghiên cứu và giải thích ở
nhiều giác độ khác nhau nhưng có một điểm chung được nhiều nhà nghiên cứu
thừa nhận đầu tư nước ngoài là một trong những giải pháp quan trọng để có thể
thúc đẩy và phát triển kinh tế của đất nước mình. Tuy nhiên trong thực tế cũng
có một số nước vì những lý do khác nhau đã tìm mọi cách hạn chế việc thu hút
vốn đầu tư nước ngồi vào nước mình và tăng cường bảo hộđầu tư trong nước.
Do vậy trên thế giới đã có những quan điểm khác nhau liên quan đến
lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Quan điểm của các nước đang phát triển: Xuất phát từ chính sách bảo hộ
mậu dịch,bảo hộ sản xuất trong nước nên các nước này đang e ngại, lo sợ, hoài
nghi về việc tư tưởng nước ngoài xâm nhập vào đất nước mình, nên tìm mọi
cách để che chắn dòng đầu tư, ngăn cản dòng đầu tư từ nước ngồi vào nước
mình. Song song với việc ngăn cản dịng đầu tư nước ngồi vào nước mình các
nước này cũng tìm mọi cách che chắn bảo hộđầu tư trong nước trước sự tấn


cơng của đầu tư nước ngồi, tạo ra những rào cản chặt chẽđối với việc tiếp nhận
đầu tư nước ngoài.
việc thành lập các vốn cơ bản cóở nước ngồi. Cịn trong Từđiển bách
khoa về kinh tế chính trị thìđầu tư nước ngồi là các chi phí cơ bản về phương
tiện, vật chất, lao động, tiền tệ nhằm tái sản xuất vốn cơ bản ở nước ngoài.
Trong Hiệp định mẫu về khuyến khích và bảo hộđầu tư Liên Xơ cịn quan niệm
đầu tư nước ngoài là tất cả các loại giá trị vật chất mà nhàđầu tưcủa nước này
đưa đến nhàđầu tư nước khác theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư nước
ngồi.


Quan điểm của các nước cơng nghiệp phát triển: Đầu tư nước ngoài đối
với họđã quá quen thuộc, nó khơng những có lợi cho nước đầu tư mà còn lợi
cho cả nước tiếp nhận đầu tư. Do vậy quan niệm vềđầu tư nước ngoài đúng đắn
là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Đầu tư nước
ngồi có thểđem lại phúc lợi cho mọi người, có thể hỗ trợ cho các nước khác
phát triển, việc tiếp nhận đầu tư có thể làm cho các nước xích lại gần nhau hơn.
Các nước phát triển thấu hiểu được vai trò của đầu tư nước ngồi nên họ tìm
mọi cách đểđầu tư thơng suốt vàđầu tư nước ngoài tự do hơn. Các nước này
quan niệm đầu tư nước ngoài là tư bản của nhàđầu tư nước này ở nước khác
được đưa vào theo những điều kiện nhất định nhằm những mục đích nhất định
(Anh, Mỹ...)
Theo quan niệm của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thìđầu
tư nước ngồi bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI) vàđầu tư gián tiếp (ODA). Các
nguồn đầu tư cho nước ngồi có tài trợ phát triển chính thức gồm viện trợ phát
triển chính thức và các hình thức khác như tín dụng xuất khẩu, tài trợ tư nhân
vay từ ngân hàng quốc tế, vay tín phiếu, đầu tư trực tiếp các nguồn tài trợ tư
nhân khác... Như vậy theo quan niệm của tổ chức này thì FDI là một trong
những nguồn tài trợ tư nhân, quan niệm này chưa đầy đủ vì chủ thể của FDI
khơng phải duy nhất chỉ có tư nhân mà cịn có nhà nưóc và các tổ chức quốc tế
khác. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là người nước ngoài trực tiếp bỏ vốn trực tiếp


tham gia quản lýđiều hành và có thể quyết định tồn bộ hoạt động hoặc có thể
tham gia quyết định.
Trong lịch sử thế giới đầu tư nước ngoài đã tồn tại từ lâu nay, từ thời tiền
tư bản, các công ty của Anh, Mỹ, Hà Lan, Tây Ban Nha, BồĐào Nha là những
công ty đi đầu trong lĩnh vực đầu tư nước ngồi dưới hình thức đầu tư vốn vào
các nước Châu Áđể khai thác đồn điền nhằm cung cấp ngun liệu cho nghành
cơng nghiệp của chính quốc, cùng với khai thác đồn điền là khai thác khoáng
sản nhằm mục tiêu thu lợi nhuận để kinh tế phát triển .

Do quan niệm của các nước khác nhau như vậy nên rất khó khăn cho vấn
đềđầu tư nước ngồi. Muốn đầu tư thuận lợi, các nước phải kí kết với nhau các
hiệp định quốc tế song phương cũng nhưđa phương về vấn đềđầu tư, cuộc đấu
tranh để xây dựng các văn bản pháp lý quốc tế nhiều bên vềđầu tư cho đến nay
vẫn cịn nhiều khó khăn do quan điểm khác nhau, hệ thống các hiệp định hiện
hành của WTO còn chưa có một hiệp định chung vềđầu tư cho nên vấn đềđầu tư
nước ngoài được giải quyết trong các hiệp định khác nhau của WTO như hiệp
định Trims, hiệp định Trips, hiệp định Gatts... Sau vòng đàm phán DoHa tổ
chức thưong mại thế giới đang phấn đấu để xây dựng một hiệp định chung
nhiều bên vềđầu tư hi vọng rằng sẽ kết thúc đàm phán trong năm tới (2005).
1.1.2. Định nghĩa vềđầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật
vềđầu tư tại Việt nam
Theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 (khoản
1 Điều 2) đầu tư nước ngoài được hiểu làđầu tư trực tiếp nước ngoài tức là việc
các tổ chức, cá nhân nước ngoài, nhàđầu tư nước ngoài trực tiếp đầu tư vào Việt
Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp
nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp
liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam chỉđiều chỉnh những quan hệđầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt
Nam, Luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam khơng điều chỉnh các quan hệđầu tư


gián tiếp như tín dụng quốc tế, viện trợ quốc tế và các quan hệđầu tư từ Việt
Nam ra nước ngoài.
Theo quy định của các hiệp định song phương vàđa phương về khuyến
khích và bảo hộđầu tư, đầu tư nước ngoài được hiểu là tất cả những giá trị vật
chất mà nhàđầu tưđưa vào từ nước ký kết này sang nước ký kết hữu quan theo
pháp luật nước sử dụng đầu tư. Các giá trị vật chất đó có thể làđộng sản, bất
động sản,tiền tệ và các cổ phiếu các hình thức tham gia cổ phần khác, các
quyền của nguyên đơn đối với các tài sản được góp để tạo ra các giá trị kinh tế

hoặc quyền được kiện đối với các dịch vụ có giá trị kinh tế, quyền tác giả,
quyền đối với các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu thương phẩm,
know-how, các giá trị vật chất khác được pháp luật nước nhận đầu tư công nhận
(biên bản kỳ họp thứ 3 của ban thường trực pháp lý thuộc ban thư ký SEV trang
19-20)
Đầu tư gián tiếp nước ngoài chủ yếu do các quốc gia và các tổ chức liên
chính phủ tiến hành, đầu tư gián tiếp không gắn với hoạt động kinh doanh sản
xuất của nhàđầu tư mà nóđược thể hiện dưới hình thức cho vay với lãi suất ưu
đãi hoặc viện trợ, do đó nó khơng nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận trực tiếp
và trước mắt nào từ vốn đầu tư. Khác với đầu tư gián tiếp, Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam điều chỉnh quan hệđầu tư trực tiếp, các nhàđầu tư trực tiếp
đưa vốn vào để kinh doanh và trực tiếp tham gia vào quản lý và sử dụng vốn
của mình, đầu tư trực tiếp chịu ảnh hưởng của những quy luật thị trường, tìm
kiếm lợi nhuận trực tiếp bằng vốn đầu tư của mình. Trong đầu tư trực tiếp người
nào có vốn có thể bỏ vốn để làm tăng thêm năng lực sản xuất hoặc tạo ra những
năng lực sản xuất mới, song cũng có thể mua lại một số cổ phần để thu hút được
lợi tức cổ phần. Trong đầu tư trực tiếp người có vốn bỏ ra có thể là người trong
nước mà cũng có thể là người nước ngoài nếu được luật pháp của nước nhận
đầu tư cho phép, nó khơng chỉ dựa vào nguồn vốn của nước tiếp nhận mà cùng
với vốn có thể có cả kĩ thuật cơng nghệ, bí quyết kĩ thuật, sản xuất kinh doanh,
năng lực Marketing của chủđầu tư khi đầu tư vốn làđã tiến hành sản xuất kinh


doanh và sản phẩm làm ra phải được tiêu thụở thị trường nước chủ nhà hoặc thị
trường lân cận. Đầu tư trực tiếp nước ngồi tồn tại dưới nhiều hình thức song
những hình thức cơ bản là chủđầu tư bỏ vốn thành lập xí nghiệp 100% vốn của
mình, mua lại tồn bộ hoặc một phần xí nghiệp của nước chủ nhà, cùng góp vốn
với nước chủ nhà, bỏ vốn xây dựng cơng trình vận hành sau đó chuyển giao cho
nước chủ nhà theo hợp đồng thoảthuận giữa hai bên nhưng hình thức liên doanh
là hình thức được ưa chuộng nhất từ trưóc đến nay.



1.2. CÁCYẾUTỐCƠBẢNHÌNHTHÀNHMƠITRƯỜNGĐẦUTƯNƯỚCNGỒI

Mơi trường là một khái niệm có nội hàm rộng vàđược sử dụng trong
nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo định nghĩa thơng thường mơi trường là tồn bộ
nói chung những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh
vật tồn tại phát triển trong mối quan hệ với con ngưòi hay sinh vật ấy hay mơi
trường là sự kết hợp tồn bộ hồn cảnh hoặc điều kiện bên ngồi cóảnh hưởng
tới sự tồn tại phát triển của một thực thể hữu cơ. Khái niệm môi trường thường
đi kèm với một khái niệm khác sau nó, mơi trường đầu tư là một trong những ví
dụ... Mơi trường đầu tư là tổng hồ các yếu tố chính trị, kinh tế, pháp luật...các
yếu tố này có liên quan mật thiết với nhau và tác động đến hoạt động của các tổ
chức, cá nhân nước ngoài tại một nước, các yếu tố này cấu thành môi trường
đầu tư. Môi trường đầu tư thuận lợi sẽ tạo điều kiện tốt cho cá nhân, tổ chức
nước ngoài hoạt động đầu tư tại nước đó, mơi trường đầu tư thuận lợi là một
mơi trường đầu tư trong đó bản thân từng yếu tố cấu thành nên môi trường đầu
tư phải thật hoàn chỉnh, thuận lợi và sự vận hành giữa các yếu tố này phải ăn
khớp với nhau để có thể tạo thành một chỉnh thể thống nhất, một chỉnh thể hồn
hảo, hấp dẫn, thu hút, lơi cuốn các nhàđầu tư. Các yếu tố cấu thành phải có tính
đồng bộ, nhất quán với nhau, hỗ trợ nhau để có thể tạo thành một môi trường
đầu tư thuận lợi cho các nhàđầu tư. Sau đây sẽđi sâu phân tích một số yếu tố cơ
bản của môi trường đầu tư :
1.2.1 Sựổn định về chính trị
Đây là yêu cầu đầu tiên quan trọng nhất quyết định đến việc thu hút vốn
ĐTNN. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tài nguyên phong phú, hạ tầng cơ sở
phát triển, nhân lực dồi dào và nhiều điều kiện thuận lợi khác cho nhàđầu tư mà
chính trị khơng ổn định thì khơng thể nào tạo ra được sự chuyển dịch tích cực
của các nguồn vốn ĐTNN. Khi tình hình chính trị khơng ổn định nhất là thể chế
chính trị khơng ổn định đi liền với nó là pháp luật thay đổi dẫn đến những mục

tiêu đặt ra cũng sẽ thay đổi cả phương thức thực hiện đểđạt được mục tiêu đó.
Những cái mà ngày hơm qua đã xây dựng được dưới chếđộchính trị cũđã có thể


trở thành lạc hậu thậm chí phải phá bỏ. Như thế sẽ thiệt hại về lợi ích trong đó
nhàĐTNN phải gánh chịu một phần vậy rõ ràng không đáp ứng được mục tiêu
lợi nhuận của nhàĐTNN. Chưa kểđến những trường hợp cịn, mất hoặc thất
thốt vốn đầu tư nếu như chính quyền mới thực hiện quốc hữu hố. Sự mất ổn
định thường biểu hiện dưới nhiều góc độ khác nhau đi liền với nó là những hậu
quả phát sinh khác làm thiệt hại đến lợi ích của nhàđầu tư. Chẳng hạn một số
nước trong khu vực như: Inđônêxia, Philippin thường xuyên có xung đột vũ
trang, bắt cóc, khủng bố khiến các nhàđầu tư lo ngại hoặc CHLB Nga và một số
nước SNG thường xuyên có khủng bố và bất ổn về chính trị khiến các nhàđầu tư
khơng dám đầu tư mạnh vì lo ngại có nhiều rủi ro …
Tiêu chí của sựổn định chính trị mà các nhàđầu tư quan tâm là sựổn định
vềđường lối, về tổ chức và nhân sự của cơ quan Nhà nước từ TW đến địa
phương, mức độ tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị, sự hoạt động
của các đảng phái. Nếu các điều kiện khác của mơi trường đầu tư khơng đổi
chính trị càng ổn định thìđộ tin cậy càng cao, càng hấp dẫn các nhàđầu tư.
Trong điều kiện cạnh tranh diễn ra gay gắt trên thị trường đầu tư sựổn định
chính trị có thểđược xem là một lợi thế so sánh cần phát huy. Đối với Việt Nam
từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới sựổn định chính trị ln được đảm bảo. Tuy
nhiên đứng trước nguy cơ diễn biến hoà bình và sự phá hoại của thế lực phản
động trong nước cũng như quốc tế chúng ta phải luôn cảnh giác đồng thời tiếp
tục duy trì và tăng cường sựổn định hơn nữa. Để giữ vững và tăng cường sựổn
định chính trị cần phải tiếp tục thực hiện đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về kinh tế,
văn hoá, giáo dục, tư tưởng, y tế…đặc biệt làđổi mới hệ thống chính trị, thực
hiện cải cách hành chính quốc gia. Yếu tố quyết định sự thành cơng đó là tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh, kịp thời ngăn chặn mọi âm mưu của thế lực phản động, bảo đảm quốc
phòng an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chính sách ngoại giao mềm dẻo, đảm bảo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ


quyền, đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ quốc tế với khẩu hiệu Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới vì hồ bình, hợp tác và phát
triển. Đây là xu thế lớn phản ánh đòi hỏi của các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Việt Nam đặt ra chính sách đối ngoại nhằm phục vụđường lối phát triển kinh tế
của đất nước mình đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, khai thác nguồn lực bên
ngoài phục vụ cho sự nghiệp của đất nước, nhiều nước đang cố gắng giữổn định
chính trị, tạo mơi trường hồ bình, thực hiện chính sách hồ giải, hoà hợp dân
tộc nhằm xây dựng một trật tự kinh tế quốc tế cơng bằng, bình đẳng, hợp lý. Mở
rộng quan hệđối ngoại Việt Nam sẵn sàng là bạn làđối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế. Phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển, mở rộng
quan hệ nhiều mặt song phương vàđa phương với các nước và vùng lãnh thổ,
các trung tâm chính trị kinh tế quốc tế lớn. Chính việc mở rộng quan hệ ngoại
giao là tiền đề cho việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trong đó có việc thu hút
ĐTNN. Sựổn định chính trị có mối quan hệ nhân qủa với sựổn định và an tồn
xã hội nó là nhân tố tác động trực tiếp đến lợi ích của nhàđầu tư, xã hội ổn định,
trật tự, có kỷ cương pháp luật làđiều kiện tối cần thiết cho các nhàđầu tư. Sựổn
định này có quan hệ với hàng loạt các nhân tố chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội
đến pháp luật. Những năm vừa qua Việt Nam đã giữđược sựổn định chính trị
mà dư luận thế giới đánh giá rất cao, quan hệ ngoại giao được mở rộng và Việt
Nam càng ngày càng thu hút được nhiều ĐTNN tạo điều kiện cho sự phát triển
kinh tếđất nước.
1.2.2. Sự phát triển kinh tế – kỹ thuật
Cùng với yếu tốổn định chính trị, yếu tố phát triển kinh tế–kỹ thuật cũng
đóng vai trị quan trọng trong mơi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam . Sự
yếu kém của nền kinh tế Việt Nam là nguồn gốc dẫn đến những hậu quả bất lợi

về chính trị, xã hội, quân sự và các quan hệ quốc tế. Do vậy từĐại hội VI Đảng
và nhà nước ta quyết tâm đưa đất nước sớm thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu,
đặt nhiệm vụ phát triển kinh tếở vị tríưu tiên hàng đầu của chiến lược. Mục tiêu


phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Việt
Nam sẽ ngày càng phát triển và không ngừng cải thiện về kinh tế.
Cải thiện nền kinh tế là một đòi hỏi khách quan, là một thách thức lớn đối
với Việt Nam, rõ ràng nước ta không thể cải thiện môi trường đầu tư khi nền
kinh tế thiếu thốn, chắp vá, không thể cạnh tranh trên trường quốc tế. Nước ta là
nước có vị tríđịa lý thuận lợi, được thiên nhiên ưu đãi, giàu tài nguyên thiên
nhiên, giàu tiềm năng, dân số gần 80 triệu người, nền văn hoá phong phúđậm đà
bản sắc riêng xuyên suốt bề dày lịch sử hàng nghìn năm đã hun đúc nên những
con người cần cù, ham học và sáng tạo. Tuy Việt Nam tài nguyên thiên nhiên
phong phú, tiềm năng dồi dào nhưng điều kiện kinh tế–kỹ thuật của đất nước
chưa đủ sức để có thể khai thác tốt, có hiệu quả cao tài nguyên thiên nhiên đó.
Ngày nay giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới đang diễn ra một cuộc
chạy đua quyết liệt nhằm cải thiện môi trường đầu tưđể hấp dẫn được nguồn
vốn đầu tư nước ngoài của các nước khác trên thế giới. Việt Nam đã vàđang cố
gắng khẳng định mình trong cuộc chạy đua này, một đất nước đang bước vào
thời kỳ cơng nghiệp hố-hiện đại hố (CNH-HĐH) chắc chắn sẽ là một điểm
đến đầy tiềm năng cho những ai biết sử dụng và phát triển nó.
Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm cạnh tranh, kiến
thức thị trường, khoa học cơng nghệ của nước ngồi để tạo cho mình một nền
kinh tế vững chắc. Hơn nữa chúng ta cũng cần thu hút vốn đầu tư trong nước,
nhà nước ta cần chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng để tạo cho mình một nền kinh
tế khá vững vàng có như thế mới có thể thu hút được vốn ĐTNN. Nếu chỉ chú
trọng thu hút vốn ĐTNN mà không chú trọng phát triển kinh tế trong nước
thìđất nước sẽ không phát triển được bởi ĐTNN chỉ là một bộ phận của nền
kinh tế nhưng nó khơng phải là hình ảnh thu nhỏ của nền kinh tếquốc dân. Do

vậy Việt Nam cần phải có những chính sách phát triển kinh tế–kỹ thuật thích
đáng để thu hút vốn ĐTNN.
Thu hút ĐTNN thuộc lĩnh vực quan hệ kinh tếđối ngoại vì vậy chỉ có thể
thu hút được đối tác bên ngồi nếu như quốc gia có chủ trương mở rộng quan


hệ, nói cách khác là thực hiện chiến lược kinh tế mở. Có thể nói đó làđiều kiện
tiên quyết, tuy nhiên trong điều kiện quốc tế hoáđời sống kinh tế quốc tế như
hiện nay sẽ khơng thể có một nước nào lại tự mình đóng cửa khơng quan hệ với
bên ngồi. Song tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, mở rộng phương thức mở
cửa khác nhau mà mức độ hiệu quả khác nhau. Năm 1987 Ngân hàng thế giới
đãđiều tra 41 quốc gia đang phát triển vàđã rút ra nhận xét là tốc độ tăng trưởng
kinh tế tỷ lệ thuận với mức độ mở cửa nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng đó tác
động qua lại rất chặt chẽ với việc thu hút vốn ĐTNN. Kinh nghiệm của các
nước ASEAN thập kỷ 60 và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng đã khẳng
định điều đó. Ở Việt Nam nếu so sánh thời kỳ trước 1987 đến bây giờ cũng thấy
phù hợp với nhận xét đó. Do vậy Việt Nam cần mở cửa bên ngoài đồng thời
tăng cường mở cửa bên trong, giữa mở cửa bên ngoài và mở cửa bên trong có
mối quan hệ mật thiết lẫn nhau, càng mở cửa bên trong càng thu hút được nhiều
ĐTNN, điều này liên quan đến vấn đề về nhu cầu thị trường, lao động, thơng tin
trong và ngồi ngồi nước (thơng tin kinh tế, thị trường, văn hố, xã hội, khoa
học công nghệ ) đặc biệt là phát triển liên lạc viễn thông quốc tế.
Để thu hút ĐTNN từ năm 1987 Việt Nam đã xây dựng và duy trì sựổn
định các hoạt động về tài chính, ngân hàng, khơng có những đợt biến động về
giá cả, tỷ giá hối đối…Điều đó làm n lịng các nhàđầu tư và chứng tỏ mơi
trường kinh doanh của Việt Nam đã có nhiều cải thiện.
Một trong những điều kiện mang tính chất tiên quyết hấp dẫn các nhàđầu
tưđó là sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Kĩ thuật càng cao càng đòi hỏi một kết
cấu hạ tầng tương đối hoàn chỉnh và hiện đại nhưđường giao thông, đường sắt,
đường bộ, hàng không, đường biển... đồng bộ, thông tin liên lạc thuận lợi, kịp

thời. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, khi các nguồn vốn đều vận động
thông qua thị trường, sự biến động nhanh chóng của thị trường hàng hố tiền tệ,
tài chính, kĩ thuật tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ, buộc các chủđầu tư
phải ứng phó kịp thời, điều đóđịi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật
hiện đại, để không một nhàđầu tư nào phải gánh chịu những thiệt hại và những


chi phí trực tiếp do cơ sở hạ tầng yếu kém gây ra. Những khoản thuế mà họ nộp
cho nhà nước nhận đầu tưđã bao hàm cả những chi phí về hạ tầng vật chất kĩ
thuật đó. Do đó tư bản nước ngồi chỉ nhảy đến nơi có mơi trường đầu tư thuận
lợi mà sự thuận lợi trước hết là nơi có cơ sở hạ tầng vật chất hồn chỉnh hiện
đại. Thường thì các quốc gia đang phát triển khơng có một hệ thống hạ tầng vật
chất đầy đủ, đồng bộ nhưđường giao thông, bến cảng sân bay, thông tin liên lạc
phục vụđủ mức ngay từđầu, những yếu tố này chỉ hình thành từng bước, có
trọng điểm và cùng với sự phát triển kinh tế ngày càng được hoàn thiện hơn.
Vìđầu tư vào xây dựng một kết cấu hạ tầng vật chất hiện đại, đồng bộđòi hỏi
những khoản vốn, kỹ thuật vô cùng to lớn, vốn lại luân chuyển chậm nên lợi
nhuận không cao nếu tư bản tư nhân không chịu bỏ vốn vào khu vực này địi hỏi
chính phủ nước nhận đầu tư phải gánh vác. Bước vào thực hiện chiến lược kinh
tế mở, cơ sở hạ tầng Việt Nam còn yếu kém và chưa đầy đủ, chưa phù hợp với
các yêu cầu hoạt động chuyển giao kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Song sau hơn
15 năm khôi phục và xây dựng từđống đổ nát của chiến tranh việt Nam bước
đầu đã có những hệ thống giao thơng vận tải, thông tin liên lạc, đặc biệt các
cảng biển, cảng hàng khơng được xây dựng duy trì và củng cố từ chiến tranh
cùng với hệ thống những xí nghiệp quốc doanh là cơ sở vật chất không kém
phần hấp dẫn đối với các nhàđầu tư nước ngoài. Hạ tầng cơ sở phải được cải
thiện và cóđầu tư thích đáng để tạo niềm tin và sự an tâm, tạo điều kiện thuận
lợi cho các nhàđầu tư khi họđầu tư vào Việt Nam như hệ thống điện, nước, bưu
chính viễn thơng, giáo dục, y tế, giao thơng vận tải, tài chính ngân hàng... tất
cảđều phải được quan tâm vàđầu tư một cách triệt đểđể nâng cấp, làm mới, ngày

càng cải thiện cho phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ sở hạ tầng
yếu kém là trở ngại rất lớn đối với các nhàđầu tư. Nó làđịn bẩy thúc đẩy nền
kinh tế, làđiều kiện quyết định đến chi phí sản xuất, tiến độđầu tư, chất lượng
sản phẩm và lợi nhuận của nhàđầu tư. Vấn đề tổ chức giao thông và chấp hành
luật lệ giao thông ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh
đang là một vấn đề nan giải, gây nhiều bức xúc cho xã hội, cho nên giao thông


cần được đặc biệt quan tâm và không ngừng cải thiện đểđảm bảo khơng chỉ vì
lợi ích kinh tế mà cịn giữ vững trật tự an tồn xã hội. Từ năm 2000 trở lại đây
Việt nam đã có nhiều giải pháp khắc phục yếu kém về giao thông như khôi phục
giao thông công cộng bằng các biện pháp trợ giá xe buýt, trang bị cơ sở hạ tầng
giao thông đô thị nhưđèn tín hiệu giao thơng, biển báo giao thơng, hạn chế xe
máy tham gia giao thơng, nâng lệ phíđăng kí xe máy, ơ tơ, quy định mỗi người
chỉđược đăng kí một xe. Tăng cường giáo dục mọi người tuân thủ luật lệ giao
thơng, trong vận tải hàng hố cần hạn chế thời gian xe tải cỡ lớn ra vào nội đô
thị, cần xây dựng các cảng, điểm tập kết hàng hoáở xung quanh thành phố.
Được sự giúp đỡ của Đức, Việt Nam đang nghiên cứu xây dựng hệ thống tàu
điện ngầm, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của tỉnh, nguồn điện cần phải
ổn định để phát triển sản xuất kinh doanh, giáđiện, giá nước phải rẻđể giảm chi
phíđầu vào cho các nhàđầu tư, giá bưu chính viễn thông quá cao cần hạ xuống
ngang bằng với các nước trong khu vực, hoàn thành đường dây 500 KV Bắc Nam, triển khai các dựán nâng cấp, sửa chữa, mở rộng các tuyến đường quan
trọng, thêm vào đó Ngân hàng thế giới đã chấp nhận cho Việt Nam vay với lãi
suất ưu đãi trong đó các khoản vay để thực hiện dựán nâng cấp hệ thống thanh
toán hiện đại cho ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Qua đó ta thấy yếu tố kinh
tếảnh hưởng lớn đến môi trường đầu tư. Sự phát triển kinh tế kĩ thuật làđiều
kiện để có một mơi trường đầu tư vững chắc, an tồn và hấp dẫn.
1.2.3. Sự phát triển của hệ thống pháp luật vềĐầu tư
Cũng như yếu tố kinh tế, chính trị, yếu tố pháp luật cũng có vai trị quan
trọng khơng kém đối với môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư có hấp dẫn hay

khơng? Có hồn thiện hay khơng? Là phụ thuộc không nhỏ vào các quy định
của pháp luật vềđầu tư. Tính hấp dẫn của một quốc gia về lĩnh vực đầu tư trước
hết phải được thể hiện ở Luật. Đối với mọi quốc gia, Luật đầu tư nước ngoài là
một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là cái mà các nhàđầu tưđều quan tâm.
Cùng với luật là các văn bản dưới luật trong hệ thống pháp luật là không
kém phần quan trọng, nghiên cứu các văn bản pháp lý liên quan đến đầu tư


nước ngoài chúng ta thấy các văn bản ban hành sau đó bao giờ cũng thống hơn
các văn bản trước thể hiện đúng chủ trương của Nhà nước Việt Nam là tạo điều
kiện ngày càng thuận lợi hơn cho các nhàđầu tưđủ sức cạnh tranh với các nước
xung quanh. Các nhàđầu tư khi thực hiện đầu tư vào một nước sẽ phải đụng
chạm rất nhiều vấn đề về luật pháp. Tuy nhiên cái mà họ quan tâm nhất đó là
các vấn đề về quyền kinh doanh, các biện pháp ưu đãi và bảo đảm đầu tư, các
thủ tục cấp phép đầu tư và các phương thức giải quyết tranh chấp vềđầu tư. Đối
với nước ta kể từ khi có Luật đầu tư nước ngồi năm 1987 được cơng bố các cơ
quan quản lý thường theo dõi tình hình thực tế, kịp thời kiến nghị những sửa đổi
bổ sung, đặc biệt đãđược Quốc hội sửa đổi bổ sung nhiều lần cho phù hợp với
cơ chế thị trường và quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế, sửa đổi lần một năm
1990 sau đó sửa đổi năm 1992, 1996 và sửa đổi gần đây nhất năm 2000. Vì thế
cho nên về cơ bản Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã phù hợp với nền
kinh tế mở, phù hợp với tình hình trong nước và trên thế giới, vừa đảm bảo lợi
ích kinh tế xã hội của Việt Nam, vừa tăng tính hấp dẫn với các nhàđầu tư nước
ngồi. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục sửa đổi bổ sung như hệ
thống pháp luật của nước ta chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu kinh doanh của các
nhàđầu tư nên gây nhiều khó khăn cho họ. Nhưđối tượng được hưởng ưu đãi thì
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định chỉ dành một sốưu đãi cho một số
dựán liên doanh, khơng ưu đãi cho xí nghiệp 100% vốn nước ngồi. Thực tế xí
nghiệp 100% vốn nước ngồi cũng gặp nhiều khó khăn như khơng có sự hỗ trợ
của đối tác Việt Nam, chịu rủi ro một mình, trong khi nhiều dựán này cũng

thuộc diện ưu tiên của Việt Nam. Vì vậy cho nên pháp luật cần có những biện
pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư nhiều hơn cho các nhàđầu tư, pháp luật
cũng cần phải được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nâng cao tính hấp dẫn. Hệ
thống pháp luật chưa đồng bộ chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu kinh doanh gây
khó khăn cho nhàđầu tư dẫn đến khó khăn trong vấn đềđầu tư. Dù luật đầu tư có
mềm dẻo thơng thống nhưng thủ tục đầu tư rườm rà phức tạp tạo ra những khe
hở cho quan chức địa phương sách nhiễu gây phiền hà, tham ô, hối lộ, gây thiệt


hại đến lợi ích nhàđầu tư làm họ nản lịng. Thủ tục đầu tư là một vấn đề nổi cộm
đang được chúng ta cải tiến từng bước. Đểđảm bảo tính hấp dẫn cần kiên quyết
thực hiện '' một cửa '' và quy định chặt chẽ thời gian tối đa để giải quyết thủ tục,
kiên quyết xử lý và xử lý nghiêm những trường hợp gây phiền hà, ăn hối lộ.
Chẳng hạn việc thẩm định thiết kế do Bộ Xây Dựng đề ra gồm 4 nội dung: Tư
cách pháp nhân; kiến trúc; an toàn xây dựng; giải pháp xây dựng và phòng
chống cháy nổ như hiện nay là quá phiền hà. Trong vấn đề này có lẽ chỉ nên
kiểm tra tư cách pháp nhân của nhà thiết kế và kiến trúc phải hợp quy hoạch
cảnh quan, còn các nội dung khác chỉ cần ban hành tiêu chuẩn, quy phạm xây
dựng để nhàđầu tư thực hiện và chịu trách nhiệm làđủ. Hướng sắp tới cần nhanh
chóng thực hiện tối ưu hố các thủ tục hành chính, rút ngắn tối đa thời gian mà
các nhàđầu tư phải chi phí cho các cơng việc thủ tục. Kinh nghiệm quốc tế trong
những năm qua cũng đã cho ta bài học kinh nghiệm mặc dùđộ thông thống như
nhau tạo ra tính hấp dẫn do luật đầu tư mang lại cao như nhau nhưng ở nước
nào có thủ tục đầu tưđơn giản gọn nhẹ thìởđó thu hút đầu tư mạnhhơn.
Chẳng hạn trong số các nước ở khu vực ASEAN như Thái Lan là nước
thực hiện đơn giản hoá thủ tục đầu tư khá mạnh, cơ quan hợp tác đầu tư là cửa
duy nhất tiếp nhận hồ sơ và giải quyết công việc tiếp theo đồng thời thay mặt
nhàđầu tư liên hệ với cơ quan hữu quan rồi trả lời nhàđầu tư, tạo điều kiện thuận
lợi cho nhàđầu tư nhanh chóng trong thủ tục hành chính khi đầu tư vào nước
mình. Do vậy mà Thái Lan thu hút được nhiều vốn đầu tư nhất trong khu vực.

Trái lại thủ tục ở Philippin quá rườm rà cóđến 45 cơ quan liên quan đến việc
thực hiện dựán. Riêng việc xét duyệt cho phép đầu tư cũng đã có 4 cơ quan có
thẩm quyền xét duyệt gây cản trởđối với việc thu hút đầu tư. Đối với nước ta
thủ tục đầu tư là vấn đề trở ngại việc thu hút đầu tư chẳng hạn thời gian chuẩn
bị dựán kéo dài thường 6 tháng đến 1 năm hoặc dài hơn, cơ quan này cũng có
quyền buộc nhàđầu tư trình dựán để họ xem xét góp ý mặc dù nhiều khi khơng
đủ trình độ, thêm vào đó việc chuẩn bị dựán của bên Việt Nam thường sơ suất,
khi đàm phán phải sửa đổi bổ sung nhiều lần. Các nhàđầu tưĐài Loan đánh giá


thủ tục đầu tư của Việt Nam quá rườm rà, gây lãng phí thời gian. Do những khó
khăn, phức tạp cộng sự thay đổi của cơ chế thị trường mà pháp luật vềđầu tư
cũng phải thay đổi như thế nào cho phù hợp với sự thay đổi của đất nước và thế
giới. Luật đầu tư nước ngoài 1987 quy định cụ thể về các lĩnh vực khuyến khích
đầu tư, các biện pháp bảo đảm đầu tư, chính phủ quản lý vềđầu tư nước ngoài.
Luật Đầu tư nước ngoài 1987 ban hành vẫn mắc phải những sai lầm những
nhược điểm vốn có của hệ thống pháp luật thời kì bao cấp, bởi chúng được ban
hành trong bối cảnh đất nước mới bước vào thời kìđổi mới sau Đại hội Đảng VI
năm 1986 nền kinh tế còn vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
quan hệ kinh tếđối ngoại tập trung vào Liên Xô vàĐông Âu. Luật đầu tư nước
ngồi 1987 chỉ tập trung hướng dẫn xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà coi
nhẹ hợp đồng hợp tác kinh doanh; giới hạn tư nhân phải chung vốn với tổ chức
kinh tế có tư cách pháp nhân để thành bên Việt nam; cho xí nghiệp liên doanh
được miễn giảm thuế lợi tức và chuyển lỗ 5 năm mà khơng áp dụng vấn đề này
với các hình thức đầu tư 100% vốn nước ngồi và hình thức hợp đồng hợp tác
kinh doanh. Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp
luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam. Ngày 30.9.1990 tại kì họp thứ 7 Quốc hội
khố VIII đã thơng qua Luật sửa đổi bổ sung một sốđiều của Luật Đầu tư nước
ngoài năm 1987 sửa đổi, bổ sung 15 điều trên 42 điều của Luật đầu tư nước
ngoài năm 1987 tập trung chủ yếu ba vấn đề :

1. Cho phép tư nhân hợp tác đầu tư với nước ngoài.
2. Quy định liên doanh nhiều bên và liên doanh tiếp.
3. Quy định hàng thay thế hàng nhập khẩu.
Sau khi sửa đổi bổ sung lần 1 Luật đầu tư nước ngồi 1990 đã có hàng
loạt các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng đãđược ban
hành mới hoặc sửa đổi bổ sung cho phù hợp. Với sự sửa đổi bổ sung đồng bộ
này hệ thống pháp luật vềđầu tư nước ngồi góp phần làm cho mơi trường đầu
tư nước ngồi ở Việt nam vào những năm 1990 thêm hấp dẫn. Luật đầu tư nước
ngoài bước sang một giai đoạn phát triển mới đánh dấu sự thành cơng của chính


sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên Luật
Đầu tư nước ngoài 1990 chỉ giải quyết được 3 vướng mắc nêu trên cịn có
những vướng mắc khác chưa kể những vướng mắc phát sinh mới đã cản trở
hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài 1992 đã sửa
đổi bổ sung một sốđiều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1990 vàđã giải quyết
những bức xúc này. Năm 1992 tình hình kinh tế xã hội đã có nhiều biến chuyển
tích cực việc hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về đầu tư
nước ngồi nói riêng đã tạo hành lang pháp lý mới cho nền kinh tế tiếp tục tăng
trưởng. Hơn nữa giai đoạn này hệ thống pháp luật Việt Nam có sự ra đời của
Hiến pháp 1992, Điều 25 quy định những nguyên tắc về hợp tác kinh tế với
nước ngoài, liên quan đến Đầu tư nước ngoài đã tạo cơ sở pháp lý mới cho hoạt
động đầu tư nước ngoài. Vấn đề thu hút vốn Đầu tư nước ngoài ngày càng có
tính cạnh tranh gay gắt số nước kêu gọi đầu tư nặng nhất là các nước đang phát
triển. Cải thiện mơi trường Đầu tư nước ngồi là vấn đề bức xúc của các Quốc
gia cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thực tiễn Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1992 cho thấy các mục tiêu kinh tế xã hội và tài chính của hoạt động
Đầu tư nước ngồi có mối quan hệchặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, khơng
khuyến khích đúng mức sẽ khơng thu hút được đầu tư nước ngồi, vốn đầu tư
nước ngồi vào ít thì các mục tiêu kinh tế xã hội cũng khơng đạt được vì vậy

việc điều chỉnh hành lang pháp lý vềđầu tư nước ngồi trong đó có vấn đề mở
rộng, khuyến khích vàưu đãi là vấn đề có tính khách quan, ngày 23.12.1992
Quốc hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài, đã sửa đổi bổ
sung 9 Điều, bổ sung mới 3 Điều tập trung vào 9 vấn đề quan trọng là cho phép
doanh nghiệp tư nhân hợp tác đâù tư với nước ngoài; quy định hạn chế góp vốn
bằng nguồn tài nguyên; tăng dần tỉ trọng góp vốn của bên Việt Nam, tăng thời
hạn đầu tư lên 50 năm đến 70 năm; Mở tài khoản vốn vay ở nước ngoài; quy
định về khu chế xuất; bổ sung phương thức BOT; bảo đảm quyền lợi của
nhàđầu tư khi có sự thay đổi của pháp luật; cho doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp liên doanh. Sau đó Nghịđịnh số 18


ngày 26.12.1992 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước
ngoài 1992 thay thế NghịĐịnh 28/HĐBT ngày 6.2.1991 và 17 văn bản pháp luật
liên quan đến Đầu tư nước ngoài cũng được ban hành. Do sự thay đổi của điều
kiện kinh tế xã hội và sự thay đổi của tình hình thế giới mà Luật Đầu tư nước
ngoài (LĐTNN) 1996 được ban hành sửa đổi LĐTNN 1992 tạo môi trường
pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ cho hoạt động ĐTNN tại Việt nam. Giai
đoạn này đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Nhịp độ tăng
bình quân của tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Sản xuất công nghiệp
tăng 13,2%, sản xuất nông nghiệp tăng 4,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20%.
Quan hệđối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tếđược
tiến hành chủđộng vàđạt hiệu quả tốt, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác
nhiều mặt với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, các nước bạn bè
truyền thống, tham gia tích cực các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi
trong hiệp hội các nước ASEAN, diễn đàn APEC, tăng cường quan hệ với các
nước phát triển và nhiều nước, nhiều tổ chức khu vực quốc tế khác. Xây dựng
Nhà nước ta thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất và kinh tếhiện đại
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, an ninh vững chắc,

LĐTNN 1996 tiếp tục tạo môi trường pháp lý hấp dẫn, thể hiện chính sách nhất
quán thu hút ĐTNN vào Việt nam của Đảng và Nhà nước ta. Nóđược ban hành
trong bối cảnh hệ thống pháp luật về kinh tếđãđược sửa đổi bổ sung tương đối
đầy đủ so với trước kia, nhiều đạo luật quan trọng đãđược ban hành vào thời
điểm này như Bộ Luật Dân sự, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ... nhằm thu
hút tối đa mọi nguồn vốn đầu tư, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại
hốđất nước. LĐTNN 1996 gồm có 6 chương, 68 điều có nội dung cơ bản sau:
- Lĩnh vực địa bàn khuyến khích đầu tư.
- Lĩnh vực địa bàn hạn chếđầu tư hoặc cấm đầu tư.
- Quy định miễn, giảm thuế nhập khẩu.
- Miễn giảm tiền thuêđất.


- Bổ sung một số quy định nhằm hoàn thiện hình thức đầu tư.
- Quản lý ngoại hối.
- Nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên
doanh ( DNLD).
- Quy định đối với người Việt nam định cưở nước ngoài đầu tư về nước.
- Mở chi nhánh.
- Quản lý Nhà nước vềĐTNN
-Thủ tục đầu tư.
- Khiếu nại, khiếu kiện.
- Phân cấp cấp giấy phép đầu tư.
NghịĐịnh 12/CP ngày 18.2.1997 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành
LĐTNN 1996 và 15 văn bản pháp lý khác có liên quan ban hành tạo dựng
khung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động ĐTNN phù hợp với đường lối quan
điểm của Đảng, phát triển mở cửa nền kinh tế, đáp ứng được yêu cầu thời điểm
đó.
Sớm khắc phục những quy định chồng chéo, không thống nhất giữa các
văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động ĐTNN như về một số loại thuế,

vềđất đai, ngoại hối... hiện đang gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp có vốn
ĐTNN đồng thời tình hình mới cũng đặt ra yêu cầu phải xem xét đểđưa vào
LĐTNN một số vấn đề mà trong các đợt sửa đổi bổ sung Luật trước đây chưa
cóđiều kiện làm được nhưđiều chỉnh cơ cấu tổ chức và cơ chếđiều hành doanh
nghiệp liên doanh, thiết kế rõ ràng cơ chế chế tài xử lý tranh chấp, phá sản, đưa
ra các giải pháp hữu hiệu để tranh thủ nhiều hơn các đối tác có tiềm năng về vốn
và cơng nghệ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giúp đỡ họ vượt qua tác động
của khủng hoảng kinh tế. Cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới
và trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt do cung cầu về vốn ĐTNN luôn
luôn căng thẳng. Các nước trong khu vực nhất là các nước ASEAN đã vàđang
cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư theo hướng dành nhiều ưu đãi hơn cho
ĐTNN nhằm vượt lên các nước khác, coi đó là giải pháp chiến lược để vượt qua


khủng hoảng và phục hồi phát triển kinh tế. Chính điều này tạo sức cạnh tranh
mạnh là thách thức lớn đối với Việt Nam vì trong khn khổ khu vực mậu dịch
tự do giữa các nước ASEAN (AFTA) các nhàđầu tư Nhật Bản, Tây Âu, Mỹ chỉ
cần đầu tưở các nước ASEAN khác do môi trường kinh doanh thuận lợi hơn mà
vẫn bán được hàng vào Việt Nam với thuế suất giảm dần 0 - 5%. Trong bối
cảnh đó, pháp luật chính sách vềĐTNN ở Việt nam trước 97 được coi là hấp
dẫn thơng thống đang mất dần tính cạnh tranh, trong khi độ rủi ro của việc đầu
tưở Việt nam năm 96 là rất cần thiết góp phần nâng cao sức cạnh tranh của môi
trường đầu tưở Việt nam so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Trong giai đoạn này nước ta đã chủđộng hội nhập với kinh tế khu vực và trên
thế giới, trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN), tổ chức kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC); Diễn đàn hợp
tác kinh tếÁ - ÂU(ASEM) vàđang đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO); đang thực hiện những cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch
tự do giữa các nước ASEAN ( AFTA) ... Do vậy mà ngày 9.6.2000 Quốc Hội đã
thông qua Luật sửa đổi bổ sung một sốđiều của Luật ĐTNN 1996. LĐTNN

2000 đãđưa ra những quy định nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, giảm
thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. NghịĐịnh 24/2000/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành LĐTNN 2000 tạo điều kiện xích gần hơn giữa đầu tư
trong nước vàđầu tư nước ngoài, tạo thế chủđộng trong tiến trình hội nhập
vàđảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi trường kinh doanh của Việt nam
hấp dẫn, thơng thống hơn so với trước đây và so với một số nước trong khu
vực. LĐTNN 2000 sửa đổi 4 nội dung và 26 vấn đề:
- Nội dung thứ nhất là các vấn đề cần đến sự tháo gỡ của chính phủ gồm:
Nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của nhàđầu tư khi có sự thay đổi về chính sách,
pháp luật, cân đối ngoại tệ; nguyên tắc khơng hồi tố; đền bù giải phóng mặt
bằng; thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất, bảo đảm
bảo lãnh của Chính phủ; áp dụng pháp luật nước ngoài.


- Nội dung thứ hai là các vấn đề mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp
có vốn ĐTNN; Thành lập văn phịng điều hành; ngun tắc nhất trí trong doanh
nghiệp liên doanh, việc tổ chức lại doanh nghiệp; cơ cấu lại vốn đầu tư, vốn
pháp định, chuyển nhượng vốn; Thanh lý phá sản doanh nghiệp đối với doanh
nghiệp (DN) có vốn ĐTNN; quy định về xuất nhập khẩu, chuyển giao công
nghệ và bảo vệ môi trường; tuyển dụng lao động.
- Nội dung thứ ba là các vấn đề mở rộng các ưu đãi về thuế, tài chính;
thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, miễn thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng,
chuyển lỗ của DN, quy định về lập quĩ.
- Nội dung thứ 4 là các vấn đề về cải tiến thủ tục hành chính, tăng cường
sự quản lý nhà nước vềĐTNN; Điều kiện cấp giấy phép đầu tư, thời hạn cấp
phép đầu tư, khen thưởng, chếđộ thanh tra, kiểm tra, quản lý nhà nước
vềĐTNN, các phụ lục và danh mục.
Qua nhiều lần sửa đổi bổ sung điều quan trọng nhất mà chúng ta cần
quan tâm là phải rút ra bớt những thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp gây khó
khăn cho nhàđầu tư, thứ hai phải xố bỏ những văn bản pháp luật chồng chéo

trái với những văn bản mà cơ quan quyền lực cấp trên ban hành, có như vậy
pháp luật mới trở thành một chỉnh thể thống nhất, hoàn chỉnh từ trên xuống
dưới, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các nhàđầu tư, hệ thống pháp luật hồn
chỉnh với đội ngũ luật sư cóđầy đủ khả năng tư vấn về mọi lĩnh vực pháp luật
theo yêu cầu của khách hàng là yếu tố hấp dẫn để thu hút các nhàđầu tư. Trong
khi đóở nước ta vấn đề tư vấn của các Luật sưở các đồn Luật sư cịn hạn chế
chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của các nhàđầu tư. Việt Nam cũng cần phải quy
định cho phép các cơng ty Luật nước ngồi đầu tư vào Việt Nam để nâng cao
chất lượng của dịch vụ tư vấn Luật trong nước, như thế luật sư trong nước mới
có thể học hỏi được kinh nghiệm và mở rộng quan hệ với luật sư nứớc ngoài.
Ngoài ra Nhà nước còn phải tổ chức các buổi toạđàm, trị chuyện để thơng báo,
giao lưu với doanh nghiệp, giúp các nhàđầu tư cập nhật được pháp luật mới ban
hành hay mới sửa đổi bổ sung như vậy sẽ tạo niềm tin cho các nhàđầu tư, bảo



×