Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.68 KB, 28 trang )

LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG
DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
I. Lao động thương mại
1.Khái niệm và đặc điểm của lao động trong doanh nghiệp thương mại
Xã hội muốn tồn tại và phát triển cần phải có lao động “lao động là hoạt
độngcó mục đích,có ý thức của con người nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ
cho nhu cầu của mình.Nhưng họ không thể trực tiếp sản xuất ra sản phẩm phục
vụ nhu cầu mình đòi hỏi.Vì thế mà trong xã hội xuất hiện sự phân công lao
động xã hội để phục vụ cho các đối tượng khác chứ không phải chỉ phục vụ cho
riêng mình.
Lao động trong các doanh nghiệp thương mại là bộ phận lao động xã hội
cần thiết được phân công thực hiện quá trình lưu thông hàng hoá.Bao gồm lao
động thực hiện quá trình mua bán ,vận chuyển , đóng gói,chọn lọc.bảo quản và
quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Mục đích lao động của họ là
nhằm đưa hàng hoá từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu dùng.
Lao động thương mại nói chung và lao động trong các doanh nghiệp
thương mại nói riêng tồn tại như một tất yếu khách quan cùng với sự tồn tại của
sản xuất , lưu thông hàng hoá và thương mại ,đó là do sự phân công lao động xã
hội quyết định.Nguồn lao động của các doanh nghiệp thương mại cũng được
tiếp nhận từ thị trường lao động như các doanh nghiệp khác.Song doanh nghiệp
thương mại có chức năng lưu thông hàng hoá nên lao động trong các doanh
nghiệp thương mại có những đặc thù riêng của nó:
* Cũng như các doanh nghiệp khác của nền kinh tế quốc dân, quá trình
lao động trong các doanh nghiệp thương mại là quá trình kết hợp giữa sức lao
động của người lao động với công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao
động song đối tượng lao động của các doanh nghiệp thương mại là sản phẩm đã
hoàn chỉnh,mục đích lao động của nhân viên thương mại không phải là tác động
vào sản vật tự nhiên để biến nó thành sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng
mà là tác động vào vật phẩm tiêu dùng để đưa nó đến người tiêu dùng nhằm
thoả mãn nhu cầu cá nhân của họ, để cho sản phẩm thực sự trở thành sản phẩm
nghĩa là được đem đi tiêu dùng , thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của nó.Bởi


vậy lao động thương mại vừa mang tính chất lao động sản xuất vừa mang tính
chất lao động phi sản xuất. Đây chính là đặc điểm cơ bản nhất của lao động
thương mại
Theo quan điểm của C.Mác thì lao động trong thương mại bao gồm hai
bộ phận
+ Bộ phận thứ nhất là lao động tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông ,
bao gồm những hoạt động lao động gắn liền với gía trị sử dụng của hàng
hoá,biến mặt hàng của sản xuất thành mặt hàng kinh doanh của thương mại
cũng tức là mặt hàng của tiêu dùng.Đó là bộ phận lao động vận chuyển , bảo
quản , phân loại , chia nhỏ,chọn lọc chỉnh lý hàng hóa.Bộ phận lao động này tuy
không làm tăng giá trị sử dụng nhưng nó sáng tạo ra gía trị mới , sáng tạo ra thu
nhập quốc dân.Những hao phí của bộ phận lao động này được bù đắp bằng
chính thu nhập quốc dân mới được sáng tạo ra.
+ Bộ phận lao động thứ hai của thương mại mang tính chất lưu thông thuần
tuý. Bộ phận này chỉ liên quan đến gía trị và nhằm thực hiện giá trị của hàng
hoá.Đó là những hoạt động mua bán hàng hoá , thu tiền, kiểm ngân,kế toán và
các hoạt động quản lý khác. Bộ phận lao động này không sáng tạo ra gía trị ,
không sáng tạo ra thu nhập quốc dân.Những hao phí lao động của bộ phận này
được bù đắp bằng thu nhập thuần tuý của xã hội.
Về mặt lý thuyết chúng ta dễ nhận thấy hai bộ phận lao động này, nhưng trong
thực tế khó có thể tách bạch được rõ ràng nếu xét trong từng hành vi lao động
cụ thể .Ví dụ hành vi bán hàng của nhân viên bán hàng tại các cửa hàng bán
lẻ.Nếu chỉ xét bán hàng để thu tiền về thì đó là lao động lưu thông thuần tuý
,song trong hành vi đưa hàng cho khách hàng có chứa đựng việc chuyển hàng từ
lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu dùng ,mặt khác để có hàng hoá bán nhân
viên phải bảo quản bao gói hàng hoá. Hơn nữa khi ta đề cập đến đặc điểm này
không nhằm mục đích để tách bạch hai bộ phận lao động ,mà điều quan trọng
hơn là để thấy được bản chất của lao động thương mại và sự khác biệt của nó so
với lao động trong các nghành sản xuất vật chất và các nghành dịch vụ khác.
* Lao động thương mại là loại hình lao động phức tạp , đòi hỏi trình độ

chuyên môn tổng hợp. Lao động thương mại là chiếc cầu nối liền giữa người
sản xuất với người tiêu dùng. Một mặt họ đại diện cho người tiêu dùng để tác
động vào sản xuất ,làm cho sản phẩm đươc sản xuất ra ngày càng phù hợp với
tiêu dùng, mặt khác họ đại diện cho sản xuất để hướng dẫn tiêu dùng làm cho
tiêu dùng phù hợp với điều kiện của sản xuất trong từng thời kỳ nhất định của
đất nước .Để giải quyết các mối quan hệ này đòi hỏi nhân viên thương mại vừa
phải có trình độ khoa học kỹ thuật nhất định,hiểu biết quy trình công nghệ ,tính
năng tác dụng của hàng, vừa phải có trình độ giác ngộ chính trị xã hội phải có
kiến thức cuộc sống, hiểu biết tâm lý người tiêu dùng,phải biết thiết lập các mối
quan hệ xã hội và có khả năng chi phối được các mối quan hệ này.
* Tỷ lệ lao động nữ cao trong doanh nghiệp thương mại .Xuất phát từ tính
chất và đặc điểm hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại ,nhất
là tính chất xã hội của các hoạt động này ,lao động thương mại rất phù hợp với
sở trường của phụ nữ.
* Lao động thương mại mang tính chất thời vụ rất cao.Tính chất thời vụ
này không những thể hiện giữa các mùa trong năm mà còn thể hiện rõ giữa các
ngày trong tháng,thậm chí giữa các giờ lao động trong ngày. Đặc điểm này ảnh
hưởng đến số lượng và cơ cấu lao động ,đến vấn đề tuyển dụng và sử dụng lao
động trong các doanh nghiệp ,vấn đề bố trí thời gian bán hàng,ca kíp làm việc
trong doanh nghiệp .Để sử dụng lao động tốt ,các doanh nghiệp phải kết hợp hài
hoà giữa lao động thường xuyên và lao động tạm thời,giữa lao động tuyển dụng
suốt đời với lao động hợp đồng ,giữa lao động trong danh sách với lao động
công nhật,giữa số lượng lao động và thời gian lao động của người lao động
trong từng ngày , từng mùa vụ.Trong doanh nghiệp thương mại cùng một lúc có
3 loại lao động :
+ Một là: lao động trong biên chế : đây là bộ phận lao động cứng ,cơ yếu của
doanh nghiệp ,là những người lao động có trình độ chuyên môn cao và được
đào tạo một cách có hệ thống.Đội ngũ này sẽ nắm những khâu chủ chốt của
kinh doanh và quản lý doanh nghiệp .
+ Hai là: một số lớn lao động của doanh nghiệp có thể tiếp nhận làm việc

trong một số thời gian nhất định.Những người này phần đông là nữ giới vì một
số lý do nào đó mà không thể làm trọn thời gian như những người bình thường
khác.Họ thường được doanh nghiệp gọi đi làm vào những mùa vụ có nhu cầu
lao động cao, hoặc có thể thay phiên nhau làm việc một số ngày trong tuần ,một
số giờ trong ngày .Đây là bộ phận lao động mềm có tính co giãn thể hiện tính
linh hoạt của doanh nghiệp trong quá trình quản lý kinh doanh.
+ Ba là: lao động công nhật :số lao động này không nằm trong danh sách lao
động của doanh nghiệp mà được doanh nghiệp tuyển dụng theo nhu cầu lao
động từng ngày một.
Đương nhiên khi tính toán chỉ tiêu lao động bình quân phải tính một lao động
bình quân là một người làm đủ số ngày công theo chế độ theo phương pháp quy
đổi.
2, Phân loại lao động trong doanh nghiệp thương mại
Muốn có các thông tin về số lượng lao động và cơ cấu lao động chính
xác, phải tiến hành phân loại lao động .Việc phân loại lao động trong các doanh
nghiệp thương mại nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu quản lý , tính toán chi
phí sản xuất kinh doanh, theo dõi các nhu cầu về sinh hoạt kinh doanh,về trả
lương và kích thích lao động. Chúng ta có thể phân loại lao động theo nhiều tiêu
thức khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu.
a.Phân loại theo vai trò và tác động của lao động đến quá trình kinh doanh ,ta
có thể chia lao động trong doanh nghiệp thương mại ra làm hai loại:
_ Lao động trực tiếp kinh doanh thương mại: gồm có nhân viên mua hàng
,nhân viên bán hàng ,nhân viên kho, vận chuyển ,nhân viên thu hoá, bao gói
,chọn lọc ,chỉnh lý hàng hoá. Trong khi nền kinh tế thị trường bộ phận này còn
bao gồm cả các nhân viên tiếp thị, nhân viên quản trị kinh doanh.Bộ phận lao
động này chiếm tỷ trọng lớn trong các doanh nghiệp thương mại và giữ vị trí
chủ chốt trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ và các mục tiêu đã xác
định của doanh nghiệp .
- Bộ phận thứ hai là lao động gián tiếp kinh doanh thương mại: Bao gồm các
nhân viên hành chính, nhân viên kinh tế, kế toán, thống kê, nhân viên bảo vệ

của doanh nghiệp .
b.Phân theo nghiệp vụ chuyên môn của người lao động
- Nhân viên bán hàng
- Nhân viên mua hàng
- Nhân viên nghiệp vụ kho
- Nhân viên vận chuyển
- Nhân viên tiếp thị
- Nhân viên kế toán
- v. .v
Mục đích của phương pháp phân loại này là để tính toán, sắp xếp, và bố
trí lao động trong từng nghiệp vụ chuyên môn, xác định cơ cấu lao động hợp lý
từ đó có phương pháp trả lương và kích thích lao động đối với từng loại lao
động của doanh nghiệp .
c. Phân loại theo trình độ chuyên môn: Thông thường nhân viên trực tiếp kinh
doanh thương mại có 7 bậc
- Bậc 1 và bậc 2 phần lớn gồm lao động phổ thông, chưa qua đào tạo ở
một trường lớp nào.
- Bậc 3 và bậc 4 bao gồm những nhân viên đã qua một quá trình đào tạo.
- Bậc 5 trở lên là những lao động lành nghề của doanh nghiệp, có trình độ
kinh doanh cao.
Lao động gián tiếp kinh doanh thương mại cũng được chia thành: nhân
viên, chuyên viên,chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp.
Tóm lại, việc phân loại lao động trong các doanh nghiệp thương mại có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình tuyển chọn,bố trí sắp xếp lao động một cách
khoa học,nhằm phát huy đầy đủ mọi khả năng lao động của người lao động
,phối kết hợp lao động giữa các cá nhân trong quá trình lao động nhằm không
ngừng tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, tạo tiền đề
vật chất để nâng cao thu nhập cho người lao động.
3.Các phương pháp quản lý lao động thường được áp dụng trong các
doanh nghiệp thương mại .

Phương pháp quản lý là tổng thể những cách thức tác động có hướng đến
người lao động và tập thể người lao động nhằm đảm bảo phối hợp hoạt độngcủa
họ trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ đã đề ra.
Trong quá trình quản lý lao động, doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều
phương pháp quản lý lao động khác nhau.Căn cứ vào nội dung và đặc điểm của
các phương pháp có thể phân chia thành các nhóm phương pháp:
3.1Phương pháp kinh tế
Các phương pháp kinh tế tác động vào đối tượng quản lý thông qua lợi
ích kinh tế để cho đối tượng bị quản trị tự lựa chọn phương án hoạt động có
hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của nó.Tác động thông qua lợi ích kinh
tế chính là tạo ra động lực thúc đẩy con người lao động tích cực. Động lực đó
càng lớn nếu nhận thức đầy đủ và kết hợp đúng đắn các lợi ích tồn tại khách
quan trong doanh nghiệp.Mặt mạnh của phương pháp này chính là tác động vào
lợi ích kinh tế của đối tượng quản trị (là cá nhân hoặc tập thể người lao động )
xuất phát từ đó mà họ lựa chọn phương án hoạt động ,bảo đảm lợi ích chung
cũng được thực hiện.Đặc điểm của phương pháp này là tác động lên đối tượng
quản trị không bằng cưỡng bức hành chính mà bằng lợi ích tức là nêu mục tiêu
nhiệm vụ đạt được, đưa ra những điều kiện khuyến khích về kinh tế, những
phương thức vật chất có thể huy động để thực hiện nhiệm vụ. Với một biện
pháp kinh tế đúng đắn, các lợi ích được thực hiện thoả đáng thì tập thể con
người trong doanh nghiệp sẽ hăng hái làm việc và nhiệm vụ chung sẽ được giải
quyết nhanh chóng,có hiệu quả.Đây là phương pháp quản trị tốt nhất để thực
hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả kinh tế.
3.2 Phương pháp hành chính
Phương pháp hành chính là các phương pháp tác động dựa vào mối quan
hệ tổ chức hệ thống quản lý và kỹ thuật của doanh nghiệp. Các phương pháp
hành chính trong quản trị kinh doanh chính là các tác động trực tiếp của chủ
doanh nghiệp lên tập thể người lao động dưới quyền bằng các quyết định dứt
khoát, mang tính bắt buộc đòi hỏi người lao động phải chấp hành nghiêm ngặt
nếu vi phạm sẽ bị xử lý thích đáng kịp thời.

Vai trò của các phương pháp hành chính trong quản trị kinh doanh rất to
lớn nó xác định trật tự kỷ cương làm việc trong doanh nghiệp, là khâu nối các
phương pháp quản trị khác lại với nhau và giải quyết các vấn đề đặt ra trong
doanh nghiệp rất nhanh chóng.
Các phương pháp hành chính tác động vào các đối tượng quản trị theo hai
hướng.
- Tác động về mặt tổ chức và tác động điều chỉnh hành động của các đối
tượng quản trị.
- Tác động hành chính có hiệu lực ngay khi ban hành quyết định.
Vì vậy các phương pháp hành chính này là hết sức cần thiết trong những
trường hợp hệ thống quản trị rơi vào tình huống khó khăn, phức tạp.
Tóm lại phương pháp hành chính là hoàn toàn cần thiết, không có phương pháp
này thì không thể quản trị doanh nghiệp có hiệu quả.
3.3 Phương pháp tâm lý xã hội
Phương pháp tâm lý xã hội là hướng những quyết định đến các mục tiêu
phù hợp với trình độ nhận thức tâm lý tình cảm của con người. Sử dụng phương
pháp này, đòi hỏi người lãnh đạo phải đi sâu tìm hiểu để nắm được tâm lý
nguyện vọng và sở trường của người lao động. Trên cơ sở sắp xếp bố trí , sử
dụng họ đảm bảo phát huy hết tài năng sáng tạo của họ, trong nhiều trường hợp
người lao động còn làm việc hăng say hơn cả động viên kinh tế.
3.4 Phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục là phương pháp sử dụng hình thức liên kết cá nhân
tập thể theo những tiêu chuẩn và mục tiêu đề ra trên cơ sở phân tích và động
viên tính tự giác, khả năng hợp tác của từng cá nhân.
Có hai hình thức cơ bản động viên người lao động đó là: động viên vật
chất và động viên tinh thần (khen thưởng, bằng khen, giấy khen)
Phương pháp giáo dục không chỉ đơn thuần là giáo dục chính trị tư tưởng
chung mà còn bao gồm cả giáo dục quan niệm nghề nghiệp phong cách lao
động, đặc biệt là quan điểm đổi mới cả cách nghĩ, cách làm.. theo phương thức
sản xuất kinh doanh mới, sản xuất gắn liền với thị trường, chấp nhận cạnh tranh

lành mạnh tạo ra nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp.
4.Vai trò của lao động đối với hoạt động kinh doanh doanh nghiệp
thương mại
Lao động là yếu tố không thể thiếu quyết định đến thành công trong kinh
doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào.Dù là doanh nghiệp sản xuất hay kinh
doanh thương mại, nếu thiếu đi yếu tố lao động thì việc sản xuất kinh doanh
không thể thực hiện được
Lao động đóng vai trò rất quan trọng trong doanh nghiệp thương mại.Lao
động tạo ra của cải vật chất cho doanh nghiệp cũng như cho toàn xã hội. Nếu
như không có lao động thì quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh không thể
thự hiện được. Dù cho có các nguồn lực khác như đất đai, tài nguyên, vốn, cơ sở
vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ sẽ không được sử dụng và khai thác có
mục đích nếu như không có lao động. Một doanh nghiệp mà có nguồn lao động
dồi dào, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao.. sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp
phát triển mạnh.
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật cùng với sự
bùng nổ của công nghệ thông tin(mạng máy tính ..)thì lao động thương mại có
xu hướng giảm đi.Các doanh nghiệp đòi hỏi ngày càng khắt khe hơn trong lĩnh
vực chuyên môn nghiệp vụ, năng lực trình độ.. của người lao động.
II. Hiệu quả sử dụng lao động trong doanh nghiệp thương mại
1. Khái niệm về hiệu quả
Hiệu quả là mối tương quan so sánh giữa kết quả đạt được theo mục tiêu
đã được xác định với chi phí bỏ ra để đạt đựoc mục tiêu đó. Để hoạt động,
doanh nghiệp thương mại phải có các mục tiêu hành động của mình trong từng
thời kỳ, đó có thể là các mục tiêu xã hội, cũng có thể là các mục tiêu kinh tế của
chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp luôn tìm cách để đạt các mục tiêu đó với chi
phí thấp nhất. Đó là hiệu quả.
Hiệu quả của doanh nghiệp gồm hai bộ phận: hiệu quả xã hội và hiệu quả
kinh tế.
- Hiệu quả xã hội là đại lượng phản ánh mức độ thực hiện các mục tiêu xã

hội của doanh nghiệp hoặc mức độ ảnh hưởng của các kết quả đạt được của
doanh nghiệp đến xã hội và môi trường. Hiệu quả xã hội của doanh nghiệp
thương mại thường được biểu hiện qua mức độ thoả mãn nhu cầu vật và tinh
thần của xã hội, giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện lao động, cải thiện và
bảo vệ môi trường sinh thái.
- Hiệu quả kinh tế là hiệu quả chỉ xét trên phương diện kinh tế của hoạt
động kinh doanh. Nó mô tả mối tương quan giữa lợi ích kinh tế mà doanh
nghiệp đạt được với chi phí đã bỏ ra để đạt được lợi ích đó. Thực chất của hiệu
quả kinh tế là thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian, nó biểu hiện
trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu đã
xác định. Nói quyết định động lực phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều
kiện phát triển văn minh của xã hội và nâng cao đời sống của loài người qua
mọi thời đại.
Chúng ta có thể khái quát mối tương quan giữa lợi ích kinh tế và chi phí
bỏ ra để có lợi ích đó bằng hai công thức sau:
- Một là: Hiệu quả là hiệu số giữa kết quả và chi phí
HQ = KQ - CF (1)
Trong đó: HQ là hiệu quả đạt được trong một thời kỳ nhất định
KQ là kết quả đạt được trong thời kỳ đó
CF là chi phí đã bỏ ra để đạt kết quả
Đây là hiệu quả tuyệt đối, mục đích so sánh ở đây là để thấy được mức
chênh lệch giữa kết quả và chi phí, mức chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả
càng cao.
+ Ưu điểm: Cách so sánh này đơn giản và dễ tính toán
+ Nhược điểm: Có một số nhược điểm cơ bản như sau:
 Không cho phép đánh giá chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
 Không có khả năng so sánh hiệu quả giữa các thời kỳ, giữa các doanh
nghiệp với nhau.
 Không phản ánh được năng lực tiềm tàng để nâng cao hiệu quả.

 Dễ đồng nhất hai phạm trù hiệu quả và kết quả.
- Hai là: Hiệu quả là tỉ lệ so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra
để đạt được kết quả đó. Đây là chi phí tương đối.
HQ =
KQ
(2)
CF
+ Ưu điểm: Khắc phục nhược điểm của công thức (1) và cho phép phản
ánh hiệu quả ở mọi góc độ khác nhau.
+ Nhược điểm: Cách đánh giá này khá phức tạp, đòi hỏi phải có quan
điểm thống nhất khi lựa chọn hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá kết quả.
Cả hai cách tính trên đều có những ưu nhược điểm nên trong khi đánh giá
hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp đặc biệt là của doanh nghiệp thương mại
chúng ta phải biết kết hợp cả hai phương pháp đánh giá nêu trên.
Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ hữu cơ với nhau, là
hai mặt của một vấn đề. Bởi vậy khi tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh
doanh cũng như khi đánh giá hiệu quả của các hoạt động này cần xem xét cả hai
mặt này một cách đồng bộ. Không thể có hiệu quả kinh tế mà không có hiệu quả
xã hội, ngược lại hiệu quả kinh tế là cơ sở, là nền tảng của hiệu quả xã hội.
2. Khái niệm và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng lao động trong
doanh nghiệp thương mại
2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng lao động
Con người là một trong những yếu tố khách quan không thể thiếu được
trong quá trình sản xuất kinh doanh. Dưới góc độ kinh tế, quan niệm về con
người gắn liền với lao động(lao động là hoạt động giữa con người với giới tự

×