Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA CÁC ĐỊA PHƯƠNG VÀ THÀNH PHỐ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.77 KB, 29 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG
SẢN CỦA CÁC ĐỊA PHƯƠNG VÀ THÀNH PHỐ Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
1. Tổng quan về tình hình kinh tế Việt Nam sau hơn một năm gia nhập WTO
1.1. Tình hình kinh tế chung
Sau hơn một năm gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng ở
mức 8,5% trong năm 2007, thêm một năm tiếp tục đà phát triển trên 8% kể từ
2005. Các yếu tố góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ ở Việt Nam
là sản xuất công nghiệp và dịch vụ với tốc độ tăng trưởng mạnh. Xuất khẩu
vững chắc và các hoạt động đầu tư tăng mạnh là nhân tố chính đảm bảo
những thành quả của sản xuất công nghiệp. Trong lĩnh vực dịch vụ, kim ngạch
bán lẻ đóng góp đáng kể nhất với tốc độ tăng trưởng tính chung là 22,7%
(năm 2007) so với năm 2006, thêm vào đó là động lực thúc đẩy từ các hoạt
động thương mại, giao thông vận tải, và kinh doanh bất động sản. Tuy nhiên,
tăng trưởng kinh tế cao cũng như giá cả của nhiều loại hàng hóa tăng lên đã
dẫn tới tỷ lệ lạm phát cao tại Việt Nam trong năm 2007.
Các nhà đầu tư cả trong nước và nước ngoài dường như đều kỳ vọng
vào năm thứ hai sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), nhờ đó quy mô đầu tư năm 2008 sẽ được mở rộng thêm 10% so với
2007. Kim ngạch xuất khẩu do tương ứng với đầu tư trực tiếp nước ngoài nên
sẽ tăng 12%, và nhờ vậy lĩnh vực sản xuất công nghiệp sẽ tăng trưởng ở mức
hai con số là 10,8%.
Nhờ có ảnh hưởng lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài, và với vai trò
dẫn đầu của các ngành thương mại, giao thông vận tải, du lịch và bất động
sản, lĩnh vực dịch vụ dự báo sẽ tiếp tục phát triển với mức 8,8% trong năm
2008.Như vậy, các lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ phát triển mạnh
mẽ được kỳ vọng sẽ dẫn hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ
8,7% trong năm 2008. Hơn nữa, giá cả các nông sản ổn định hơn có thể sẽ
giúp giảm sức ép lạm phát mà sự phát triển kinh tế liên tục đã gây ra, phản ánh
ở tỷ lệ lạm phát năm 2008 ước tính là 8,1%.
Theo báo cáo của Bộ Công thương và Bộ Kế hoạch-Đầu tư, tính đến hết


năm 2007, vốn đăng ký đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt trên 16 tỷ USD so
với mức hơn 10,5 tỷ USD của năm 2006. Dự kiến đến năm 2008, tổng vốn đầu
tư nước ngoài có thể đạt xấp xỉ 29 tỷ USD. Nhiều dự án có quy mô lớn, trị giá
trên dưới 1 tỷ USD được các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam,
điển hình tại các địa phương như TPHCM , TP Hà Nội, Đà Nẵng, Phú Yên, Bà
Rịa-Vũng Tàu, Hậu Giang… Cộng đồng các nhà tài trợ vừa qua đã cam kết
cung cấp tín dụng 5,4 tỷ USD trong năm 2008.
Về xuất khẩu, Việt Nam tăng trên 20% so với năm 2006, trong đó có sự
thay đổi cơ cấu: giảm tỷ lệ xuất khẩu nguyên liệu thô, tăng xuất khẩu các mặt
hàng chế tạo. Đối với một số mặt hàng nhập khẩu quan trọng có kim ngạch
nhập khẩu cao, ta còn chủ động cắt giảm thuế xuống thấp hơn mức cam kết
trong WTO, chẳng hạn như thuế nhập khẩu ô tô được giảm thêm 20% so với
cam kết, thuế nhập khẩu sữa, các loại thịt cũng được giảm thấp hơn mức cam
kết. Theo đánh giá của Diễn đàn Thương mại Liên hiệp quốc, Việt Nam đã
vươn lên thành một trong 10 nền kinh tế có triển vọng thu hút đầu tư nhất trên
thế giới.Tuy nhiên, sau 1 năm gia nhập sân chơi toàn cầu, thủ tục hành chính
tại Việt Nam vẫn còn quá rườm rà, nhiều cơ chế, chính sách đi ngược xu
hướng chung của thế giới.
1.2. Tình hình kinh tế ngành
Nông nghiệp Việt Nam sau hơn một năm gia nhập WTO đã phát triển theo
hướng tích cực với tốc độ tăng trưởng 3,25%, giá trị xuất khẩu nông nghiệp
chiếm 19,8% GDP cả nước, đặc biệt 7 chương trình trọng tâm nhằm tăng
cường tính bền cững cho nông nghiệp, nông thôn được triển khai hiệu quả, tạo
sức bật mạnh mẽ cho nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế
quốc tế toàn diện. Về xuất khẩu nông sản, kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt
12,6 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2006, chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu
cả nước và đã vượt mục tiêu đề ra cho năm 2010 tới 1,5 tỷ USD.
Hầu hết hàng nông sản năm 2007 đều được giá nên giá trị xuất khẩu tăng
mạnh với nhiều mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD trở lên như gạo,
thuỷ sản, cà phê, cao su, sản phẩm gỗ. Cà phê là mặt hàng đạt chỉ tiêu sớm

nhất với khoảng 1,8 tỷ USD tăng gần 50% so với năm 2006 (năm 2006 đạt
khoảng 1,2 tỷ USD). Mặt hàng gỗ chế biến đạt khoảng 2,34 tỷ USD tăng 21%
so với năm 2006; cao su trên 1,4 tỷ USD, tăng 10%; gạo là 1,48 tỷ USD tăng
16%, trong khi đó thuỷ sản vẫn dẫn đầu với mốc 3,75 tỷ USD. Ngoài ra, hàng
loạt nông sản khác cũng được cải thiện đáng kể về chất lượng, giá trị mà đáng
chú ý nhất là hồ tiêu với giá trị xuất khẩu bình quân 3.500 USD/tấn (năm 2006
là 1.500 USD/tấn), vì vậy dù lượng xuất khẩu năm 2007 giảm khoảng 15% so
với năm 2006, nhưng kim ngạch vẫn đạt 300 triệu USD, tăng 57,9%. Trong thời
gian qua, chúng ta đã tập trung phát triển tập trung những loại nông sản có lợi
thế, có thị trường xuất khẩu, nông nghiệp Việt Nam tiếp tục đạt được những
thành công bất chấp những khó khăn của thiên tai, dịch bệnh, giá cả leo
thang...Diện tích lúa vẫn đạt gần 7,4 triệu ha cùng sản lượng đạt 35,8 triệu tấn
đảm bảo an ninh lương thực trong nước và phục vụ xuất khẩu. Diện tích ngô
1,1 triệu ha, có sản lượng 4,3 triệu tấn (tăng trên 500.000 tấn), các loại cây
công nghiệp như cao su, cà phê, chè, điều, mía... đạt khoảng 2 triệu ha. Trong
khi đó, dù dịch cúm gia cầm, lợn “tai xanh”, lở mồm long móng diễn ra trên diện
rộng nhưng ngành chăn nuôi vẫn tăng trưởng khá với tổng sản lượng thịt hơi
3,83 triệu tấn, tăng 12,6% so với năm 2006, góp phần đưa tỷ trọng chăn nuôi
trong cơ cấu nông nghiệp lên 27%. Đặc biệt, quan hệ sản xuất trong nông
nghiệp có bước chuyển mạnh mẽ với 83.000 trang trại, 8.320 hợp tác xã,
310/329 doanh nghiệp trực thuộc với số vốn trên 6.000 tỷ đồng. Tuy nhiên nền
nông nghiệp nước ta vẫn có năng suất, chất lượng và hiệu quả cạnh tranh
thâpso với nhiều nước trên thế giới. Việc thực hiện chủ trương nâng cao năng
suất, chất lượng, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm nông
lâm thuỷ sản chưa được nhiều. Vấn đề dịch bệnh trên cây trồng, gia súc, gia
cầm và vệ sinh an toàn thực phẩm đang đặt ra hết sức bức xúc. Thế nhưng,
việc hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp trình độ cao mới chỉ manh nha
do quy hoạch và quản lý quy hoạch nông nghiệp kém, trình độ lao động nông
thôn thấp, khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học nông nghiệp và thực
tiễn hạn chế... Nhằm khắc phục từng bước những vấn đề còn đang tồn tại

trong năm 2007, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đưa ra 6 nhóm
nhiệm vụ cấp bách cần tập trung chỉ đạo trong năm 2008 để đạt mục tiêu tăng
trưởng 3,5%, kim ngạch xuất khẩu đạt 13,5 tỷ USD. Theo đó, diện tích đất
nông nghiệp trồng cây lương thực (lúa, ngô) sẽ tiếp tục giảm do chuyển đổi
mục đích sử dụng nên công tác giống chống sâu bệnh được đặt lên hàng đầu
để sản lượng của 7,25 triệu ha lúa đạt 36 – 36,5 triệu tấn, sản lượng ngô đạt 5
triệu tấn. Ngành chăn nuôi chủ yếu tập trung phát triển mạnh đàn lợn, đàn bò
và trâu thịt trong đó đặc biệt lưu ý các biện pháp đảm bảo an toàn dịch bệnh,
đảm bảo tốc độ tăng trưởng 9,4%. Trong đó, sản lượng thịt hơi đạt 4,18 triệu
tấn, sữa tươi 282.000 tấn, thức ăn chăn nuôi là 9 triệu tấn. Ngành thuỷ sản
phấn đấu đạt 4,1 triệu tấn sản phẩm với mục tiêu ổn định khai thác bền vững,
tăng nôi trồng. Bên cạnh đó những chương trình hỗ trợ xuất khẩu, phát triển
thuỷ lợi và cơ sở hạ tầng nông thôn, nghiên cứu, chuyển giao khoa học công
nghệ ...sẽ góp phần duy trì tốc độ phát triển bền vững cho nông nghiệp.
1.3. Tình hình xuất khẩu hàng nông sản của các địa phương và Thành phố ở nước
ta hiện nay
1.3.1. Tổng kết về xuất khẩu hàng Nông sản của Việt Nam 10 năm qua
Trong quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế hàng nông sản Việt Nam đã có
mặt trên nhiều nước và đã góp phần thu ngoại tệ để phát triển kinh tế đất
nước. Lợi thế phát triển hàng hóa nông sản xuất khẩu của ta có nhiều nhưng
cũng không ít khó khăn, bất lợi – mà điều khó khăn bất lợi đó chúng ta có thể
khắc phục được nếu như chúng ta có biện pháp thích hợp và kiên quyết. Trong
bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của các
nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế và phát triển
trong mối quan hệ tuỳ thuộc vào nhau giữa các quốc gia. Sự độc lập phát triển
của các quốc gia là sự phụ thuộc của quốc gia đó vào thế giới phải cân bằng
với sự phụ thuộc của thế giới vào quốc gia đó. Hoạt động xuất khẩu còn là yếu
tố quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư để đổi
mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước.

Trong 10 năm qua, lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam đã giành được nhiều
thành tựu đáng kể:
Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ngày một tăng, năm sau cao hơn
năm trước. Nếu như năm 1997, nước ta xuất khẩu đạt 9.087 triệu USD thì đến
năm 2007 đã đạt tới 56.308 triệu USD gấp 6,19 lần, trong đó kim ngạch xuất
khẩu nông sản đạt 12,6 tỷ USD, tăng hơn năm 1997 là 3,9 lần và chiếm 25%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhịp độ tăng trưởng bình quân
của GDP là trên 8%/năm tức là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn tốc độ
tăng trưởng GDP tới 3,2 lần. Kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu người bình
quân năm 1997 là 110 USD, năm 2005 là 276 USD và đến năm 2007 đạt 310
USD (đây là mức của các quốc gia có nền phát triển ngoại thương bình
thường).
Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được cải thiện theo chiều hướng đa
dạng hoá, giảm tỷ trọng hàng nông, lâm, hải sản, giảm tỷ trọng loại hàng hoá
chưa qua chế biến.
Năm 1997 kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm thuỷ sản chiếm tới 52,6%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, còn hàng hoá ngành công nghiệp
nặng và khoáng sản là 33,4% và tỷ trọng hàng công nghiệp nhẹ – tiểu thủ công
nghiệp là 14%. Đến năm 2007 tỷ trọng các loại hàng hoá đã thay đổi với cơ
cấu tương ứng là 30,1% hàng nông nghiệp, 35,6% hàng công nghiệp nặng và
34,3% hàng công nghiệp nhẹ. Như vậy là đã có sự thay đổi về mặt hàng và về
chất của quá trình xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
ngày càng mở rộng và thay đổi về cơ cấu thị trường. Sau khi hệ thống XHCN
tan rã, thị trường này không còn nữa thì các nước Châu á đã nhanh chóng trở
thành các bạn hàng xuất khẩu chính của ta. Trong số các nước ở Châu á thì
Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò lớn, tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa của ta sang các nước đó cũng đã thay đổi theo hướng giảm dần và
tăng ở các nước khối EU và Châu Mỹ. Nhìn chung, trong 10 năm qua cơ cấu
thị trường xuất khẩu tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn chậm
và chưa rõ nét, mang nặng tính tình thế, đối phó, nhất là thị trường xuất khẩu

nông sản, các bạn hàng lớn còn ít và không ổn định. Chiến lược thị trường
chưa được xây dựng trên thế chủ động từ các yếu tố lợi thế cạnh tranh của
các mặt hàng.
Trong giai đoạn vừa qua, hàng nông sản vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất
trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam. Bình quân
thời kỳ 1997 – 2007 kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản chiếm khoảng 60% và
hàng thuỷ sản chiếm 35% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm , thuỷ sản.
Trong hàng nông sản xuất khẩu, lúa gạo vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất (23,8%),
thứ đến là cà phê (13,5%), hạt điều (4,4%) và cao su (3,2%), còn rau quả
chiếm tỷ trọng quá nhỏ ( mới chiếm từ 0.5% đến 1,4%), chưa tương xứng với
tiềm năng của ngành. Nhưng xét về tốc độ gia tăng giá trị kim ngạch thì rau
quả đã tăng rất tương ứng với tiềm năng của ngành. Nhưng xét về tốc độ gia
tăng giá trị kim ngạch thì rau quả đã tăng rất nhanh, năm 2000 đạt 52 triệu
USD, thì năm 2005 là 615 triệu USD và năm 2007 đạt 905 triệu USD tăng gần
1.5 lần so với năm 2005. Thứ đến là hồ tiêu hạt với chỉ số tăng 51% rồi đến cà
phê 28% và cao su 22%.
Bên cạnh những tồn tại về quy mô sản phẩm xuất khẩu còn nhỏ bé, thị
phần trên thị trường thấp, chất lượng sản phẩm còn yếu kém, thì xuất khẩu
nông sản của nước ta còn gặp nhiều khó khăn về giá cả xuất khẩu. Trong thời
gian qua, giá cả thị trường thế giới luôn luôn biến động bất lợi cho hàng nông
sản xuất khẩu của Việt Nam. Việc gấp rút phân tích và đánh giá đúng đắn các
lợi thế so sánh và các mặt bất lợi trong việc phát triển sản xuất- kinh doanh
từng loại nông sản xuất khẩu, để đề ra một đối sách thích hợp là rất quan
trọng, tất nhiên phải dựa vào việc xem xét các đối thủ cạnh tranh, thị trường
trong nước và thế giới, về các chi phí cơ hội của từng mặt hàng trong điều kiện
sinh thái tự nhiên và kinh tế – xã hội của nước ta...
Những lợi thế.
Thứ nhất:So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may,
giầy da hay cơ khí, điện tử lắp ráp... thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất
khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng

nông sản rất thấp, do đó thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu
sẽ cao hơn nhiều.
Ví dụ: Chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ (phân bón,
thuốc sâu bệnh và các loại hoá chất, xăng dầu...) chỉ chiếm từ 15% đến 20%
giá trị xuất khẩu kim ngạch gạo điều đó có nghĩa là kim ngạch xuất khẩu gạo
đã tạo ra từ 80% đến 85% thu nhập ngoại tệ thuần cho đất nước, chỉ số này
đối với nhân hạt điều xuất khẩu là 27% và 73%.
Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại
tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất- kinh
doanh các mặt hàng tiêu tốn ngoại tệ.
Thứ hai: Ngành nông, lâm , thuỷ sản là ngành sử dụng nhiều lao động vào
quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay của
ngành, vì hàng năm nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người
bước vào tuổi lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 hecta dứa hay 1 hecta
dâu tằm mỗi năm cần sử dụng tới 20 lao động. Trong khi đó, giá nhân công
Việt Nam rẻ hơn các nước khac trong khu vực, phổ biến với mức 1 đến 1,2
USD/ ngày công lao động trong sản xuất lúa, cà phê. Hiện nay, một số công
việc nặng nhọc như đánh bắt cá ngừ, thu hoạch mía hay thu hoạch lúa ở đồng
bằng sông Cửu Long với giá nhân công cao cũng mới chỉ là 2 đến
2,5USD/ngày công lao động, nhưng vẫn còn rẻ hơn so với Thái Lan từ 2 đến 3
lần. Tất nhiên lợi thế này sẽ không tồn tại lâu do sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước và thế giới.
Thứ ba:Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất thuận lợi
cho việc phát triển sản xuất một số loại rau quả vụ đông có hiệu quả như cà
chua, bắp cải, tỏi, khoai tây... trong khi cũng vào thời gian này ở cả vùng Viễn
Đông của Liên bang Nga và thậm chí ở cả Trung Quốc đang bị tuyết dầy bao
phủ không thể trồng trọt được gì, nhưng những nơi này lại là thị trường tiêu thụ
lớn và tương đối dễ tính. Các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Philipin lại kém
lợi thế hơn so với Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên sinh thái, cả về kỹ năng,
kinh nghiệm sản xuất và tính cần cù lao động của người nông dân trong việc

tròng trọt các loại rau quả đó.
Thứ tư: Một số ít nông sản được các nước phát triển ở Châu Âu; Bắc Mỹ
ưa chuộng như nhân hạt điều, dứa, lạc lại có thể trồng ở Việt Nam trên các đất
bạc màu, đồi núi trọc ( như điều ) hay trên đất phèn, mặn (như dứa), lạc vụ 3
xen canh nên không bị các cây trồng khác cạnh tranh, mà trên thực tế vẫn còn
có khả năng mở rộng sản xuất.
Thứ năm: Các nước Đông Âu, SNG và Trung Quốc vốn là thị trường
truyền thống với quy mô lớn và tương đối dễ tính đối với cacs mặt hàng nông
sản của Việt Nam. Mặt khác, trên các nước này hiện có một lượng doanh nhân
và doanh nghiệp Việt Nam đang làm ăn phát đạt ở đó. Đây là một lợi thế lớn
để nối lại thị trường tiêu thụ mà bấy lâu nay nước ta đã bỏ qua chưa khai thác
có hiệu quả.
Thứ sáu: Nhiều tư liệu sản xuất dùng trong quá trình sản xuất nông, lâm
nghiệp, thuỷ sản vẫn còn phải nhập khẩu, mà phần lớn phải nhập với giá cao
hơn giá thế giới, chi phí để sản xuất các loại tư liệu đó trong nước rất cao. Do
vậy mở cửa hội nhập kinh tế, tự do hoá thương mại sẽ làm cho giá nhập khẩu
mặt hàng này rẻ hơn, làm cho giá thành sản xuất và chế biến các loại hàng
nông sản phẩm của nước ta giảm xuống một lượng đáng kể do đó sẽ tạo thêm
ưu thế cạnh tranh.
Thứ bảy: Thể chế chính trị ổn định, môi trường đấu tư và hệ thống pháp
luật của Việt Nam ngày càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng dần với
tiến trình tự do hoá thương mại trong khu vực và toàn cầu.
Những bất lợi:
Thứ nhất: Nhìn chung, tuy Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng
sản xuất hàng hoá tập trung nhưng khối lượng hàng hoá còn nhỏ bé, thị phần
trên thế giới thấp, chất lượng chưa đồng đều và ổn định. Việt Nam chưa hình
thành được các vùng chuyên canh sản xuất hàng tươi sống và vùng nguyên
liệu tập trung cho các nhà máy chế biến lớn theo yêu cầu kỹ thuật kinh tế. Gạo
của Việt Nam chưa đảm bảo độ đông nhất về quy cách chất lượng ngay trong
từng lô gạo, bao bì đóng gói kém hấp dẫn và chưa có nhãn thương hiệu của

doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì. Điều đó làm cho giá xuất khẩu của nông sản
Việt Nam thấp hơn các nước khác.
Thứ ha: Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử
dụng có năng xuất và chất lượng thấp so với các nước trên thế giới và các đối
thủ cạnh tranh trong khối ASEAN. Trên địa bàn cả nước chưa hình thành một
hệ thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản xuất, từ giống tác giả,
giống nguyên chủng cho đến giống thương phẩm. Hầu hết nông dân đã tự sản
xuất giống cây con cho mình từ vụ thu hoạch trước hoặc mua giống trên thị
trường trôi nổi mà không có sự đảm bảo về chất lượng đặc biệt là giống các
loại cây ăn quả, cây lương thực, cây rau... Năng suất lúa của Việt Nam chỉ
bằng 61% năng suất lúa của Trung Quốc và thấp thua nhiều so với lúa của
Nhật Bản, Iatlia, Mỹ. Năng suất cà chua của ta chỉ bằng 65% năng suất cà
chua thế giới, cao su Việt Nam mới chỉ đạt năng suất 1,1 triệu tấn/ha, so với
năng suất thế giới là 1,5 – 1,8 tấn/ha thấp hơn tới 30% - 40%.
Thứ ba: So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến
lạc hậu, chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các
thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng phục
vụ cho việc vận chuyển, bảo quản dự trữ, bôc xếp hàng hoá nông sản, nhất là
hàng tươi sống rất yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng
nhanh. Ví dụ: Do công suất bốc xếp ở cảng Sài Gòn là 1000 tấn/ngày chỉ bằng
1/2 công suất cảng Băng Cốc (Thái Lan), cho nên cảng phí cho một tàu chở
gạo 10000 tấn ở Việt Nam là 40000 USD, còn ở cảng Băng Cốc là 20000 USD,
như vậy là chi phí tại cảng trong khâu bốc xếp của Việt Nam đã cao hơn gấp
đôi so với cảng Băng Cốc.
Thứ tư: Năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu
nông sản chưa đáp ứng được nhu cầu trong điều kiện tự do hoá thương mại,
đặc biệt là khâu marketing, dự tính báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các
khâu sản xuất – chế biến – xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và
tiêu thụ sản phẩm đầu ra, giữa khâu kỹ thuật với khâu kinh tế... chưa thiết lập
được một cách vững chắc để đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng

cũng như hiệu quả sản xuât kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu theo yêu cầu
của thị trường.

×