Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TOÁN TRONG KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.36 KB, 25 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TOÁN TRONG KINH
DOANH
I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC THANH TOÁN TRONG KINH
DOANH
1. Khái niệm về thanh toán
Hiểu theo nghĩa chung nhất, thanh toán là quá trình nhận, trả tiền hay
các giấy tờ có giá trị như tiền giữa các bên trong một giao dịch hay một mối
quan hệ tài chính – kinh tế nhất định.
2. Quá trình ra đời và phát triển.
Thanh toán là hoạt động tất yếu của kinh tế, nó gắn với quá trình trao đổi,
mua bán hàng hóa trên thị trường.
Trong nền kinh tế tự cung tự cấp thì không có hoạt động thanh toán vì các
gia đình tự làm lấy tất cả theo nhu cầu của họ. Do vậy không có sự trao đổi lẫn
nhau nên thanh toán chưa xuất hiện.
Từ khi đi vào chuyên môn hóa sản phẩm, xuất hiện quá trình trao đổi sản
phẩm cho nhau nên hoạt động thanh toán bắt đầu ra đời. Kể từ đó cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, thanh toán cũng trải qua nhiều giai đoạn, thay đổi để
phù hợp với sự phát triển đó nhưng chủ yếu là các giai đoạn sau:
2.1. Thanh toán bằng hiện vật.
Tức là dùng hàng hóa làm phương tiện trao đổi, thanh toán giữa các bên,
hàng hóa này đổi với hàng hóa kia. Đây là hình thức thanh toán nguyên thủy
của loài người.
Thời kỳ đầu của giai đoạn này là hàng hóa đổi hàng hóa, tức là hai bên
trao đổi hàng hóa cho nhau và chính hàng hóa đó làm phương tiện thanh toán
luôn. Đến khi phát triển cao hơn thì đã có một hàng hóa làm trung gian, và như
thế chính hàng hóa trung gian đó đóng vai trò là phương tiện thanh toán giữa
các bên. Đến lúc này hàng hóa đã trở thành một loại tiền tệ với đầy đủ giá trị và
chức năng của nó.
2.2. Thanh toán bằng kim loại.
Cùng với sự phát triển ngày càng cao, người ta nhận thấy rằng kim loại là
một hóa tệ có nhiều đặc tính tốt nhất. Nên thay vì thanh toán bằng những hàng


hóa trước thì họ đã sử dụng kim loại để thanh toán.
Ban đầu người ta chỉ sử dụng các kim loại bình thường như chì, kẽm…rồi
dần dần đi tới sử dụng các kim loại quý hiếm như vàng, bạc.
Như vậy từ thanh toán bằng hàng hóa đã phát triển lên thanh toán bằng
kim loại quý. Tuy nhiên giai đoạn này chưa có hoạt động ngân hàng nên chỉ có
phương thức thanh toán duy nhất là gặp mặt trực tiếp giao hàng và giao tiền.
2.3. Thanh toán bằng tiền giấy.
Sau khi nhu cầu và tài sản trong xã hội ngày càng nhiều dẫn đến một nhu
cầu mới: Gửi tiền. Do đó mà ngân hàng ra đời dù là hình thức sơ khai.
Do sự phát triển của ngân hàng nên trong thanh toán hàng ngày giữa
người mua và người bán xuất hiện một loại tiền tệ mới đó là chứng chỉ gửi
vàng. Cho nên tiền giấy xuất hiện và quá trình thanh toán bằng tiền giấy ra đời.
Sử dụng chứng chỉ gửi vàng ( hay tiền giấy) để thanh toán thuận tiện hơn
sử dụng vàng và kim loại khác nên nhanh chóng phổ biến và phát triển cho đến
tận ngày nay. Tuy hình thức của tiền giấy thay đổi nhưng bản chất thì không
đổi.
Do đó phương tiện thanh toán lúc này chính là tiền giấy và cũng có nhiều
loại thanh toán ra đời như: Thanh toán trong một vùng, một quốc gia và thanh
toán với nước ngoài, thanh toán ngay và trả chậm…
2.4. Thanh toán qua ngân hàng.
Khi ngân hàng đã phát triển đến đỉnh cao với các dịch vụ rất đa dạng và
phong phú, đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng thì thanh toán qua ngân hàng
trở nên thông dụng hơn trong kinh doanh và cả trong tiêu dùng nữa.
Ngân hàng đảm bảo được chức năng thanh toán hộ giữa các bên, hình
thức này gọi là thanh toán tiền bằng bút toán. Để phục vụ cho nhu cầu của
khách hàng, ngân hàng đã tạo ra nhiều công cụ và hình thức thanh toán tiện lợi,
phù hợp cho từng đối tượng. Cho nên công tác thanh toán giữa các doanh
nghiệp được thực hiện chủ yếu qua ngân hàng.
Đỉnh cao của công nghệ ngân hàng là thanh toán điện tử. Những miếng
Plastic nhỏ xíu với một vi xử lý điện tử đã được đưa vào sử dụng mà khách

hàng không cần phải đến ngân hàng vẫn có thể dùng trực tiếp tiền trong tài
khoản gửi tại ngân hàng. Như vậy tiết kiệm nhiều thời gian và chi phí.
Trên đây là quá trình ra đời và phát triển của thanh toán. Nó gắn với sự ra
đời và phát triển của tiền tệ, trao đổi, mua bán trên thị trường. Hình thức thanh
toán ngày càng tinh vi hơn, phương tiện thanh toán ngày càng đa dạng hơn để
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
3. Đặc điểm của công tác thanh toán hiện nay.
Hiện nay công tác thanh toán rất hiện đại, quan hệ nhiều bên và rất phức
tạp nhưng quy lại thì thanh toán mang những đặc điểm chính sau đây:
3.1. Thanh toán không sử dụng tiền mặt là chủ yếu.
Khi hoạt động ngân hàng chưa đủ sự phát triển và tin cậy thì tiền mặt
trong thanh toán rất nhiều. Nhưng hiện nay xu thế thanh toán không dùng tiền
mặt ngày càng phát triển.
ở các nước phát triển, thanh toán bằng tiền mặt rất ít. Trong hoạt động
kinh doanh, thanh toán qua ngân hàng chiếm 100%, chỉ một phần nhỏ thanh
toán trong sinh hoạt hàng ngày mới sử dụng tiền mặt.
Khi các bên giao dịch với nhau, thường sử dụng các công cụ như: Séc,
UNT, UNC… để thực hiện thanh toán và người mua hoặc người bán chỉ giao
các công cụ đó cho ngân hàng của mình là được, công việc còn lại là của các
ngân hàng với nhau. Tất nhiên là khách hàng phải mất một khoản phí nhất định.
Thực hiện như vậy sẽ hạn chế được rủi ro trong thanh toán như: cướp
giật, hỏng mất… vì công cụ thanh toán chỉ là một tờ giấy nhỏ hoặc chẳng có gì
cả. Sau khi giao nhận hàng thì giao bộ chứng từ cho ngân hàng thu hộ hoặc chi
hộ. Với hình thức này thì lượng tiền mặt trong thanh toán giảm đi rất nhiều, nên
chi phí quản lý tiền mặt sẽ giảm xuống và hạn chế được bao nhiêu là rủi ro. Do
sự tiện lợi đó mà xu thế này đang phát triển ngay ở các nước kém và đang phát
triển.
Theo thống kê của ngân hàng Pháp thì thanh toán bằng tiền mặt trong
kinh doanh ở Pháp, Anh, Hà Lan là 0%, ở Đức là 4.2%, ở Hoa Kỳ là 2.1%, Đan
Mạch là 7.4%… như vậy để thấy được thanh toán không dùng tiền mặt thật sự

được ứng dụng rộng rãi và phát triển như thế nào.
3.2. Công cụ và hình thức thanh toán ngày càng đa dạng.
Khi ngân hàng còn chưa ra đời thì chỉ có hình thức là trực tiếp theo kiểu “
tiền trao cháo múc ”. Đến khi ngân hàng ra đời và phát triển cao thì ngoài thanh
toán bằng tiền mặt trực tiếp với khách hàng còn có thanh toán qua séc, UNC,
UNT, các loại thẻ thanh toán rồi thanh toán điện tử …
Phương thức thanh toán cũng rât phong phú: chuyển khoản, chuyển tiền,
ghi sổ, trực tiếp, tín dụng chứng từ, .…
3.3. Rủi ro thanh toán ngày càng giảm
Nếu là trước đây sử dụng tiền mặt thanh toán gặp nhiều sự cố trong quá
trình thanh toán. Nhưng hiện nay thanh toán qua ngân hàng nên những rủi ro đó
giảm xuống rất nhiều, do các loại công cụ và phương thức thanh toán qua ngân
hàng đa dạng nên sẽ đảm bảo được khả năng trả tiền của người mua.
Do những quy định đối với công tác thanh toán hiện nay rất chặt chẽ, áp
dụng cho toàn quốc gia, toàn thế giới. Do vậy hình thức lừa đảo trong thanh
toán giảm nhiều, vì nếu vi phạm các quy định đó thì doanh nghiệp đó sẽ mất uy
tín trên thương trường, như thế sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Do vậy mà các loại rủi ro trong thanh toán đang có xu hướng
giảm dần. Cùng với sự quan tâm thống nhất giữa các quốc gia đã làm cho công
tác thanh toán ngày càng an toàn và bảm bảo hơn.
4. Phân loại thanh toán
4.1. Thanh toán nội bộ và thanh toán với bên ngoài
Thanh toán nội bộ là hoạt động thanh toán phát sinh bên trong đơn vị
kinh doanh, giữa các thanh viên và các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp mà
thôi.
Thanh toán với bên ngoài phát sinh với các đối tượng thanh toán bên
ngoài doanh nghiệp như: Với nhà cung cấp, người mua, nhà nước, ngân hàng….
mà không bị sự tác động nào của các đối tượng bên trong doanh nghiệp cả.
4.2. Thanh toán sử dụng tiền mặt và không sử dụng tiền mặt
Thanh toán sử dụng tiền mặt là hình thức thanh toán khi giao dịch diễn ra,

bên trả tiền trực tiếp giao tiền mặt cho bên kia và nhận hàng về. Hình thức này
hiện nay ít sử dụng vì nó bất tiện và gặp nhiều rủi ro.
Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán khi có một giao
dịch kinh tế nào đó thì các bên sử dụng các công cụ như: Séc, ủy nhiệm chi, ủy
nhiệm thu… và các phương thức mà ngân hàng phục vụ các bên có thể cung
cấp. Hay nói ngắn gọn là hình thức thanh toán qua ngân hàng, không sử dụng
tiền mặt trong kinh doanh.
Đây là xu thế phát triển hiện nay không chỉ ở các nước phát triển mà còn
ở những đang phát triển.
4.3. Thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế
Thanh toán trong nước là hình thức thanh toán chỉ diễn ra trong nội bộ
một nước, các đối tượng trong giao dịch cùng ở một quốc gia. Cho nên sẽ có
những cách thức khác nhau để thanh toán.
Thanh toán quốc tế là hoạt động thanh toán vượt ra khỏi phạm vi một
quốc gia, các bên giao dịch ở những nước khác nhau thực hiện mua – bán và
thanh toán cho nhau.
Công tác thanh toán quốc tế buộc phải thanh toán qua ngân hàng giữa các
nước tham gia.
4.4. Thanh toán trước, ngay và thanh toán sau.
Thanh toán trước là thanh toán diễn ra trước khi giao dịch, giao hàng
trong một thời gian nhất định. Thời gian bao nhiêu, số lượng như thế nào tùy
thuộc vào mối quan hệ giữa các bên tham gia.
Thanh toán ngay là hình thức thanh toán diễn ra ngay lúc giao dịch và các
bên thực hiện ngay
Thanh toán sau là thanh toán diễn ra sau khi giao dịch một thời gian theo
các điều kiện trong hợp đồng. Hình thức này hình thanh các khoản phải thu,
phải trả đối với doanh nghiệp.
II. THANH TOÁN TRONG NƯỚC
1. Khái niệm:
Là hình thức thanh toán chỉ liên quan đến các đối tượng trong một quốc

gia.
2. Nội dung thanh toán
2.1. Thanh toán nội bộ
Là loại hình thanh toán phát sinh liên quan đến các đối tượng trong đơn
vị kinh doanh có sự phân cấp kinh doanh, quản lý và công tác kế toán.
Một doanh nghiệp dù có tư cách pháp nhân hay không, khi thực hiện hoạt
động kinh doanh cũng phải thuê lao động hoặc có các đơn vị trực thuộc khác.
Do đó mà nảy sinh nhiều mối quan hệ chính sau:
- Thanh toán giữa doanh nghiệp và nhân viên của doanh nghiệp:
Giữa doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp có mối quan hệ
ràng buộc bằng pháp lý đó là hợp đồng lao động. Do vậy doanh nghiệp phải
tuân thủ theo luật lao động mà nhà nước ban hành. Nên mọi chế độ, hình thức
trích lập các quỹ trong doanh nghiệp sẽ hình thành nên các loại thanh toán trong
doanh nghiệp
- Thanh toán giữa cấp trên và cấp dưới:
Có nhiều hoạt động thanh toán thể hiện mối quan hệ này như khi cấp trên
cấp phát vốn cho đơn vị thành viên để hoạt động kinh doanh hay thu hồi lại một
phần vốn đã cấp, có thể bằng tiền hoặc bằng tài sản nên sẽ ảnh hưởng đến
nguồn vốn của doanh nghiệp. Hoặc quyết định điều chuyển vốn từ thành viên
này sang thành viên khác.
Ngoài ra còn có các khoản chi hộ, thu hộ giữa cấp trên và cấp dưới như
trả hộ lương, thưởng cho nhân viên hoặc trong trường hợp một trong hai gặp
khó khăn tạm thời về tiền mặt hày thanh toán, thì bên kia sẽ thực hiện nên phát
sinh nghĩa vụ thanh toán.
Bên cạnh đó cấp dưới còn có nghĩa vụ nộp cho cấp trên về các quỹ: Quỹ
quản lý, quỹ khen thưởng, phúc lợi, lãi chưa phân phối…
2.2. Thanh toán với nhà nước
Khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào
cũng đều có nghĩa vụ thanh toán với nhà nước về những khoản nộp theo quy
định. Thanh toán với nhà nước mang tính chất bắt buộc, không hoàn trả và được

điều chỉnh theo luật. Thông thường doanh nghiệp phải thanh toán các khoản
thuế, phí, lệ phí và các chế độ bắt buộc khác.
a) Các loại thuế
• Thuế GTGT : Là loại thuế đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa theo
quy định của nhà nước.
Ở Việt Nam, thuế GTGT có thể được tính theo 2 cách sau:
- Theo phương pháp khấu trừ:
- Theo phương pháp trực tiếp
• Thuế TTĐB : Là một loại thuế tiều dùng đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ
đặc biệt nằm trong danh mục nhà nước quy định.
Thuế TTĐB = Giá tính thuế * Thuế suất
• Thuế TNDN : Được hiểu là thuế đánh vào phần thu nhập của doanh
nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
• Thuế XNK : Là loại thuế đánh vào hàng hóa XNK theo quy định của nhà
nước. Thuế xuất khẩu có thuế suất = 0%
Còn thuế nhập khẩu = Giá tính thuế * Thuế suất
Ngoài ra còn có các loại thuế khác : Thuế môn bài, Thuế đất, Thuế thu sử
dụng vốn ngân sách….
b) Các loại phí, lệ phí và các chế độ bắt buộc khác
Phí và lệ phí là các khoản nộp cho cơ quan hành chính nhà nước phát sinh
trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các chế độ bắt buộc khác là BHXH, BHYT mà các doanh nghiệp nhà
nước sử dụng lao động phải nộp cho lao động mình thuê.
c) Ngoài các loại trên, còn có hình thức thanh toán nữa đó là các khoản
miễn thuế, hoàn thuế, khấu trừ thuế, giảm thuế... tạo nên mối quan hệ giữa
doanh nghiệp và cơ quan nhà nước quản lý mình.
2.3. Thanh toán với khách hàng trong nước
Là quan hệ phát sinh khi có mua – bán hàng hóa giữa doanh nghiệp với
nhà cung cấp hoặc người mua là khách hàng trong nước. Trong quá trình thanh
toán thì thường xảy ra ba trường hợp sau đây:

a) Thanh toán trước:
Khi phát sinh hình thức này doanh nghiệp sẽ ứng trước cho nhà cung cấp
một số tiền nhất định để cam kết rằng doanh nghiệp chắc chắn sẽ mua hàng,
hình thức này hình thành nên khoản trả trước cho người bán (ghi nợ tài khoản
331). Nếu doanh nghiệp được người mua trả trước một số tiền nào đó thì lúc đó
hình thành khoản ứng trước người mua (ghi có tài 131). Nếu sau này doanh
nghiệp không giao hàng cho người mua thì buộc phải trả lại tiền và còn bị phạt
vì vi phạm hợp đồng nữa.
Thông thường thanh toán trước chỉ chiếm một phần nhỏ trong giá trị hợp
đồng bởi vì vừa bị chiếm dụng vốn vừa không biết là hàng hóa có đáp ứng yêu
cầu của mình hay không.
b) Thanh toán ngay:
Là hình thức thanh toán cùng lúc với khi 2 bên giao hàng thì giao tiền cho
nhau. Hình thức này thường chiếm tỉ lệ khá lớn trong giao dịch
c) Thanh toán sau: Là hình thức thanh toán sau một thời gian nhất định
theo sự thoả thuận giữa hai bên
• Đối với người cung cấp:
Đây là hình thức doanh nghiệp mua chịu nhà cung cấp và cam kết sẽ
thanh toán sau một thời gian nào đó, nếu số lượng lớn chứng tỏ doanh nghiệp đã
vay vốn của khách hàng và đây là một hình thức tín dụng thương mại, điều này
sẽ tác động đến cơ cấu vốn và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông thường để mua chịu được hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố:
- uy tín của doanh nghiệp : Là uy tín của doanh nghiệp về thanh toán, về
hoạt động kinh doanh trên thương trường như thế nào. Nếu doanh nghiệp có uy
tín cao thì sẽ được cho mua chịu nhiều. Còn nếu doanh nghiệp đã từng vi phạm
các điều khoản về công tác thanh toán thì người cung cấp sẽ không cho mua
chịu, mà nếu có thì cũng là một tỷ lệ rất ít.
- Là khách hàng quen hay không : Nếu mua lần đầu thì doanh nghiệp khó
mà được mua chịu, nhưng nếu thường xuyên có quan hệ mua bán thì sẽ được lợi
nhiều hơn.

- Kết quả hoạt động kinh doanh : Sẽ chẳng có ai cho DN mua chịu nếu biết
DN đang làm ăn thua lỗ, không đủ khả năng thanh toán cả.
• Đối với người mua hàng: Đó là hình thức bán chịu của doanh nghiệp, doanh
nghiệp sẽ cho khách hàng trả tiền sau một thời gian và như vậy doanh nghiệp đã
cấp tín dụng cho khách hàng. Cho nên doanh nghiệp phải nghiên cứu, xem xét
đến khả năng thu hồi nợ sau thời gian cho phép.
Khi xem xét đến chính sách bán chịu, doanh nghiệp cũng phân tích những
yếu tố trên như ở thanh toán với người cung cấp để đánh giá khả năng thanh
toán và hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của đối tác trên thương trường để
có quyết định cho mua chịu hay không ?, nếu có thì với tỉ lệ bao nhiêu là đủ.
Ngoài ra doanh nghiệp phải xem xét, cân đối giữa việc bán chịu với mua
chịu người cung cấp để có quyết định đúng đắn.
3. Phương thức thanh toán
3.1. Khái niệm
Là cách thức nhận trả hay thanh toán tiền giữa các đối tượng tham gia
vào một giao dịch kinh tế – tài chính nào đó.
3.2. Một số phương thức thanh toán thông dụng
a) Thanh toán giao hàng trả tiền ngay.
Đây là hình thức thanh toán ngay, khi một bên giao hàng cho bên kia,
đồng thời bên kia cũng sẽ giao tiền ngay. Như vậy giao dịch trả tiền ngay
thường thanh toán bằng tiền mặt và mang tính chất trực tiếp.
b) Phương thức chuyển tiền.
Là phương thức thanh toán trong đó người mua (người trả tiền) sau khi
nhận được hàng sẽ yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất
định cho người bán (người hưởng thụ) tại một địa điểm và thời gian nhất định.
Đây là phương thức thanh toán qua ngân hàng và được sử dụng nhiều
nhất do có sự tiện lợi, tuy nhiên người yêu cầu phải trả một số phí nhất định cho
ngân hàng khi chuyên tiền.
c) Phương thưc ghi sổ.
Là phương thức thanh toán mang tính chất bù trừ lẫn nhau. Khi các bên

thực hiện giao nhận hàng hóa thì sẽ ghi và theo dõi vào một cuốn sổ riêng hoặc
tài khoản riêng với sự xác nhận của các bên trong giao dịch. Việc thanh toán sẽ
được thực hiện sau một thời kỳ nhất định đã được thỏa thuận trước. Để thực
hiện theo phương thức này thì yêu cầu các bên phải có quan hệ mua bán thường
xuyên và thật sự tin tưởng lẫn nhau, nếu không thì rủi ro sẽ rất lớn.
4. Phương tiện thanh toán
Là công cụ mà các đối tượng thường sử dụng để trả tiền cho nhau trong
các giao dịch kinh tế – tài chính.
4.1. Thanh toán bằng tiền mặt
Tiền mặt là công cụ thanh tồn tại từ rất lâu đời, đến nay vẫn còn khá
thông dụng, nhất là ở các nước kém và đang phát triển.
Đây là phương tiện sử dụng tiền mặt trực tiếp thanh toán khi giao nhận
hàng hóa giữa các bên. Tuy nhiên chỉ sử dụng trong nước vì mỗi nước đều có
đồng tiền riêng và trong quan hệ thương mại quốc tế phải thanh toán qua ngân
hàng.
4.2. Thanh toán bằng séc
Séc được hiểu là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện được in trên giấy đặc biệt
của ngân hàng do một khách hàng của ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng trích
một số tiền nhất định trên tài khoản của mình mở tại ngân hàng để trả cho người
cầm Séc hoặc cho người được chỉ định trên tờ Séc.
Trong giao dịch thương mại thay vì trả bằng tiền mặt, khách hàng còn có
thể thanh toán cho đối tác bằng Séc, và Séc là một phương tiện khá thông dụng
cả trong thương mại lẫn trong tiêu dùng hàng ngày.
Ngoài loại Séc được chỉ định đích danh, còn có Séc có thể kí hậu: Tức là
người sở hữu có thể điền tên người hưởng thụ mới.
Trong Séc cũng có nhiều loại, sau đây là một số loại chính mà ngân hàng
sử dụng:
• Séc chuyển khoản : Là loại Séc được sử dụng rộng rãi, nó có giá trị thanh
toán trực tiếp như tiền tệ, do đó trên tờ Séc phải có đầy đủ những yếu tố bắt
buộc theo luật định và Séc chỉ có hiệu lực trong một thời gian nhất định mà thôi.

• Séc bảo chi : Là loại Séc được ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán
cho từng tờ Séc. Do vậy mà khi phát hành loại Séc bảo chi, ngân hàng thường
buộc khách hàng phải ký quỹ vào tài khoản riêng và không được sử dụng số tiền
đó vào mục đích khác. Cho nên loại Séc này được sử dụng khi người bán không
tin tưởng vào khả năng thanh toán của người mua hoặc khách hàng vi phạm kỷ
luật phát hành Séc.
• Séc định mức : Cũng là loại Séc giống như Séc bảo chi nhưng chỉ khác ở
chỗ là Séc định mức đảm bAỏ khả năng thanh toán cho cả một quyển Séc.
• Séc chuyển tiền : Là một loại chuyển tiền được sử dụng theo yêu cầu của
khách hàng, tức là chỉ định cụ thể người lĩnh tiền hoặc người cầm Séc sẽ được
lĩnh tiền.
• Séc cá nhân : Được áp dụng đối với khách hàng có tài khoản tiền gửi
đứng tiên cá nhân tại ngân hàng để thanh toán tiền hàng hóa và các khoản khác.
4.3. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi (UNC)
UNC là tờ mệnh lệnh trả tiền của người chủ tài khoản ra lệnh cho ngân
hàng trích tài khoản của mình để trả cho đơn vị hoặc cá nhân thụ hưởng. Như
vậy UNC xuất phát từ đơn vị mua. Đây là công cụ được sử dụng nhiều trong
thanh toán hàng hóa và lao vụ, thông thường sử dụng giữa các tổ chức kinh tế
có tài khoản riêng tại ngân hàng.
4.4. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu (UNT)
Là hình thức thanh toán mà tổ chức kinh tế ủy nhiệm cho ngân hàng của
mình thu hộ tiền hàng hóa đã giao hoặc dịch vụ đã cung cấp. UNT thường áp
dụng giữa các tổ chức kinh tế có sự tin cập lẫn nhau vì đã giao hàng rồi mới lập
bộ UNT gửi cho ngân hàng. Trái với UNC, UNT được bắt đầu từ bên đơn vị bán
hàng hóa.
4.5. Thanh toán bằng thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại vì nó gắn với kỹ
thuật tin học ứng dụng trong ngân hàng. Thẻ thanh toán do ngân hàng phát hành
và bán cho khách hàng của mình để thanh toán tiền hàng hóa và dịch vụ, thanh
toán nợ hoặc lĩnh tiền mặt.

×