Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Những vấn đề cơ bản về đa dạng hoá sản phẩm trong doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.08 KB, 22 trang )

Những vấn đề cơ bản về đa dạng hoá sản phẩm trong doanh
nghiệp công nghiệp
I . Thực chất của đa dạng hoá:
1. Sản phẩm :
1.1. Khái niệm sản phẩm công nghiệp :
Sản phẩm công nghiệp hiểu theo cách đơn giản nhất chính là yếu tố đầu ra
của doanh nghiệp, là kết quả của quá trình biến đổi các yếu tố đầu vào dới sự tác
động của t liệu sản xuất.
Theo quan niệm cổ điển, sản phẩm công nghiệp là tổng hợp các đặc trng vật
lý hoá học có thể quan sát và đợc tập hợp trong một hình thức đồng nhất là vật
mang giá trị sử dụng.
Trong nền kinh tế hàng hoá cùng với sự phát triển của các quan hệ trao đổi
buôn bán, sản phẩm công nghiệp còn chứa đựng các thuộc tính hàng hoá, không
chỉ là vật mang giá trị sử dụng mà còn mang giá trị trao đổi hay giá trị.
Theo quan điểm Marketing, sản phẩm đợc định nghĩa là " mọi thứ có thể
chào bán trên thị trờng để chú ý, mua, sử dụng hay tiêu dùng, có thể thoả mãn đợc
một mong muốn hay nhu cầu ".
Nh vậy khái niệm về sản phẩm hàng hoá mang tính chất phức tạp bởi lẽ mỗi
sản phẩm đều có những nét đặc trng về vật chất và tâm lý nh: chất lợng, mầu sắc,
nhãn mác, cách sử dụng, giao hàng và thực hiện thanh toán, dịch vụ sau bán
hàng...Sản phẩm với những nhãn hiệu cụ thể tạo ra cho ngời tiêu dùng một hình
ảnh, một tín hiệu để nhận biết về doanh nghiệp và xác nhận sự hiện diện của
doanh nghiệp trên thị trờng .
Mỗi sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp phải đáp ứng một nhu cầu, vì đó là
lời hứa hẹn với khách hàng hay ngời tiêu dùng. Ngời mua thờng quan niệm sản
phẩm hàng hoá là của cải vật chất hay dịch vụ mà họ mua để thoả mãn nhu cầu
của mình do đó mỗi sản phẩm đợc coi là lời giải đáp cho một nhu cầu đã tìm thấy
trên thị trờng, doanh nghiệp phải bán cái mà khách hàng cần chứ không phải cái
mình có.
Nghiên cứu sản phẩm về thực chất là tìm hiểu thái độ chấp nhận của khách
hàng đối với sản phẩm của mình.


1.2. Phân loại sản phẩm :
Các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm hàng hoá là để bán và do sản phẩm hàng
hoá của doanh nghiệp mang tính chất đa dạng nên phải phân loại để tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác kinh doanh. Trong thực tiễn ngời ta phân loại sản phẩm
theo rất nhiều cách khác nhau nhng để phục vụ cho việc tìm hiểu về đa dạng hoá
có thể xem xét một số cách phân loại chủ yếu sau.
1.2.1. Phân loại theo tính chất sử dụng :
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm công
cộng và sản phẩm cá nhân.
- Sản phẩm công cộng là sản phẩm mà việc tiêu dùng của ngời này không
làm ảnh hởng đến việc tiêu dùng của ngời khác nh đờng xá, cầu cống, các công
trình văn hoá, các di tích lịch sử...
- Sản phẩm cá nhân là sản phẩm mà khi một ngời đã tiêu dùng thì ngời khác
không thể tiêu dùng sản phẩm đó .Ví dụ nh quần áo, thực phẩm...
Sản phẩm cá nhân có tính cạnh tranh mạnh mẽ còn sản phẩm công cộng
không có tính cạnh tranh.
1.2.2. Phân loại sản phẩm theo mối quan hệ với thu nhập :
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm hàng hóa thông th-
ờng và hàng xa xỉ.
- Hàng thông thờng là những sản phẩm mà mọi tầng lớp trong xã hội có thể
tiêu dùng một cách bình thờng nh giày dép, chất đốt...
- Hàng xa xỉ là những sản phẩm dành cho các đối tợng có thu nhập cao trong
xã hội nh kim cơng, áo lông thú...
1.2.3. Phân loại sản phẩm theo khả năng thay thế lẫn nhau:
Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá bổ sung
và hàng hoá thay thế
- Hàng hoá bổ sung là hàng hoá khi tiêu dùng phải theo một cơ cấu và đồng
bộ nhau, không thể tách rời nhau đợc nh: ô tô và xăng, thuốc lá và bật lửa..
- Hàng hoá thay thế là hàng hoá tiêu dùng độc lập với nhau và khi cần có thể
thay thế cho nhau nh: bếp điện và bếp ga, dầu và than..

1.2.4. Phân loại sản phẩm theo tuổi thọ của sản phẩm:
- Hàng hoá lâu bền là hàng hoá có thể sử dụng đợc trong một thời gian dài
nh ô tô, xe máy, nhà cửa...
- Hàng hoá không lâu bền nh những vật rẻ tiền nhanh hỏng: đũa tre, guốc
mộc...
1.2.5. Phân loại sản phẩm theo tần số mua:
- Hàng mua thờng xuyên: là hàng hoá rất cần thiết cho cuộc sống hàng ngày
mà ngời tiêu dùng phải sử dụng thờng xuyên nh quần áo, giày dép..
- Hàng mua không thờng xuyên: là loại hàng hoá mà ngời tiêu dùng không
tiêu dùng chúng thờng xuyên nh quần áo cới ...
1.2.6. Phân loại sản phẩm theo mức độ chế biến sản phẩm:
- Sản phẩm trung gian: là những sản phẩm còn phải trải qua một số bớc chế
biến nữa mới trở thành sản phẩm hoàn chỉnh phục vụ cho tiêu dùng nh sợi để dệt
vải, vải để may quần áo..
- Sản phẩm cuối cùng là những sản phẩm hoàn chỉnh có thể phục vụ cho tiêu
dùng nh xe máy, văn phòng phẩm..
1.3. Năm mức độ của sản phẩm:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, khi lập kế hoạch sản phẩm của mình
nhà kinh doanh cần suy nghĩ đầy đủ về năm mức độ của sản phẩm.
Mức độ cơ bản nhất chính là ích lợi cốt lõi, chính là dịch vụ hay lợi ích cơ
bản mà khách hàng thực sự mua. Ngòi kinh doanh phải luôn coi mình là ngời
cung ứng ích lợi. Ví dụ nh trong trờng hợp khách sạn, ngời khách nghỉ đêm mua "
sự nghỉ ngơi và giấc ngủ ".
ở mức độ thứ hai, ngời kinh doanh phải biến lợi ích cốt lõi thành sản phẩm
chung chính là dạng cơ bản của sản phẩm đó vì thế khách sạn phải là một toà nhà
có các phòng để cho thuê.
ở mức độ thứ ba, ngòi kinh doanh chuẩn bị một sản phẩm mong đợi, tức là
tập hợp các thuộc tính và điều kiện ngời mua thờng mong đợi và chấp nhận khi họ
mua sản phẩm đó. Ví dụ nh khách đến khách sạn mong đợi một cái giờng sạch sẽ,
xà bông, khăn tắm và một mức độ yên tĩnh tơng đối. Vì hầu hết các khách sạn có

thể đáp ứng đợc mong muốn tối thiểu này nên khách du lịch thờng không có thiên
vị đối với khách sạn nào mà họ sẽ vào bất kì khách sạn nào thuận tiện nhất .
ở mức độ thứ t, ngời kinh doanh chuẩn bị một sản phẩm hoàn thiện thêm tức
là sản phẩm bao gồm những dịch vụ và ích lợi phụ thêm làm cho sản phẩm của
công ty khác với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Ví dụ khách sạn có thể hoàn
thiện thêm sản phẩm của mình bằng cách đăng kí khách nhanh chóng, bổ sung
sữa tắm, bữa ăn ngon và phục vụ tốt v.v..Cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp
ngày nay chủ yếu ở mức độ hoàn thiện sản phẩm.
ở mức độ thứ năm là sản phẩm tiềm ẩn, tức là những sự hoàn thiện và biến
đổi mà sản phẩm đó cuối cùng có thể nhận đợc trong tơng lai. Trong khi sản phẩm
hoàn thiện thể hiện những gì đã đợc đa vào sản phẩm ngày hôm nay thì sản phẩm
tiềm ẩn lại chỉ nêu ra hớng phát triển khả dĩ của nó. Đây chính là nơi các công ty
tìm kiếm tích cực những cách thức mới để thoả mãn khách hàng và tạo sự khác
biệt cho sản phẩm của mình. Sự xuất hiện của một số khách sạn thợng hạng mà ở
đó khách có thể ở nhiều phòng là một sự đổi mới khách sạn truyền thống.
Một số công ty đã bổ sung cho sản phẩm của mình những ích lợi không
những thoả mãn mà còn làm cho khách hàng vui lòng bằng cách mang đến những
sự ngạc nhiên bất ngờ cho họ khi tiêu dùng sản phẩm của công ty mình
1.4. Danh mục sản phẩm :
Một danh mục sản phẩm là tập hợp tất cả những loại sản phẩm và mặt hàng
mà một ngời bán cụ thể đa ra để bán cho ngời mua. Danh mục sản phẩm của một
công ty sẽ có chiều rộng, chiều dài, chiều sâu và một mật độ nhất định
Chiều rộng danh mục sản phẩm thể hiện công ty có bao nhiêu loại sản phẩm
khác nhau.
Chiều dài danh mục sản phẩm là tổng số mặt hàng của công ty .
Chiều sâu danh mục thể hiện có bao nhiêu phơng án của mỗi sản phẩm trong
một loại.
Mật độ của danh mục sản phẩm thể hiện mối quan hệ mật thiết đến mức độ
nào giữa các loại sản phẩm khác nhau xét theo cách sử dụng cuối cùng, thiết bị
sản xuất hay kênh phân phối nào khác.

Bốn chiều này của danh mục sản phẩm tạo nên những căn cứ để xây dựng
chiến lợc sản phẩm của công ty. Công ty có thể khuyếch trơng doanh nghiệp của
mình theo nhiều cách. Công ty có thể mở rộng danh mục sản phẩm bằng cách bổ
sung những sản phẩm mới. Công ty có thể kéo dài từng loại sản phẩm. Công ty có
thể bổ sung thêm các phơng án sản phẩm cho từng sản phẩm và tăng chiều sâu
của danh mục. Cuối cùng công ty có thể tiếp tục tăng hay giảm mật độ của loại
sản phẩm tùy theo ý đồ của công ty muốn có uy tín vững chắc trong một lĩnh vực
hay tham gia vào nhiều lĩnh vực.
Việc lập kế hoạch danh mục sản phẩm chủ yếu tùy thuộc vào trách nhiệm
của những ngời hoạch định chiến lợc của công ty căn cứ vào những thông tin do
ngời làm công tác marketing của công ty cung cấp. Họ phải đánh giá những loại
sản phẩm cần phát triển, cần duy trì, cần thu hoạch và cần loại bỏ.
2. Đa dạng hoá sản phẩm và sự cần thiết của đa dạng hoá sản phẩm
trong doanh nghiệp công nghiệp :
2.1. Thực chất của đa dạng hoá sản phẩm:
Trong hệ thống mục tiêu kinh tế - xã hội của mỗi doanh nghiệp có hai mục
tiêu đợc coi là cơ bản, tạo tiền đề cho các mục tiêu khác đó là việc tạo ra sản
phẩm với chất lợng cao phù hợp với nhu cầu của thị trờng và xã hội và việc đạt đ-
ợc lợi nhuận tối đa sau mỗi chu kỳ kinh doanh trên cơ sở nâng cao hiệu quả của
các hoạt động sản xuất kinh doanh. Để thực hiện có hiệu quả hệ thống mục tiêu
kinh tế-xã hội nói chung và hai mục tiêu nói riêng mỗi doanh nghiệp phải xác
định đợc cơ cấu sản phẩm hợp lý của mình. Tính hợp lý của mỗi cơ cấu sản phẩm
chỉ thích ứng với những điều kiện nhất định trong mỗi kỳ kinh doanh do đó khi
những điều kiện ấy có sự thay đổi thì cơ cấu sản phẩm cũng phải thay đổi để đạt
tính hợp lý mới điều đó có nghĩa là cơ cấu sản phẩm của công ty phải mang tính "
động " để thích ứng với nền kinh tế thị trờng cạnh tranh sôi động.
Sự hoàn thiện và đổi mới cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp đợc thực hiện
theo nhiều cách khác nhau nh :
- Thu hẹp danh mục sản phẩm bằng cách loại bỏ những sản phẩm lỗi thời,
những sản phẩm kém sức cạnh tranh và những sản phẩm không có khả năng tạo ra

lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Giữ nguyên chủng loại sản phẩm đang sản xuất nhng cải tiến, hoàn thiện
những sản phẩm ấy về hình thức, về nội dung, tạo thêm nhiều kiểu dáng và thế hệ
sản phẩm mới .
- Bổ sung thêm vào danh mục sản phẩm những sản phẩm mới phù hợp với
nhu cầu thị trờng và xu hớng phát triển của khoa học, công nghệ.
- Chuyển hoá vị trí các sản phẩm trong cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp,
đa những sản phẩm ở vị trí hàng thứ lên vị trí hàng đầu hoặc ngợc lại bằng cách
thay đổi định lợng sản xuất mỗi loại.
Trong thực tế, các hớng trên đây đợc thực hiện xen kẽ lẫn nhau. Nếu cơ cấu
sản phẩm của doanh nghiệp thay đổi theo hớng thu hẹp lại, đảm bảo sự tập trung
cao hơn về sản xuất thì doanh nghiệp phát triển theo hớng chuyên môn hoá. Ngợc
lại cơ cấu sản phẩm đợc mở rộng ra, doanh nghiệp phát triển theo hớng đa dạng
hoá...Trong những thời kì nhất định và trên một thị trờng nhất định doanh nghiệp
có thể thực hiện đa dạng hoá thông qua hình thức cải tiến , hoàn thiện sản phẩm
đã có hoặc là đa ra những sản phẩm mới hoàn toàn có thể cùng loại hoặc khác biệt
so với những sản phẩm cũ nhng doanh nghiệp cũng có thể kết hợp cả hai hình
thức trên nhằm thỏa mãn đáp ứng cao nhất nhu cầu của thị trờng.
Nh vậy đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp là việc mở rộng danh mục
sản phẩm, nó gắn liền với quá trình đổi mới và hoàn thiện cơ cấu sản phẩm, nhằm
đảm bảo doanh nghiệp thích ứng đợc với sự biến động của môi trờng kinh doanh.
Đa dạng hoá sản phẩm là một nội dung cụ thể của đa dạng hoá sản xuất và
đa dạng hoá kinh doanh công nghiệp. Khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, doanh
nghiệp chỉ mở rộng danh mục các sản phẩm công nghiệp của mình, nghĩa là hoạt
động của doanh nghiệp vẫn chỉ giới hạn trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Khi
thực hiện đa dạng hoá sản xuất, thì ngoài lĩnh vực truyền thống là sản xuất công
nghiệp, doanh nghiệp còn có thể thâm nhập sang các lĩnh vực sản xuất khác.
Chẳng hạn, thâm nhập sang các lĩnh vực sản xuất công nghiệp không phải truyền
thống, sang lĩnh vực nông, lâm, ng nghiệp, xây dựng cơ bản...Còn khi thực hiện
đa dạng hoá kinh doanh ( hay kinh doanh tổng hợp ) doanh nghiệp có thể phát

triển sang cả lĩnh vực thơng mại, dịch vụ...
Mối quan hệ giữa đa dạng hoá sản phẩm và kế hoạch hoá sản xuất - kinh
doanh đợc thể hiện ở chỗ khi xác định phơng án đa dạng hoá sản phẩm đòi hỏi
doanh nghiệp phải xác định rõ chủng loại sản phẩm, khối lợng sản phẩm của mỗi
loại, thị trờng tiêu thụ, khả năng đảm bảo các yếu tố đầu vào, khả năng huy động
vốn đầu t và dự kiến lợi nhuận sẽ đạt đợc.
Đa dạng hoá sản phẩm là một khuynh hớng phát triển ngày càng phổ biến
trong các doanh nghiệp công nghiệp. Các tổ chức kinh tế lớn nh tập đoàn kinh
doanh thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, kinh doanh đa ngành và đa lĩnh vực hoạt
động. Số lợng và chủng loại hàng hoá lu thông trên thị trờng thực chất cũng là một
chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của mỗi doanh nghiệp cũng nh của nền kinh tế
nói chung. Nhiều doanh nghiệp độc lập với các quy mô khác nhau cũng thực hiện
đa dạng hoá sản phẩm và trong thực tế việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm đã
không những giúp doanh nghiệp đạt đợc các mục tiêu kinh tế và phi kinh tế nh lợi
nhuận hay thế lực trên thị trờng mà còn đóng góp rất lớn vào sự phát triển của
toàn xã hội nhờ tạo ra nhiều loại hàng hoá mang lại lợi ích và thỏa mãn tốt nhất
nhu cầu của ngời tiêu dùng.
2.2. Sự cần thiết phải đa dạng hoá :
2.2.1. Nhu cầu thị tr ờng ngày càng phong phú, đa dạng và th ờng xuyên biến đổi :
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trờng, đời sống xã hội
cũng ngày càng đợc nâng cao về nhiều mặt. Trong cuộc sống ngày nay, nhu cầu
của con ngời không chỉ bó gọn ở mức độ thấp nh có ăn, có mặc mà phải là ăn
ngon mặc đẹp ngoài ra còn có nhu cầu vui chơi, giải trí, nhu cầu thẩm mĩ rất cao.
Nh vậy so với trớc kia trong thời kì kế hoạch hoá tập trung tự cung tự cấp, nhu
cầu thị trờng mang tính cứng nhắc và bị áp đặt bởi chính các yếu tố cung, giờ đây
nhu cầu mới là nhân tố thực sự quyết định sự vận động của thị trờng. Các sản
phẩm không thể đáp ứng đợc nhu cầu của thị trờng khi chúng chỉ mang " ích lợi
cốt lõi " đơn thuần mà còn phải mang tính thẩm mĩ, sự tiện nghi và phong phú về
chủng loại. Việc một loại sản phẩm có cùng giá trị sử dụng nhng có thêm một số
đặc tính khác để thoả mãn từng đoạn thị trờng nhất định chính là một biểu hiện

của hoạt động đa dạng hoá sản phẩm. Đa dạng hoá sản phẩm tạo ra nhiều mặt
hàng mới phong phú với chất lợng cao tăng phơng án sản phẩm để ngời tiêu dùng
có nhiều cơ hội lựa chọn. Theo quy luật tất yếu, thị trờng luôn vận động và biến
đổi không ngừng làm nảy sinh những nhu cầu mới cao hơn, phong phú hơn tạo ra
những thách thức và cũng đồng thời mang đến những cơ hội kinh doanh cho
doanh nghiệp. Trong môi trờng kinh doanh sôi động mà ngời thành công là ngời
biết " nắm lấy các cơ hội ", doanh nghiệp phải luôn bám sát các diễn biến của
quan hệ cung cầu trên thị trờng, xây dựng cơ cấu sản phẩm tối u thich ứng với sự
linh hoạt của thị trờng. Thực tế cho thấy hiện nay các doanh nghiệp luôn cố gắng
làm mới và mở rộng danh mục sản phẩm của mình dựa trên sự hoàn thiện không
ngừng các sản phẩm hiện có song song với việc đa vào sản xuất những mặt hàng
mới đón đầu nhu cầu thị trờng, tạo thế chủ động của doanh nghiệp trên thơng tr-
ờng. Sự phong phú và biến đổi không ngừng của thị trờng đã đòi hỏi các doanh
nghiệp phải năng động sáng tạo trong việc tạo ra một cơ cấu sản phẩm " động "
thông qua hoạt động đa dạng hoá sản phẩm mới có thể tồn tại và phát triển trong
sự cạnh tranh khốc liệt " thơng trờng là chiến trờng ".
2.2.2. Do tiến bộ của khoa học công nghệ nên chu kỳ sống của sản phẩm bị rút ngắn
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra với tốc độ nhanh
nh vũ bão. Một khối lợng đồ sộ các phát minh sáng chế ra đời đã tạo ra ngày càng
nhiều công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên liệu mới. Điều đặc biệt là hàm lợng tri
thức hay tỷ trọng phần mềm trong các công nghệ mới này là rất lớn chính vì vậy
thời gian tồn tại của các công nghệ này rất ngắn và điều này cũng đồng nghĩa với
việc sản phẩm của doanh nghiệp bị đào thải nhanh hơn. Chu kỳ sống của một sản
phẩm đợc chia ra 4 pha: bắt đầu, phát triển, bão hoà, suy thoái. Các thành tựu
khoa học công nghệ đợc áp dụng ngày càng rộng rãi vào sản xuất làm cho giai
đoạn bão hoà và suy thoái của một sản phẩm đến nhanh hơn. Sự lạc hậu nhanh
chóng của công nghệ và sản phẩm không cho phép doanh nghiệp tự hài lòng với
những gì hiện có mà phải tranh thủ nắm bắt kịp thời những thành tựu mới nhất của
khoa học công nghệ và sử dụng những thành tựu ấy nh một lợi thế cạnh tranh. Vì
vậy doanh nghiệp phải luôn xem xét, đánh giá sản phẩm đang ở giai đoạn nào

trong chu kỳ sống nếu đang ở giai đoạn bão hoà doanh nghiệp sẽ tìm cách cải tiến
sản phẩm đó để kéo dài tuổi thọ của sản phẩm hoặc chuẩn bị nghiên cứu sản xuất
sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu phong phú của thị trờng. Sự xuất hiện của các
ngành công nghệ mới vừa tạo điều kiện vừa thúc đẩy doanh nghiệp tạo ra nhiều
sản phẩm mới, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nh một phơng thức phát triển của
doanh nghiệp.
2.2.3. Xu h ớng chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá trong sản xuất kinh doanh :
Việc nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa chuyên môn hoá và đa dạng hoá
sản phẩm của doanh nghiệp công nghiệp là cơ sở để xác định đúng đắn con đờng,
phơng hớng và điều kiện phát triển các hình thức tổ chức sản xuất tơng ứng.
Về hình thức, khi mức độ đa dạng hoá sản phẩm càng cao trình độ chuyên
môn hoá sản xuất của doanh nghiệp càng thấp nhng xét về nội dung đó không
phải là hai quá trình độc lập mà có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau.
Thứ nhất, bản thân sản phẩm chuyên môn hoá của doanh nghiệp cũng phải đ-
ợc hoàn thiện, cải tiến về hình thức và nội dung, tăng thêm kiểu cách, mẫu mã để
đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trờng. Theo nội dung này, sản phẩm chuyên môn
hoá của doanh nghiệp đợc đa dạng theo hình thức biến đổi chủng loại.
Thứ hai, với nhiều doanh nghiệp việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn
hoá thờng không sử dụng hết các nguồn lực sẵn có. Bởi vậy trong khi coi nâng cao
một cách hợp lý trình độ chuyên môn hoá là phơng hớng chủ đạo của phát triển
doanh nghiệp, doanh nghiệp vẫn cần mở rộng danh mục sản phẩm để tận dụng
các nguồn lực sản xuất. Với nội dung này, đa dạng hoá sản phẩm tạo thành "
tuyến sản phẩm " hỗ trợ quan trọng cho phát triển chuyên môn hoá.
Thứ ba, có rất nhiều phơng thức thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nhng đa
dạng hóa sản phẩm dựa trên cơ sở nền tảng các điều kiện vật chất kĩ thuật của
chuyên môn hoá ban đầu mang lại, sẽ giảm bớt đợc nhu cầu đầu t. Đây chính là
ràng buộc của chuyên môn hoá đến việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm của
doanh nghiệp.
Nh vậy, để xây dựng cơ cấu sản phẩm động mang tính linh hoạt thì bản thân
sản phẩm chuyên môn hoá của doanh nghiệp cũng phải đợc đa dạng hoá và đây đ-

ợc coi là xu hớng tất yếu đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững trong môi trờng
kinh doanh thiên biến vạn hoá.
2.2.4. Phân tán rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh :
Mục tiêu chính của các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh là
lợi nhuận nhng trong nền kinh tế thị trờng cạnh tranh khốc liệt, sự thành công của
doanh nghiệp bị đe dọa bởi rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Một cơ hội
kinh doanh có khả năng thu lợi càng lớn thì mức độ rủi ro kinh doanh xảy ra đối
với doanh nghiệp càng cao. Các nguyên nhân gây ra rủi ro có thể đến từ các yếu
tố nội tại của doanh nghiệp nh máy móc thiết bị không đồng bộ, công nghệ lạc
hậu, thiếu vốn...hay từ môi trờng kinh doanh nh sự thay đổi đột ngột nhu cầu,
chính sách kinh tế của nhà nớc, thiên tai...Rủi ro kinh doanh xảy ra có thể gây
thiệt hại rất lớn cho doanh nghiệp về nhiều mặt vì vậy khi xây dựng các phơng án
kinh doanh, doanh nghiệp rất quan tâm đến việc ngăn ngừa rủi ro đảm bảo độ an
toàn cao nhất cho doanh nghiệp. Một trong những biện pháp giúp doanh nghiệp
giảm thiểu những rủi ro là thực hiện đa dạng hoá sản phẩm để tạo ra các tuyến sản
phẩm với nhiều thang, dòng bổ sung lẫn nhau thay vì chỉ tập trung sản xuất một
sản phẩm khi các yếu tố khách quan biến động có thể dẫn đến sự phá sản của
doanh nghiệp.
2.2.5. Đa dạng hoá góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp:

×