Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Bài giảng Phát triển chương trình dạy học Ngữ văn ĐH Phạm Văn Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.06 KB, 52 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG
KHOA SƯ PHẠM XÃ HỘI

Bài giảng học phần

PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH DẠY HỌC
NGỮ VĂN
Chương trình Đại học ngành Sư phạm Ngữ văn

Giảng viên: HUỲNH THỊ NGỌC KIỀU
Khoa Sư phạm Xã hội

QUẢNG NGÃI, THÁNG 7/2019


Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG
CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA THPT
1.1. Khái niệm chương trình giáo dục (chương trình dạy học)
1.1.1. Các quan điểm khác nhau về chương trình giáo dục
Thuật ngữ chương trình giáo dục xuất hiện từ năm 1820. Tuy nhiên phải đến giữa
thế kỷ XX, thuật ngữ này mới được sử dụng một cách chuyên nghiệp ở Hoa Kỳ và một số
nước có nền giáo dục phát triển.
Chương trình Giáo dục có thể định nghĩa theo hai hướng:
- Đó là một loạt các hoạt động nhằm phát hiện khả năng của mỗi người học.
- Đó là một loạt các hoạt động có chủ định nhằm hoàn thiện người học.
Năm 1935, Hollis và Doak Compbell cho rằng chương trình giáo dục bao gồm tất
cả những hiểu biết và kinh nghiệm mà người học có được nhờ sự hướng dẫn của nhà
trường.
Nhiều tác giả khác cũng cho rằng, chương trình giáo dục (CTGD) không phải là
một sản phẩm được dùng cho lâu dài mà nó luôn có tính phát triển liên tục.
Đến giữa những năm 50 của thế kỷ XX, ảnh hưởng của xã hội đến nhà trường


ngày càng rõ hơn và HS không chỉ học được những gì có trong trường học mà còn tiếp
nhận nhiều kinh nghiệm phong phú trong đời sống xã hội. Do vậy, định nghĩa về CTGD
được mở rộng hơn, không chỉ đơn thuần là những nội dung học được trong nhà trường.
Ví dụ: “CTGD là tất cả các hoạt động học tập của người học và được kế hoạch hóa bởi
nhà trường nhằm đạt được những mục đích của giáo dục”.
Vào những năm 60 của thế kỷ XX và tiếp tục sang thế kỷ XXI, người ta quan tâm
nhiều hơn đến hiệu quả của CTGD. Ví dụ: “CTGD không chỉ quan tâm đến những gì
người học phải làm trong quá trình học tập mà còn là những gì họ sẽ học được từ những
việc làm đó. CTGD quan tâm đến những kết quả cuối cùng”. “CTGD là những hoạt động
học tập được hoạch định và chỉ đạo bởi nhà trường nhằm giúp người học phát triển năng
lực cá nhâ và xã hội một cách liên tục”.
Cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau trong việc định nghĩa về CTGD. Sự
khác nhau đó tùy thuộc vào quan niệm của các nhà nghiên cứu và các nhà thực hành khi

2


suy nghĩ và thiết kế chương trình. Từ điển Bách khoa Quốc tế về Giáo dục (Oxfofd) đã
thống kê 9 định nghĩa khác nhau về CTGD. Còn nhà nghiên cứu Reisse lại tổng hợp đến
27 định nghĩa khác nhau về CTGD, trong đó ông chia thành ba nhóm khác nhau về mức
độ rộng hẹp, nhiều ít các yếu tố cấu thành của chương trình. Tuy nhiên, khuynh hướng
chung không chỉ bó hẹp trong hai thành phần là nội dung và mục tiêu dạy học.
Tác giả K.Frey định nghĩa về CTGD như sau: “CTGD là sự trình bày, diễn tả có
hê thống việc dạy học được dự kiến trong một khoảng thời gian xác định mà sản phẩm
của sự trình bày đó là một hệ thống xác định các thành tố khác nhau nhằm chuẩn bị, thực
hiện và đánh giá một cách tối ưu vuệc dạy và học”. Đây là định nghĩa được nhiều nhà
nghiên cứu và thực hành quan tâm.
Mặc dù định nghĩa về CTGD luôn thay đổi do tác động của xã hội đối với những
bước tiến khổng lồ về Khoa học kỹ thuật và công nghệ nhưng CTGD hiện nay được xem
như là tập hợp các mục tiêu và giá trị có thể được hình thành ở người học thông qua các

hoạt động được kế hoạch hóa và tổ chức trong nhà trường, gắn liền với đời sống xã hội.
Mức độ đạt được các mục tiêu ấy là thể hiện tính hiệu quả của một CTGD. Mục đích của
việc thiết kế một CTGD phụ thuộc vào đối tượng người học của CTGD đó.
Ngày nay, quan niệm về CTGD đã rộng hơn, đó không chỉ là việc trình bày mục
tiêu cuối cùng và bảng danh mục các nội dung dạy học. Chương trình là một phức hợp
bao gồm các bộ phận cấu thành:
- Mục tiêu học tập.
- Phạm vi, mức độ và cấu trúc nội dung học tập.
- Các phương pháp, hình thức tổ chức học tập.
- Đánh giá kết quả học tập.
1.1.2. Định nghĩa chương trình giáo dục
CTGD là sự trình bày có hệ thống 1 kế hoạch tổng thể các hoạt động giáo dục
trong một thời gian xác định, trong đó nêu lên các mục tiêu học tập mà người học cần đạt
được, đồng thời xác định rõ phạm vi, mức độ nội dung học tập, các phương tiện, phương
pháp, cách thức tổ chức học tập, cách đánh giá kết quả học tập… nhằm đạt được các mục
tiêu học tập đề ra.
1.2. Cấu trúc chương trình giáo dục

3


Cấu trúc CTGD gồm hai thành phần chính : sự hình dung trước những thành tựu
mà người học sẽ đạt được sau một thời gian học tập và cách thức, phương tiện, con
đường, điều kiện để mong muốn điều đó trở thành hiện thực.
Hai thành phần chính này gồm có các thành tố cơ bản sau :
- Nhu cầu đào tạo.
- Mục đích, mục tiêu đào tạo.
- Nội dung đào tạo.
- Phương thức đào tạo.
- Các hình thức tổ chức hoạt động đào tạo.

- Các hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo.
1.3. Các khuynh hướng khác nhau trong việc xây dựng CTGD
1.3.1. Cách tiếp cận nội dung
Nhiều người cho rằng, chương trình đào tạo chỉ là bản phác thảo nội dung đào tạo.
Với quan niệm này, giáo dục là quá trình truyền thụ nội dung – tri thức. Do vậy, điều
quan trọng nhất là khối kiến thức cần truyền thụ và CTGD chỉ là phác thảo nội dung khối
kiến thức cần dạy học. Hệ quả là người dạy cũng chỉ cần tìm phương pháp phù hợp để
truyền đạt khối kiến thức đó một cách tốt nhất, vô hình chung đẩy người học vào thế thụ
động trong tiếp thu kiến thức. Và việc đánh giá kết quả học tập sẽ gặp khó khăn vì mức
độ nông sâu của kiến thức không được thể hiện rõ ràng.
Chúng ta thừa nhận vai trò rất quan trọng của khối kiến thức mà người học và
người dạy phải cùng nhau đạt tới. Nhưng quá trình đào tạo không chỉ đơn giản như vậy.
Chúng ta sống trong thời đại bùng nổ thông tin với những tiến bộ như vũ bão của khoa
học và công nghệ - nhất là công nghệ thông tin viễn thông. Cứ 5 đến 7 năm, khối lượng
thông tin toàn cầu lại tăng gấp đôi. Và nền giáo dục chỉ đơn thuần là một quá trình
“truyền thụ kiến thức” với thời gian đào tạo chính khóa gần như cố định thì người dạy,
người học không đủ khả năng để truyền thụ cũng như tiếp thu khối kiến thức khổng lồ do
thông tin mang lại. Hơn nữa, cho dù có được kiến thức tối đa thì nó cũng nhanh chóng bị
lạc hậu.
Hơn nữa, rất khó có thể đánh giá được mức độ hoàn thành chương trình thiết kế
theo kiểu này. Nguyên nhân là chương trình mới chỉ là những nét phác thảo về nội dung

4


kiến thức, kỹ năng mà người dạy cần rèn luyện cho người học. Bản thân người thiết kế
nắm được mức độ, phạm vi, khối lượng kiến thức kỹ năng cần có ở mỗi môn học (thang
bậc kiến thức, kỹ năng). Người dạy trực tiếp chưa chắc đã có khái niệm đầy đủ về điều
đó và hệ quả là sự tùy tiện trong biên soạn chương trình giảng dạy, thiết kế giáo án.
Người học sẽ còn bỡ ngỡ hơn vì không biết sẽ phải học, phải thi như thế nào. Nhược

điểm chính của cách tiếp cận trong thiết kế CTGD theo nội dung là khó xác định được
mục tiêu chi tiết, cụ thể, định hướng để thầy và trò cùng nhau đi tới, đồng thời qua đó xác
định được chuẩn để kiểm tra, đánh giá thành quả dạy học của GV và HS.
Các nhà giáo dục học trong và ngoài nước cũng có những nhận xét tương tự về
cách tiếp cận này. Theo Kelly, ý tưởng coi giáo dục là quá trình truyền thụ kiến thức và
CTGD chú trọng trước hết đến nội dung là quá giản đơn, bởi lẽ nó bỏ qua nhiều khía
cạnh khác không kém phần quan trọng khi thảo luận và thiết kế CTGD. Kelly cũng cho
rằng, cách tiếp cận này không khuyến khích hoặc bắt ta có trách nhiệm gì với người học,
những người tiếp thu nội dung kiến thức và là đối tượng của quá trình truyền thụ kiến
thức và cũng không có trách nhiệm gì về sự tác động của nội dung kiến thức lên người
học. Còn người học chỉ có cách học tốt nhất những gì thầy truyền thụ cho họ. Trong
trường hợp kiến thức có tác động nhất định tới người học thì cũng không có phương thức
nào kiểm tra, đánh giá chính xác được hiệu quả của quy trình đào tạo, mà chỉ đánh giá kết
quả học tập thông qua xác định lượng kiến thức và kỹ năng má người học tiếp thu và
đồng hóa được.
Mặc dù hiện nay các trường trên thế giới hầu như không còn sử dụng cách tiếp cận
này trong thiết kế chương trình giáo dục nhưng ở Việt Nam cách thiết kế CTGD theo
quan điểm nội dung vẫn còn phổ biến.
1.3.2. Cách tiếp cận mục tiêu hay cách tiếp cận hành vi
Vào giữa thế kỷ XX, cách tiếp cận mục tiêu bắt đầu được sử dụng ở Mỹ. Theo
cách tiếp cận này, CTGD phải được xây dựng xuất phát từ mục tiêu đào tạo. Dựa trên
mục tiêu đào tạo, người lập chương trình mới quyết định lựa chọn nội dung, phương pháp
đào tạo cũng như cách đánh giá kết quả học tập. Mục tiêu đào tạo ở đây được thể hiện
dưới dạng mục tiêu đầu ra của quy trình đào tạo thể hiện qua những thay đổi về hành vi

5


của người học. Cách tiếp cận mục tiêu chú trọng đến sản phẩm đào tạo và coi đào tạo là
công cụ để tạo nên các sản phẩm với các tiêu chuẩn định sẵn.

Một chương trình giáo dục được thiết kế trên cơ sở mục tiêu đào tạo cho ta một
khuôn mẫu chuẩn được hình thành dẫn qua các giai đoạn khác nhau của quy trình đào
tạo. Đồng thời chương trình đó cũng giúp xác định mục tiêu riêng biệt cho từng nhóm
môn học, thậm chí từng môn học cụ thể cấu thành nên chương trình. Căn cứ vào đó,
người dạy, người học có thể lựa chọn nội dung kiến thức các phương pháp, các chiến
lược dạy học tương ứng, các phương tiện phù hợp nhằm đạt mục tiêu. Hơn nữa, một khi
chuẩn đã được xác định, các phương tiện đạt chuẩn cũng đã hình thành thì việc đánh giá
mức độ đạt chuẩn cũng sẽ được tiến hành một cách chính xác, khoa học. Kiểm tra đánh
giá kết quả đào tạo ở đây thực chất là sự đối chiếu kết quả đào tạo với hệ mục tiêu của
quy trình đào tạo đã xác định.
- Ưu điểm của cách tiếp cận này:
+ Việc xác định mục tiêu đào tạo cụ thể, chi tiết giúp xác định mục tiêu chi tiết cụ
thể của từng nhóm môn học, thâm chí từng môn học.
+ Do xác định mục tiêu đào tạo một cách cụ thể chi tiết nên việc đánh giá kết quả
đào tạo là hoàn toàn có thể thực hiện được một cách chính xác, khoa học.
+ Khái niệm “chất lượng đào tạo”, “chất lượng giáo dục” cũng sẽ được cụ thể hóa
và được đánh giá một cách khách quan, công bằng hơn.
- Nhược điểm:
+ Giáo dục không đơn thuần là công cụ để rèn đúc ra những sản phẩm theo một
khuôn mẫu cố định như một dây chuyền công nghệ trong đó “nguyên liệu đầu vào”, “quy
trình công nghệ”, “tiêu chuẩn sản phẩm” được quy định một cách ngặt nghèo.
+ Giáo dục không chỉ là quá trình truyền thụ kiến thức, không chỉ là việc rèn luyện
người học theo những mục tiêu xác định, giáo dục còn là quá trình phát triển con người,
giúp con người phát huy tối đa kinh nghiệm, tiềm năng sẵn có của bản thân để họ tự hoàn
thiện, tự khẳng định mình và sẵn sàng thích nghi với cuộc sông luôn biến động.
+ Giáo dục với đối tượng là con người, với đặc điểm là “không ai giống ai” (về
mọi phương diện) thì không thể xem là tương đồng với khái niệm “công nghệ giáo dục”
để áp dụng “chương trình giáo dục kiểu công nghệ” theo cách hiểu cứng nhắc được.

6



Người học trải nghiệm và hồi đáp tới cùng một chương trình giáo dục theo những con
đường riêng của mình, tùy theo năng lực cảm nhận, các hoạt động ưu tiên của bản thân.
1.3.3. Cách tiếp cận quản lý
Cách tiếp cận này xem nhà trường như một hệ thống xã hội mà theo lý thuyết tổ
chức, mọi nhóm dân cư, như học sinh, giáo viên, chuyên gia về chương trình giáo dục,
nhà quản lý tác động qua lại với nhau theo những chuẩn mực, hành vi nhất định. Theo
cách tiếp cận này, các nhà thiết kế chương trình giáo dục sử dụng các thuật ngữ như
chương trình, lịch trình, diện tích sử dụng, các nguồn lực, trang thiết bị và nhân sự. Quan
điểm này ủng hộ sự cần thiết phải lựa chọn, tổ chức, hợp tác và hỗ trợ những người tham
gia xây dựng chương trình giáo dục. Cách tiếp cận quản lý có xu hướng tập trung vào
khía cạnh giám sát và quản lý của chương trình giáo dục nhất là quá trình tổ chức và thực
thi. Cách tiếp cận quản lý bắt nguồn từ những năm 1900 trong các trường thuộc mô hình
tổ chức và hành chính và trở thành quan điểm thống trị trong những năm 1950 – 1960.
Trong giai đoạn này, các hiệu trưởng được xem như một tổng công trình sư chỉ đạo toàn
bộ hoạt động thiết kế cũng như thực hiện chương trình giáo dục. Một nhược điểm của
cách tiếp cận này là những nhà quản lý có quyền lực ít quan tâm đến nội dung chương
trình giáo dục, mà chủ yếu là tổ chức và thực hiện chương trình giáo dục. Họ cũng rất ít
quan tâm tới nội dung các môn học, học liệu và phương pháp dạy học.
1.3.4. Cách tiếp cận hệ thống
Cách tiếp cận hệ thống cũng có nhiều điểm tương đồng với cách tiếp cận quản lý –
tức là tổ chức chương trình giáo dục thành một hệ thống. Các bộ phận chương trình giáo
dục được xem như những yếu tố liên kết với nhau trong một chỉnh thể. Cách tiếp cận này
xem xét toàn bộ quá trình cần thiết trong việc thiết kế, thực hiện, đánh giá và phát triển
chương trình giáo dục, cùng với các yếu tố nằm trong cấu trúc của chương trình giáo dục
như môn học, khóa học, kế hoạch dạy học…
Cách tiếp cận hệ thống chịu ảnh hưởng của lý thuyết hệ thống, phân tích hệ
thống và kỹ thuật hệ thống. Những khái niệm này được các nhà khoa học xã hội phát
triển vào những năm 1950 – 1960 và được các nhà quản lý giáo dục sử dụng như một

phần của lý thuyết hành chính và tổ chức. Lý thuyết này được sử dụng khá rộng rãi trong
quân sự, kinh doanh và công nghiệp. Còn trong thiết kế chương trình giáo dục, cách tiếp

7


cận hệ thống xem các đơn vị trong nhà trường là các yếu tố có quan hệ qua lại và tác
động lẫn nhau. Các yếu tố như nhân sự, thiết bị, lịch trình giảng dạy là các công cụ nhằm
thay đổi hành vi của các cá thể tham gia vào hoạt động của nhà trường.
Các chuyên gia thiết kế chương trình giáo dục theo cách tiếp cận hệ thống thường
có cách nhìn vĩ mô hơn về chương trình giáo dục và đề cập tới các vấn đề của chương
trình giáo dục liên quan tới toàn bộ hệ thống nhà trường chứ không phải chỉ với một bậc
học nào hay môn học nào.
Vấn đề phải xem xét là chương trình giáo dục chi phối toàn bộ nội dung đào tạo,
các kế hoạch đào tạo như thế nào, chương trình giáo dục ảnh hưởng như thế nào tới cơ
cấu tổ chức của nhà trường, tới nhu cầu và quá trình đào tạo của người học, các phương
thức điều phối và đánh giá kết quả học tập v.v.
1.3.5. Cách tiếp cận nhân văn (Humanistic approach)
Một số nhà thiết kế chương trình giáo dục xem các cách tiếp cận nêu trên là quá
thiên về kỹ thuật và cứng nhắc. Họ cho rằng do mong muốn xây dựng một chương trình
giáo dục thật khoa học và hợp lý các nhà thiết kế chương trình giáo dục đã bỏ qua khía
cạnh cá nhân và xã hội của chương trình giáo dục. bỏ qua các khía cạnh mỹ thuật, thể
chất, văn hoá của con người, hiếm khi quan tâm tới nhu cầu tự suy tư, tự thể hiện của
người học và cuối cùng là bỏ qua sự năng động tâm lý - xã hội học của lớp học, trường
học.
Quan điểm này có nguồn gốc từ triết học cấp tiến và phong trào xem người học là
trung tâm của những năm đầu thế kỷ 20. Đến những năm 1920 -1930 và nhất là những
năm 1940 - 1950 với sự phát triển của tâm lý học trẻ em và tâm lý học nhân văn thì cách
tiếp cận này được phát triển rộng rãi.
Tuy nhiên cách tiếp cận này phần lớn chỉ được áp dụng trong thiết kế chương trình

giáo dục của bậc tiểu học bao gồm các bài giảng về kinh nghiệm sống, trò chơi theo
nhóm, đi dã ngoại v.v. Những hoạt động mang tính giải quyết vấn đề, lôi cuốn sự tham
gia tích cực của học sinh vào giờ học, tập trung vào việc xã hội hoá hoạt động dạy - học,
tăng cường liên kết giữa nhà trường và gia đình.

8


Các chuyên gia chương trình giáo dục có cách tiếp cận nhân văn thường đặt niềm
tin vàoviệc hợp tác, học độc lập, học theo nhóm nhỏ, và chống lại việc học cạnh tranh,
giáo viên là quyền uy, học lớp đông và chỉ chú ý tới nhận thức. Theo cách tiếp cận này
mỗi đứa trẻ đều có sự đóng góp của mình vào chương trình giáo dục và chia sẻ trách
nhiệm với cha mẹ, với giáo viên, với người quản lí trong việc lên kế hoạch giảng dạy.
Các nhà quản lí có xu hướng cho phép giáo viên tham gia nhiều hơn vào các qui định liên
quan tới chương trình giáo dục. Uỷ ban thiết kế chương trình giáo dục vận hành theo kiểu
từ dưới lên (bottom up) và thường mời sinh viên tham gia các phiên họp về chương trình
giáo dục để nghe ý kiến của họ đối với nội dung và kinh nghiệm của họ trong việc phát
triển chương trình giáo dục.
Cách tiếp cận nhân văn phát triển khá mạnh vào những năm 1970, với hi vọng cải
cách hoàn toàn giáo dục phổ thông. Giáo dục mở và giáo dục tự chọn trở thành một bộ
phận của phong trào cải cách trong giáo dục thời đó.
Tuy nhiên, ngày nay nhu cầu về giáo dục chất lượng, tầm quan trọng của kiến thức
hiện đại buộc các nhà thiết kế chương trình giáo dục phải tập trung vào khâu nhận thức,
chứ không phải là yếu tố nhân văn, và những bộ môn khoa học, toán học được quan tâm
nhiều hơn là các môn nghệ thuật hay âm nhạc. Và ngày nay những người theo cách tiếp
cận này chỉ còn là thiểu số trong các chuyên gia về chương trình giáo dục.
1.3.6. Cách tiếp cận phát triển ( The development approach) - hay còn gọi là
cách tiếp cận quá trình
Theo cách tiếp cận này chương trình giáo dục được xem là quá trình, còn giáo dục
là sự phát triển (Kelly).

Giáo dục là sự phát triển với nghĩa là phát triển con người, phát triển mọi tiềm
năng, kinh nghiệm để có thể làm chủ được bản thân, đương đầu với thử thách một cách
chủ động, sáng tạo. Giáo dục là một quá trình tiếp diễn liên tục suốt đời, do vậy mục đích
cuối cùng không phải là thuộc tính của nó. Cách tiếp cận này chú trọng đến sự phát triển
khả năng hiểu biết, tiếp thu ở người học hơn là truyền thụ nội dung kiến thức đã được xác
định từ trước.

9


Theo Kelly, theo cách tiếp cận này giáo dục là quá trình mà nhờ đó mức độ làm
chủ bản thân làm chủ vận mệnh tiểm ẩn ở mỗi người được phát triển một cách tối đa.
Pan Hirst (1965) cho rằng giáo dục phải phát triển tư duy logic, năng lực sáng tạo,
phát triển tri thức về mọi mặt hơn là hấp thụ lượng kiến thức trơ trọi.
Whitehead (1932) cũng đã từng nói giáo dục là nghệ thuật sử dụng kiến thức hơn
là nắm được những ý tưởng trơ trọi”
Theo J. White (1995) con người không thể học tất cả những gì cần trong nhà
trường, vì vậy chương trình giáo dục phải giúp tạo ra những sản phẩm “có thể đương đầu
với những đòi hỏi của nghề nghiệp không ngừng thay đổi, với một thế giới biến động
khôn lường”.
Tất cả những điều nói trên đòi hỏi phải thiết kế chương trình giáo dục như một quá
trình bao gồm các hoạt động cần thực hiện giúp người học phát triển tối đa những kinh
nghiệm, năng lực tiềm ẩn, tố chất sẵn có để đáp ứng những mục tiêu nói trên.
Nói cách khác, sản phẩm của quá trình đào tạo phải đa dạng tùy theo năng lực,
phẩm chất cá nhân, kinh nghiệm riêng biệt của từng người học, chứ không thể rập theo
một khuôn mẫu cho trước.
Theo cách tiếp cận này với quan điểm giáo dục là phát triển còn chương trình giáo
dục là quá trình, thì người thiết kế chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh nhân văn của
chương trình giáo dục. Cụ thể là, đối tượng đào tạo, từng cá thể trong quy trình đào tạo
với nhu cầu và hứng thú của họ được xem là điểm xuất phát của việc xây dựng chương

trình giáo dục. Nhà trường chỉ cung cấp các khối kiến thức (module) cần thiết và giới
thiệu các phương thức tổ hợp các khối kiến thức để đi tới một văn bằng xác định. Mỗi
người học, căn cứ vào nhu cầu, hứng thú của bản thân, vào kinh nghiệm, kiến thức đã
tích lũy được trước đó, có thể có sự tư vấn của cố vấn học tập, tự xây dựng cho mình một
chương trình giáo dục riêng, thỏa mãn mục tiêu của bản thân.
Theo Kelly, chương trình giáo dục chỉ thực sự có tính giáo dục nếu nội dung của
nó bao gồm những cái mà người học quý trọng và thông qua việc kiên trì theo đuổi
những cái đó mà người học phát triển được sự hiểu biết, phát triển mọi năng lực tiềm ẩn
của bản thân.

10


Từ cách tiếp cận này, một lý thuyết về hệ phương pháp dạy- học theo quan điểm
lấy người học làm trung tâm (learner’s centred approach) ra đời. Các bài giảng được tổ
chức dưới dạng các hoạt động khác nhau nhằm giúp người học lĩnh hội dần các các kinh
nghiệm học tập thông qua việc giải quyết tình huống, tạo cơ hội cho người học được thử
thách trước trước những thách thức khác nhau. Vai trò của người thầy (teacher) chuyển
thành người hướng dẫn (instructor) người học được rèn luyện cách tự học, tự phát hiện và
giải quyết vấn đề, tự điều chỉnh quá trình tự đào tạo của mình với sự tư vấn của thầy. Tuy
nhiên cách tiếp cận này cũng nhận không ít những phê phán, chỉ trích. Người ta cho rằng
cách tiếp cận này chú ý nhiều đến nhu cầu, sở thích của con người mà nhu cầu và sở thích
lại hết sức đa dạng, mà không phải ai cũng xác định nổi. Đó là chưa nói nhu cầu sở thích
của con người cũng dễ thay đổi.

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP CHƯƠNG 1
1. Chương trình dạy học là gì? Anh (chị) hãy phân tích các bộ phận cấu thành của chương
trình giáo dục.
2. Phân tích cấu trúc chương trình giáo dục.
3. Các cách tiếp cận chương trình giáo dục? Hiện nay, giáo dục Việt Nam đang thực hiện

đổi mới chương trình giáo phổ thông theo hướng tiếp cận nào?
3. Phân tích cách tiếp cận hành vi. Cho ví dụ minh họa.
4. Phân tích cách tiếp cận quá trình. Cho ví dụ minh họa.
5. Phân tích cách tiếp cận nội dung. Cho ví dụ minh họa.

11


Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH VÀ

SÁCH GIÁO KHOA
2.1. Sự cần thiết phải đổi mới chương trình giáo dục
2.1.1. Bối cảnh thế giới
Trong suốt gần 60 năm qua, chương trình giáo dục ở các cấp học, bậc học
trong nền giáo dục của ta được biên soạn, thực thi, v.v trên cơ sở kế thừa các chương
trình giáo dục có trước đó, rồi cải tiến, cập nhật, nâng cao cho phù hợp với sự phát triển
kinh tế xã hội, khoa học – công nghệ của giai đoạn sau. Các nhà giáo dục đã đưa vào
chương trình giáo dục những tư tưởng lớn, những tác phẩm có giá trị, các phát minh khoa
học, những sự kiện chính trị xã hội to lớn v.v với mong ước truyền lại cho các thế hệ sau
những thành tựu to lớn của nhân loại trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người.
Tuy nhiên, chỉ trong vòng 7 năm của thập kỷ đầu của thế kỷ 21, những điều chúng ta tích
luỹ được trong hàng năm qua dường như không đủ để giải thích được những điều đang và
sẽ diễn ra.
Thập niên cuối của thế kỷ trước đã chứng kiến một điều mà nhà tương lai học của
những năm 60, Kenneth Boulding gọi là sự “phá vỡ của hệ thống” (system break).
Boulding xem sự phá vỡ của hệ thống như sự tan vỡ của các mô hình tư duy liên quan
đến các hệ thống của con người. Nói cách khác, sự phá vỡ như vậy tạo ra cái mà Alvin
Tofler gọi là “cú sốc của tương lai” mà ở đó lối tư duy có tính truyền thống không còn có
thể giúp chúng ta giải quyết vấn đề. Một đồng nghiệp của Boulding trong những năm 60,
Kenneth Clark đã lưu ý rằng, trong những điều kiện như vậy, sự tiên đoán có thể trở

thành những thông tin chính xác nhất về tương lai. “Định luật” Clark cho rằng “Khi một
nhà thông thái cho rằng một điều gì đó có thể xảy ra, ông ta có thể đúng. Nhưng nếu ông
ta cho rằng một điều gì đó không thể xảy ra, thì gần như có thể nói rằng ông ấy sai”.
Đó cũng chính là đặc điểm của giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Các nhà giáo
dục đang bị choáng ngợp trước những thay đổi to lớn do con người tạo ra trong mọi lĩnh
vực, và không biết lựa chọn những yếu tố gì để truyền đạt cho con cháu mai sau.

12


Trong những năm 90 của thế kỷ trước, Internet xuất hiện và làm thay đổi mọi quan
điểm truyền thống về giáo dục, như nhà trường, lớp học, về dạy, học.
Tháng 5/2000, Bill Gates, người sáng lập ra Microsoft đã nói: “Chúng ta thật ra
mới ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng. Trong vòng 10 năm tới, chúng ta sẽ thực hiện
nhiều thay đổi đối với xã hội hơn là những gì đã làm trong 25 năm qua”.
Những thay đổi to lớn của xã hội nói lên một điều là kỷ nguyên cũ đã qua và một
kỷ nguyên mới đang đến, sự phá vỡ của hệ thống, một sự kiện chưa được hiểu một cách
đầy đủ đã xảy ra và còn làm biến đổi nền giáo dục của cả nhân loại. Và những người làm
giáo dục cần có cách suy nghĩ mới để định hướng nền giáo dục trong kỷ nguyên mới này.
Để đáp ứng với những thay đổi to lớn và nhanh chóng trong kỉ nguyên quá độ lên
nền kinh tế tri thức, kỷ nguyên thông tin, triết lí giáo dục trong thế kỉ 21 cũng có những
thay đổi mạnh mẽ, hướng tới “một xã hội học tập”, “học thường xuyên, suốt đời” dựa
trên 4 trụ cột “học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để làm người”, giáo
dục không còn chủ yếu là đào tạo kiến thức và kĩ năng mà chủ yếu là rèn luyện năng lực
– năng lực nhận thức, năng lực hành động, năng lực giao tiếp và truyền thông, năng lực
quản lý và lãnh đạo. Bản tuyên ngôn toàn cầu về giáo dục đại học của Liên hợp quốc
khẳng định: Thế kỷ 21 “có một nhu cầu chưa từng thấy về sự đa dạng, phong phú trong
giáo dục đại học cũng như những nhận thức ngày càng cao về tầm quan trọng sống còn
của giáo dục đại học đối với sự phát triển kinh tế và văn hoá của xã hội”. Giáo dục nói
chung trong đó có giáo dục đại học và chuyên nghiệp của thế giới đang phát triển nhanh

chóng theo những xu hướng rõ rệt: đại chúng hoá, thị trường hoá, đa dạng hoá và quốc tế
hoá, cùng những quan niệm mới, yêu cầu mới về vấn đề có tính sống còn đối với bất kì
mô hình cải cách giáo dục nào – đó là chất lượng giáo dục. Vì thế, ngày nay, hơn bao giờ
hết, tất cả các quốc gia đang đứng trước những thách thức to lớn là lựa chọn các giải pháp
phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học, bậc học – nơi cung
cấp nguồn nhân lực đáp ứng những đổi thay to lớn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, giáo dục nói chung, giáo
dục đại học và chất lượng của nó nói riêng càng trở lên quan trọng hơn. Ở đây, giáo dục

13


đại học phải được xem là chìa khoá mở cửa vào tương lai, việc không quan tâm đến giáo
dục đại học và chất lượng của nó đồng nghĩa với việc tự tước bỏ một phương tiện cốt yếu
nhất để phát triển quốc gia. Chính vì vậy, các quốc gia đang hết sức quan tâm đến mục
tiêu, mô hình, qui mô, chất lượng của giáo dục đại học.
Những đổi mới trong giáo dục đại học được thể hiện ở những điểm sau:
a. Đổi mới tư duy về giáo dục
Trong nền kinh tế tri thức, người ta phân biệt 3 phạm trù: dữ liệu, thông tin, tri
thức.
+ Dữ liệu là những khối cơ bản trong kinh tế thông tin.
+ Thông tin là dữ liệu được sắp xếp thành mẫu hình có ý nghĩa.
+ Tri thức là áp dụng và sử dụng một cách có ích các thông tin.
Như vậy, tri thức phải trở thành kĩ năng, trí lực và suy rộng ra phải trở thành nhân
lực. Đó là hướng tổng quát nhất của nền giáo dục có thể phục vụ được cho nền kinh tế tri
thức. Và chỉ có phát triển theo hướng như vậy, giáo dục mới quyết định sức mạnh của
một quốc gia, sự thịnh vượng và tương lai tươi sáng của một dân tộc (6/2000) như lời của
Bộ trưởng giáo dục Mĩ, và mới có thể trở thành “của cải nội sinh” như trong báo cáo của
UNESCO.

Đi vào nền kinh tế tri thức, người ta nói đến yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ tư duy
nói chung, đổi mới tư duy về giáo dục nói riêng để tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội
về sự phát triển giáo dục trong bối cảnh mới.
b. Đổi mới trong nội dung và phương pháp giáo dục
Cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ trong những năm qua làm
tăng vọt khối lượng tri thức của nhân loại, giáo dục không thể thực hiện được chức năng
truyền thống của nó là truyền đạt lại khối kiến thức khổng lồ ấy. Do vậy, nội dung các
môn học trong tương lai không phải là liệt kê hết những kiến thức cần truyền đạt, mà chỉ
là những kiến thức cơ bản, nền tảng, chủ yếu rèn luyện cho người học kĩ năng tư duy, kĩ
năng ngôn ngữ, kĩ năng biểu đạt, kĩ năng khai thác và xử lý thông tin và áp dụng, sử dụng
có ích các thông tin đó và trên cơ sở đó, biến thông tin thành tri thức.

14


Nội dung giáo dục được đổi mới, tất yếu dẫn đến sự đổi mới phương pháp giáo
dục. Phương pháp dạy - học mới đòi hỏi thầy và trò cùng nhau khám phá kiến thức, tìm
tòi cái mới với sự hỗ trợ của các phương tiện giáo dục hiện đại, đặc biệt là của công nghệ
thông tin.
c. Giáo dục suốt đời và phổ cập công nghệ thông tin
Trong thời đại thông tin, lượng thông tin tăng và biến đổi cực kì nhanh chóng, do
vậy, việc quan điểm giáo dục suốt đời là quan điểm chủ đạo của nền giáo dục phục vụ sự
phát triển nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức đòi hỏi mỗi người phải luôn bổ sung tri
thức mới với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin. Để thực hiện nhiệm vụ này, yêu cầu về
phổ cập công nghệ thông tin và biết ngoại ngữ là điều cần thực hiện càng sớm càng tốt.
d. Học tập không tập trung, học tập từ xa
Sự phát triển của Internet sẽ giúp thoả mãn nhu cầu học tập thường xuyên, học tập
suốt đời, qua đó phát triển phương thức đào tạo phi truyền thống như đào tạo phi tập
trung, đào tạo từ xa.
2.1.2. Bối cảnh trong nước

Đại hội IX của Đảng xác định mục tiêu tổng quát trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội 2001-2010 là: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ
rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020,
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá”.
Đảng, Nhà nước ta coi phát triển giáo dục và khoa học công nghệ là “quốc sách
hàng đầu”, và giáo dục đại học được xem là “quốc sách kép” vì nó thực hiện đồng thời
hai nhiệm vụ “Đào tạo và nghiên cứu khoa học”.
Mục tiêu phát triển giáo dục đại học đến năm 2020 trong Đề án đổi mới giáo dục
đại học Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là: “đến năm 2020, giáo dục đại
học phải có bước tiến cơ bản về chất lượng và qui mô đáp ứng nhu cầu nhân lực cả về
chất lượng và số lượng cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và nâng cao tiềm năng trí
tuệ, tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, nâng một số trường đại học

15


lên đẳng cấp quốc tế, góp phần quan trọng vào việc nâng cao sức cạnh tranh của nguồn
nhân lực và nền kinh tế đất nước”.
Với mục đích đó, giáo dục đại học Việt Nam phải đảm bảo sứ mạng đào tạo nguồn
nhân lực có đầy đủ kiến thức, kĩ năng, năng lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội,
khoa học công nghệ, củng cố an ninh, quốc phòng.
Nghị Quyết của Chính phủ về “Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt
Nam giai đoạn 2006-2020” nêu rõ quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục đại học Việt Nam
là “Gắn kết chặt chẽ đổi mới giáo dục đại học với chiến lược phát triển kinh tế xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh, nhu cầu nhân lực chất lượng cao của đất nước và xu thế
phát triển của khoa học và công nghệ.
- Hiện đại hoá hệ thống giáo dục đại học trên cơ sở kế thừa những thành quả giáo
dục đào tạo của đất nước, phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại, nhanh
chóng tiếp cận xu thế phát triển giáo dục đại học tiên tiến trên thế giới.
- Đổi mới giáo dục đại học phải đảm bảo tính thực tiễn, hiệu quả và đồng bộ, lựa

chọn khâu đột phá, lĩnh vực ưu tiên và cơ sở trọng điểm để tập trung nguồn lực tạo bước
chuyển biến rõ rệt v.v.
- Trên cơ sở đổi mới tư duy và cơ chế quản lí giáo dục đại học, kết hợp hợp lí và
hiệu quả giữa việc phân định chức năng, nhiệm vụ quản lí nhà nước và việc đảm bảo
quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm xã hội, tính minh bạch của các cơ sở giáo dục đại
học v.v.
- Đổi mới giáo dục đại học là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
và sự quản lí của Nhà nước v.v.
Đổi mới giáo dục đại học phải đạt mục tiêu “Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục
đại học, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả và qui mô, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân
dân. Đến năm 2020, giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và
tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới, có năng lực cạnh tranh cao, thích ứng với cơ chế
thị trường định hướng XHCN” (Trích Nghị Quyết 14 của Chính Phủ).

16


Trong số nhiều nhiệm vụ và giải pháp đổi mới giáo dục đại học, có giải pháp đổi
mới nội dung, phương pháp và qui trình đào tạo. Nghị quyết chỉ rõ phải
“- Cơ cấu lại khung chương trình; bảo đảm sự liên thông của các cấp học, giải
quyết tốt mối quan hệ về khối lượng kiến thức và thời lượng học tập giữa các môn giáo
dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp, nâng cao hiệu quả đào tạo từng môn học v.v.
- Triển khai đổi mới phương pháp đào tạo theo 3 tiêu chí: trang bị cách học, phát
huy tính chủ động của người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong hoạt
động dạy và học; khai thác các nguồn tư liệu giáo dục mở và nguồn tư liệu trên internet;
lựa chọn, sử dụng các chương trình, giáo trình tiên tiến của các nước v.v.”
Việc Việt Nam gia nhập WTO cũng tạo cho giáo dục đại học Việt Nam những cơ
hội và thách thức mới.
Những cơ hội có thể là:

a. Được tiếp cận với các nền giáo dục đại học tiên tiến, có khả năng học hỏi, tiếp
thu những yếu tố tiên tiến phù hợp với truyền thống của giáo dục đại học Việt Nam, làm
cơ sở cho sự nghiệp đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, hội nhập với giáo dục đại học
thế giới.
b. Mặc dù chúng ta chủ động đổi mới giáo dục đại học, nhưng việc Việt Nam gia
nhập WTO cũng thúc đẩy tiến trình đổi mới giáo dục đại học nhanh hơn, đồng bộ hơn và
hiệu quả hơn.
Còn những thách thức cũng rất to lớn
a. Cạnh tranh trong lĩnh vực giáo dục đại học sẽ gay gắt hơn, với nhiều đối thủ
hơn, và ngay trên đất Việt Nam.
b. Trong bối cảnh đó, giáo dục đại học Việt Nam vẫn phải gìn giữ bản sắc dân tộc,
định hướng xã hội chủ nghĩa trong đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNHHĐH đất nước.
Trong bối cảnh mới của quốc tế và trong nước, với những đổi thay to lớn trong
đời sống kinh tế xã hội, hơn bao giờ hết, chất lượng của giáo dục và đào tạo trở thành
vấn đề sống còn, quyết định sự thành bại của cả một quốc gia trong điều kiện hội nhập

17


với kinh tế thế giới. Yếu tố quyết định chất lượng của giáo dục đại học là chương trình
giáo dục – chương trình một khoá học, chương trình một môn học.
Những người quản lí giáo dục đại học, những nhà thiết kế chương trình giáo dục,
giảng viên, sinh viên sẽ là những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này.
2.2. Những căn cứ của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
2.2.1. Căn cứ pháp lý
Giáo dục phổ thông nước ta đang chuyển từ chương trình định hướng nội dung
sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh được
cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm được cái gì và làm như thế nào qua việc học. Để đạt
được mục đích này, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy
học nặng về truyền thụ kiến thức sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện

kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Đồng thời, phải chuyển cách đánh giá kết
quả giáo dục từu nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến
thwusc giải quyết vấn đề, chú trọng kiểm tra, đánh giá năng lực trong quá trình dạy học
để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của acsc hoạt động dạy học và giáo
dục. Việc chuyển từ dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng nội dung sang định
hướng phát triển năng lực là một hướng đi phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng
và Nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Các căn cứ pháp lý :
- Báo cáo chính trị ĐH Đảng toàn quốc lần thứ XI.
- Nghị quyết số 29 – NQ/TW ngày 04/11/2013 của BCHTW về đổi mới căn bản
toàn diện giáo dục và đào tạo.
- Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 ban hành kèm theo QĐ số
711/QĐ – Ttg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
- NQ số 44/NQCP ngày 09/6/2014 ban hành Chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện NQ số 29 – NQ/TW ngày 04/11/2013.
2.2.2. Căn cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới chương trình giáo dục
dục PT
- Do yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội đối với việc đào tạo nguồn nhân lực
trong giai đoạn mới.

18


- Do sự phát triển nhanh, mạnh với tốc độ mang tính bùng nổ của khoa học công
nghệ.
- Do có những thay đổi trong đối tượng giáo dục.
- Cần phải hòa nhập với xu thế đổi mới tiến bộ trên thế giới trong lĩnh vực chương
trình, sách giáo khoa, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay
2.3. Nguyên tắc đổi mới chương trình giáo dục, SGK phổ thông Việt Nam
2.3.1. Quán triệt mục tiêu giáo dục

Chương trình và SGK của giáo dục phổ thông phải là sự thể hiện cụ thể của mục
tiêu giáo dục được quy định trong Luật Giáo dục với những phẩm chất và năng lực được
hình thành và phát triển trên nền tảng kiến thức kỹ năng chắc chắn với mức độ phù hợp
với đối tượng ở từng cấp học, bậc học. Làm được như vậy thì chương trình và sgk mới
đóng góp một cách có hiệu quả vào quá trình chuẩn bị nguồn nhân lực của đất nước trong
những thập kỷ đầu thế kỷ XXI. Với yêu cầu xây dựng mục tiêu đã nêu, chương trình và
SGK phải quan tâm đúng mức đến dạy chữ và dạy người, định hướng nghề nghiệp cho
người học trong hoàn cảnh mới của xã hội Việt Nam hiện đại.
2.3.2. Đảm bảo tính khoa học và sư phạm
Chương trình và SGK giáo dục PT phải là công trình KH sư phạm trong đó phải
lựa chọn được các nội dung cơ bản, phổ thông, cập nhật với những tiến bộ của khoa học
công nghệ, của kinh tế xã hội, gần gũi với đời sống và phù hợp với trình độ nhận thức của
học sinh trong từng giai đoạn học tập, gắn bó với thực tế phát triển của đát nước, tích hợp
được nhiều mặt giáo dục trong từng đơn vị nội dung, nâng cao chất lượng hoạt động thực
hành, vận dụng theo năng lực từng đối tượng học sinh. Chương trình mới sẽ tích hợp nội
dung để tiến đến giảm số môn học, đặc biệt ở các cấp học dưới, tinh giản nội dung và
tăng cường mối liên hệ giữa các nội dung, chuyển một số nội dung thành hoạt động giáo
dục để góp phần giảm nhẹ gánh nặng học tập ở các cấp học mà không làm giảm trình độ
của chương trình.
2.3.3. Thể hiện tinh thần đổi mới phương pháp dạy học
Một trong những trọng tâm của việc đổi mới chương trình và SGK giáo dục PT là
tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích
cực, chủ động của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn đúng mực của giáo viên nhằm

19


phát triển tư duy độc lập, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học,
bòi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và niềm vui trong học tập. Tiếp tục tận dụng các
ưu điểm của phương pháp truyền thống và dần dần làm quen với những phương pháp dạy

học mới.
Đổi mới phương pháp dạy học luôn luôn được đặt trong mối quan hệ với mục
tiêu, nội dung dạy học, đổi mới cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học; đổi mới các hình
thức tổ chức giáo dục để phù hợp giữa dạy học cá nhân và các nhóm nhỏ hoặc cả lớp,
giữa dạy học ở trong phòng học và ngoài hiện trường; đổi mới môi trường giáo dục để
học tập gắn với thực hành và vận dụng; đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh
qua đổi mới nội dung, hình thức kiểm tra, xây dựng các bộ công cụ đánh giá, phối hợp
kiểu đánh giá truyền thống với trắc nghiệm khách quan đảm bảo đánh giá khách quan,
trung thực mức độ đạt được mục tiêu giáo dục của từng học sinh.
2.3.4. Đảm bảo tính thống nhất
Chương trình giáo dục phổ thông phải đảm bảo tính chỉnh thể qua việc xác định
mục tiêu, nội dung, định hướng phương pháp … từ bậc tiểu học qua THCS đến THPT.
Chương trình và SGK phải áp dụng thống nhất trong cả nước, đảm bảo sự bình đẳng thực
sự trong giáo dục, đặc biệt ở giai đoạn học tập cơ bản của các cấp, bậc học phổ cập giáo
dục. Tính thống nhất của chương trình và SGK thể hiện ở các điểm sau :
- Mục tiêu giáo dục.
- Quan điểm khoa học và sư phạm xuyên suốt các môn học, các cấp bậc học.
- Trình độ chuẩn của chương trình trong dạy học và kiểm tra, đánh giá.
2.3.5. Đáp ứng yêu cầu phát triển của từng đối tượng học sinh
Chương trình và SGK tạo cơ sở quan trọng để :
- Phát triển trình độ giáo dục cơ bản của nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đủ khả năng hợp tác, cạnh tranh quốc tế.
- Phát triển năng lực của mỗi cá nhân, góp phần phát hiện và bồi dưỡng các tài
năng tương lai của đất nước bằng phương thức dạy học cá nhân hóa, thực hiện dạy học
các nội dung tự chọn không bắt buộc ngay từ tiểu học và phân hóa theo năng lực, sở
trường ngày càng đậm nét qua các hình thức dạy học thích hợp.

20



Chương trình và SGK phải giúp cho mỗi học sinh với sự cố gắng đúng mức của
mình để có thể đạt được kết quả trong học tập, phát triển năng lực và sở trường của bản
thân.
2.3.6. Quán triệt quan điểm đổi mới trong biên soạn chương trình và SGK
Chương trình không chỉ nêu nội dung và thời lượng dạy học mà thực sự là một kế
hoạch hành động sư phạm, kết nối mục tiêu giáo dục với các lĩnh vực nội dung và
phương pháp giáo dục, phương tiện dạy học và cách thức đánh giá kết quả học tập của
học sinh, đảm bảo sự phát triển liên tục giữa các cấp học, bậc học, đảm bảo tính liên
thông giữa giáo dục phổ thông với giáo dục chuyên nghiệp.
Sách giáo khoa không đơn giản là tài liệu thông báo các kiến thức có sẵn mà là tài
liệu giúp học sinh tự học, tự phát hiện và giải quyết các vấn đề để chiếm lĩnh và vận dụng
kiến thwusc mới một cách linh hoạt, chủ động và sáng tạo.
Chương trình và SGK được thể chế hóa theo Luật Giáo dục và được quản lý, chỉ
đạo đánh giá theo yêu cầu cụ thể của giai đoạn phát triển mới của đất nước, cố gắng giữ
vững ổn định để góp phần không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, thực
hiện quán triệt tiết kiệm trong sản xuất và sử dụng sách ở các cấp học.
2.3.7. Đảm bảo tính khả thi

Chương trình và SGK không đòi hỏi những điều kiện vượt quá sự cố gắng
và khả năng của số đông GV, HS, gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, tính khả thi
của chương trình và SGK phải đặt trong mối tương quan giữa trình độ giáo dục cơ
bản của Việt Nam và các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, giữa giai
đoạn trước mắt và khoảng thời gian từ 10 đến 15 năm tới.

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP CHƯƠNG 2
1. Tại sao cần phải đổi mới chương trình giáo dục phổ thông ?
2. Phân tích những căn cứ của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
3. Đổi mới chương trình giáo dục, sách giáo khoa phổ thông Việt Nam thwujc hiện theo
những nguyên tắc nào ? Phân tích những nguyên tắc đó.


21


Chương 3. CHƯƠNG TRÌNH VÀ SGK NGỮ VĂN THPT
3.1. Tổng quan về chương trình Ngữ văn THPT hiện hành
3.1.1. Quan điểm xây dựng chương trình
- Xuất phát từ mục tiêu đào tạo của cấp học.
- Đảm bảo tính hệ thống, chỉnh thể và yêu cầu kế thừa trong việc hoàn thiện, phát
triển nội dung học vấn phổ thông.
- Tiếp tục đảm bảo yêu cầu cơ bản, hiện đại, bám sát với thực tiễn Việt Nam.
- Xây dựng chương trình dựa trên nền tảng lý luận và thực tiễn, cập nhật thành tựu
của khoa học hiện đại.
- Lấy các kỹ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết) làm trục chính xuyên suốt cả ba
cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực và đảm bảo
tính chỉnh thể, sự nhất quán, liên tục trong tất cả các cấp/lớp.
- Xây dựng theo hướng mở, không quy định chi tiết về nội dung dạy học và các
văn bản cụ thể mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về nghe, nói, đọc, viết cho mỗi
lớp, quy định một số kiến thức cơ bản cốt lõi về VH, TV và một số văn bản quan trọng
của văn học dân tộc là nội dung thống nhất, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc.
- Vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, vừa chú trọng kế thừa và phát huy những ưu điểm
của các chương trình Ngữ văn đã có, đặc biệt là chương trình hiện hành.
3.1.2. Mục tiêu môn học
3.1.2.1. Cơ sở lý luận của việc xây dựng mục tiêu giáo dục môn Ngữ văn ở THPT
- Vai trò quyết định sự tiến bộ xã hội của giáo dục thế kỷ XXI đối với mục đích và
mục tiêu giáo dục phổ thông.
- Nhiệm vụ của giáo dục phổ thông hiện nay :
+ Giáo dục phải xây dựng nội dung mới, trong đó phải cân nhắc lựa chọn các môn
học cơ bản và những môn học đặc trưng cho thế kỷ XXI.
+ Phương pháp giáo dục mới và kỹ năng dạy học hiện đại theo hướng công nghệ
thông tin sẽ được vận dụng ngày càng có hiệu quả.

3.1.2.2. Mục tiêu môn học

22


- Qua những văn bản ngôn từ, đặc biệt là các văn bản văn học đặc sắc, môn Ngữ
văn tạo cho học sinh cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con
người, biết đồng cảm, sẻ chia, có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm
sống và ứng xử nhân văn; bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối với Tiếng Việt và văn học,
ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn
hóa Việt Nam.
- Ngoài việc đóng góp phát triển các năng lực chung, chương trình Ngữ văn tập
trung giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp và năng lực thẩm mỹ, cung cấp hệ thống
kiến thức phổ thông nền tảng về văn học và tiếng Việt để góp phần phát triển vốn học
vấn căn bản của một người có văn hóa, hình thành và phát triển con người nhân văn, biết
tiếp nhận, cảm thụ, thưởng thức, đánh giá các sản phẩm ngôn từ và các giá trị cao đẹp
trong đời sống.
3.1.3. Nội dung chương trình và chuẩn kiến thức
3.1.3.1. Về sự thống nhất và khác biệt giữa chương trình nâng cao và chương trình
chuẩn
- Về thời lượng : tổng số tiết của chương trình chuẩn là 332,5 tiết, chương trình
nâng cao là 420 tiết – nhiều hơn chương trình chuẩn khoảng trên 20%.
- Về mục tiêu: ngoài mục tiêu chung, cơ bản giống như mục tiêu của chương trình
chuẩn môn Ngữ văn THPT, chương trình Ngữ văn nâng cao có bổ sung thêm những mục
tiêu được quy định trong chương trình như sau: “chương trình nâng cao còn nhằm đáp
ứng nhu cầu nâng cao hiểu biết, phát huy khả năng tìm tòi, sáng tạo về ngôn ngữ và văn
học của những học sinh có thiên hướng về Ngữ văn, qua đó góp phần phát hiện bồi
dưỡng học sinh có năng khiếu, tạo nguồn cho các ngành khoa học xã hội và nhân văn.
- Về nguyên tắc, chương trình nâng cao được xây dựng theo các quy định: thống
nhất với chương trình chuẩn và nâng cao so với chương trình chuẩn.

3.1.3.2. Những điểm lưu ý về nội dung và phương pháp của chương trình Ngữ văn
THPT
- Về vị trí bộ môn: ngoài tính chất của bộ môn KHXH và nhân văn, bộ môn thuộc
lĩnh vực giáo dục thẩm mỹ, chương trình lần này nêu một vấn đề mới. Đó là bộ môn có
tính chất công cụ.

23


- Do tính công cụ nên môn Ngữ văn THCS và THPT đã có sự điều chỉnh nội hàm
khái niệm văn trong nhà trường.
- Do tính công cụ của chương trình cho nên việc dạy học Ngữ văn quy tụ vào hai
trục chính: dạy học đọc văn và dạy học Làm văn, hướng tới đào tạo hai năng lực Ngữ văn
cơ bản.
- Do lấy việc dạy đọc hiểu làm nội dung dạy học văn cho nên chương trình sẽ gọi
các tác phẩm hay đoạn trích văn học là văn bản.
- Lấy đọc hiểu văn bản làm nội dung dạy và học trong nhà trường thì nội dung văn
học sử chưa thể trở thành nội dung tự thân mà chỉ là một trường nghĩa, một ngữ cảnh để
học sinh thực hành đọc hiểu văn bản văn học.
- Tiếng Việt, về cơ bản đã học đầy đủ ở THCS, lên THPT, học sinh chỉ còn học về
các phong cách ngôn ngữ để hỗ trợ cho việc làm văn và học một số kiến thức về tiếng
Việt như lịch sử tiếng Việt, loại hình tiếng Việt, ngoài ra phần thời lượng còn lại dùng
vào các bài tập sử dụng tiếng Việt.
- Phần Làm văn trong chương trình Ngữ văn THPT vẫn còn tiếp tục ôn lại các
kiểu văn bản tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận và hành chính công vụ
cùng một số văn bản ứng dụng thông dụng khác.
- Chương trình Ngữ văn được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp.
- Chương trình có chuẩn kiến thức, kỹ năng.
- Đổi mới phương pháp dạy học văn và kiểm tra, đánh giá theo hướng tích cực hóa
hoạt động học tập của học sinh, lấy sự trưởng thành của học sinh về kiến thức, năng lực,

tình cảm, đạo đức làm mục đích.
3.1.3.3. Chuẩn kiến thức và kỹ năng
Chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình môn học là các yêu cầu cơ bản, tối
thiểu về kiến thức, kỹ năng của môn học mà học sinh cần phải và có thể đạt được sau mỗi
đơn vị kiến thức.
Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành đưa chuẩn kiến thức, kỹ năng vào
thành phần của chương trình giáo dục phổ thông. Các mục tiêu, yêu cầu cần đạt trong
chương trình môn Ngữ văn hiện hành mới chỉ là những yêu cầu chung quy định cho
người dạy và người học phải đạt được theo từng nhóm chủ đề. Điều này dẫn đến những

24


khó khăn trong thực tế dạy học và chỉ đạo dạy học. Từ chương trình môn Ngữ văn, đồng
thời bám sát các bài học trong sách giáo khoa, tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến
thức, kỹ năng môn Ngữ văn ra đời. Tài liệu này vừa thống nhất vừa bổ sung cho hai tài
liệu trước đó. Một mặt nó cụ thể hóa các mục tiêu, yêu cầu đã được nêu trong chương
trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, mặt khác nó là sự khái quát nội dung của các bài
học trong sách giáo khoa, là những yêu cầu tối thiểu về kiến thức và kỹ năng mà học sinh
cần phải đạt được sau mỗi bài học.
Sử dụng chuẩn kiến và kỹ năng để: xác định mục tiêu tiết dạy và lựa chọn kiến
thức dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng .
3.2. Nhận xét về chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn THPT
3.2.1. Nhận xét về chương trình môn Ngữ văn
3.2.1.1. Ưu điểm của chương trình
- Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển chương trình giáo dục, nước ta đã xây dựng
đưuọc một bộ chương trình Ngữ văn xuyên suốt 3 cấp; có cấu trúc nội dung khá đầy đủ,
tiếp cận được với quan điểm phát triển chương trình của quốc tế...
- Chương trình được tổ chức biên soạn theo nguyên tắc tích hợp.
- Chương trình đã phần nào kahswc phục được sự kinh viện, hàn lâm trong thiết

kế nội dung kiến thwusc môn học; chú ý nhiều đến việc hình thành và phát triển các kỹ
năng, gắn bó hơn với các tình huống và thực tế cuộc sống, học thêm loại văn bản nhật
dụng.
- Chương trình đã có nhiều thay đổi trong việc mở rộng khái niệm văn bản, văn
bản văn học và đọc hiểu văn bản.
- Quan niệm về cấu trúc chương trình cũng có thay đổi, thấy được mối quan hệ
chặt chẽ giữa các thành tố của chương trình như mục tiêu, nội dung, phương pháp,
phương tiện và kiểm tra đánh giá.
- Nhiều vấn đề mang tính quan niệm trong dạy học văn đã thay đổi.
- Lần đầu tiên, chương trình ngoài nội dung cụ thể cho mỗi lớp còn có phần chuẩn
kiến thức, kỹ năng cần đạt cho mỗi chủ đề trong đó nêu rõ mức độ cần đạt và những ghi
chú cần thiết cho mỗi mức độ cần đạt.
3.2.1.2. Hạn chế của chương trình

25


×