Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư và khuyến khích đầu tư trong nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.56 KB, 22 trang )

Một số vấn đề lý luận chung về đầu t và khuyến khích
đầu t trong nớc
1. Đầu t và các hình thức đầu t
Trong nền kinh tế thị trờng, để tiến hành hoạt động kinh doanh thì điều kiện
không thể thiếu là phải có tiền. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh , dịch vụ
mới hình thành, tiền đợc dùng để xây dựng nhà xởng, mua sắm trang thiết bị...
nhằm tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu, mua sắm nguyên vật liệu, trả l-
ơng cho ngời lao động, tiền đợc dùng để mua sắm thêm các máy móc thiết bị, xây
dựng thêm nhà xởng, tăng thêm vốn lu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động
hiện có, sửa chữa hoặc mua sắm các tài sản cố định (TSCĐ) mới thay thế các
TSCĐ đã bị h hỏng, bị hao mòn hữu hình (do quá trình sử dụng và do các tác động
của khí hậu, thời tiết) và hao mòn vô hình (do tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm
cho nhiều TSCĐ nhanh chóng trở nên lạc hậu, không còn thích hợp với điều kiện
mới, tiếp tục sử dụng sẽ không có hiệu quả).
Số tiền cần thiết để tiến hành các hoạt động nh trên gọi là tiền đầu t. Và hành
vi của các chủ thể trong việc bỏ tiền ra, tổ chức sử dụng chúng theo những chuẩn
mực nhất định nhằm mu cầu những lợi ích cụ thể đợc gọi là hoạt động đầu t. Cũng
có thể nói, hoạt động đầu t là quá trình sử dụng các nguồn lực nhằm duy trì tiềm
lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và sinh
hoạt đời sống , các nguồn lực phục vụ cho hoạt động đầu t đối với các trờng hợp
cá biệt có thể nhiều ít khác nhau, nhng nhìn tổng thể, quy mô của các nguồn lực,
trong đó có nguồn lực bằng tiền, là rất lớn. Do đó để đảm bảo cho các hoạt động
đầu t diễn ra bình thờng thì không thể dùng nguồn tiền trích ra cùng một lúc từ
các khoản chi tiêu thờng xuyên của các chủ thể kinh doanh của xã hội, của Chính
phủ vì điều này sẽ làm xáo động các hoạt động kinh tế bình thờng và sinh hoạt xã
hội. Nguồn tiền sử dụng cho các hoạt động đầu t đòi hỏi phải đợc tích luỹ từ nhiều
nguồn khác nhau và chỉ có thể là tiền tích luỹ của xã hội, của các chủ thể kinh
doanh, của phần chi cho đầu t phát triển thuộc ngân sách Chính phủ, là tiền tiết
kiệm của dân và tiền huy động từ nớc ngoài.
Quá trình sử dụng tiền đầu t, xét về mặt bản chất, là quá trình thực hiện sự
chuyển hoá vốn bằng tiền (vốn đầu t) thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố


cơ bản của quá trình tái sản xuất. Đó cũng chính là quá trình hoạt động đầu t hay
quá trình đầu t vốn.
Đầu t trong nớc, theo cách diễn đạt của Luật Khuyến khích đầu t trong nớc
năm 1994 là việc bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam của các tổ chức,
công dân Việt Nam, ngời Việt Nam định c ở nớc ngoài, ngời nớc ngoài c trú lâu
dài ở Việt Nam (Điều 2 - Luật Khuyến khích đầu t trong nớc năm 1994). Luật
Khuyến khích đầu t trong nớc (sửa đổi) số 03/1998/QH10 cũng có quan niệm về
đầu t trong nớc tơng tự.
Đầu t trực tiếp nớc ngoài, Luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam năm 1996, diễn
đạt nh sau: "là việc nhà đầu t nớc ngoài đa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bằng
bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu t theo quy định của luật này".
Đối tợng của luật đầu t nớc ngoài là tổ chức kinh tế, cá nhân nớc ngoài đầu t vào
Việt Nam. Đối tợng của Luật Khuyến khích đầu t trong nớc gồm: tổ chức, công
dân Việt Nam, ngời Việt Nam định c ở nớc ngoài, ngời nớc ngoài c trú lâu dài
(hay còn gọi là thờng trú) tại Việt Nam. Các đối tợng tham gia hoạt động đầu t có
yếu tố nớc ngoài thì có thể lựa chọn một trong hai Luật.
Tuỳ theo góc độ đề cập, hoạt động đầu t trong nớc có thể đợc phân theo các
tiêu thức sau:
- Theo tính chất của các đối tợng đầu t, hoạt động đầu t gồm:
+ Đầu t cho đối tợng vật chất: nhà xởng, máy móc thiết bị, công trình hạ
tầng... là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế.
+ Đầu t cho đối tợng tài chính: mua cổ phần, cổ phiếu... là điều kiện quan
trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân c cho đầu t vào các đối tợng
vật chất.
+ Đầu t cho đối tợng phi vật chất: tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực,. .. là điều
kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu t các đối tợng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt
hiệu quả kinh tế xã hội cao.
- Theo cơ cấu tái sản xuất: hoạt động đầu t gồm:
+ Đầu t theo chiều rộng: là quá trình tăng quy mô đầu t của các chủ thể kinh
doanh. Quá trình đợc xem xét ở hai góc độ: trên phạm vi nền kinh tế, đó là việc

thành lập doanh nghiệp mới; ở góc độ doanh nghiệp, đó là việc triển khai dự án
đầu t mới hoặc mở rộng quy mô của các dự án hiện có. Xét trên tổng thể, cách thứ
nhất đòi hỏi vốn lớn, thời gian thực hiện đầu t dài, vốn khê đọng lâu, thời gian cần
hoạt động để thu hồi đủ vốn phải lớn, tính chất kỹ thuật phức tạp và độ thoả hiệp
cao.
+ Đầu t theo chiều sâu: là hoạt động làm tăng nguồn lực đầu t gắn với việc
làm tăng khả năng sinh lợi của các dự án đầu t, của các doanh nghiệp. So với cách
thứ nhất, cách thức này thờng thu hút khối lợng vốn đầu t ít hơn, thời gian thực
hiện đầu t nhanh hơn, độ mạo hiểm thấp và khả năng thu hồi vốn nhanh chóng.
- Theo quan hệ quản lý của chủ đầu t: hoạt động đầu t có thể phân thành:
+ Đầu t gián tiếp: trong đó ngời bỏ vốn không nhất thiết tham gia trực tiếp
điều hành, quản lý quá trình thực hiện và vận hành các yếu tố đầu t. Một loại chủ
thể thực hiện hình thức này có thể là các Chính phủ, thông qua các chơng trình tài
trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp của mình, cung ứng tiền hoặc
nguồn lực khác cho Chính phủ của các nớc khác để các nớc đó phát triển kinh tế
xã hội, điều chỉnh cơ cấu. Một loại chủ thể khác, giữ vai trò đặc biệt quan trọng,
có khi là then chốt, là các cá nhân, tổ chức mua các loại chứng chỉ có giá trị nh cổ
phiếu, trái phiếu để hởng lợi tức (còn gọi là đầu t tài chính).
+ Đầu t trực tiếp: ở đây ngời bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý hoặc điều
hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu t. Đầu t trực tiếp lại đợc
phân thành: đầu t chuyển dịch và đầu t phát triển.
++ Đầu t chuyển dịch là loại đầu t trong đó, ngời có tiền mua lại một số cổ
phiếu đủ lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong trờng hợp
này, việc đầu t không làm gia tăng tài sản của doanh nghiệp, mà chỉ làm thay đổi
quyền sở hữu các cổ phần của doanh nghiệp.
++ Đầu t phát triển là loại bỏ vốn đầu t để tạo nên những năng lực sản xuất
phục vụ mới (cả về chất và lợng). Đây là loại đầu t để tái sản xuất mở rộng, là
biện pháp chủ yếu để tạo việc làm cho ngời lao động, là tiền đề để thực hiện đầu t
tài chính và đầu t chuyển dịch.
- Căn cứ vào thời gian thực hiện và thời gian phát huy tác dụng, hoạt động

đầu t có thể phân chia thành:
+ Đầu t thơng mại: là hoạt động đầu t là thời gian thực hiện đầu t và hoạt
động của các kết quả đầu t để thu hồi đủ vốn đầu t ngắn hạn, vốn vận động nhanh,
mức độ mạo hiểm thấp do trong một thời gian ngắn, tính bất động không cao, lại
dễ dự đoán và độ chính xác của dự đoán khá cao.
+ Đầu t sản xuất: Là loại đầu t dài hạn, vốn đầu t lớn, thu hồi chậm, thời gian
thực hiện đầu t lâu, độ mạo hiểm cao, vì tính chất kỹ thuật của hoạt động đầu t
phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tơng lai không dự
đoán trớc đợc hoặc chất lợng dự đoán khó chính xác (về nhu cầu, giá cả đầu vào,
cơ chế, chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, thiên tai, sự ổn định về
chính trị...). Loại đầu t này phải đợc chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự đoán những gì
có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu t trong tơng lai xa, xem
xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn
và có lãi suất khi hoạt động đầu t kết thúc, khi các kết quả đầu t đã hoạt động đến
hết vòng đời của mình.
- Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu t: các hoạt động đầu t đợc
phân thành:
+ Đầu t cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định
+ Đầu t vận hành nhằm tạo ra các tài sản lu động cho các cơ sở sản xuất kinh
doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lu động cho các cơ sở hiện có,
duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật không thuộc các doanh nghiệp.
Trong hai loại đầu t đó thì đầu t cơ bản quyết định đầu t vận hành. Đầu t vận
hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu t cơ bản phát huy tác dụng. Không có
đầu t vận hành thì các kết quả của đầu t cơ bản không hoạt động đợc, ngợc lại,
không có đầu t cơ bản thì đầu t vận hành chẳng để làm gì. Đầu t cơ bản có đặc
điểm kỹ thuật phức tạp, đòi hỏi vốn lớn, thời hạn thu hồi dài. Còn đầu t vận hành
chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu t, đặc điểm kỹ thuật của quá trình thực
hiện đầu t không đến nỗi phức tạp so với đầu t cơ bản và thời gian thu hồi vốn t-
ơng đối nhanh.
Để đảm bảo tốc độ tăng trởng của nền kinh tế ở mức cần thiết, Việt Nam cần

một lợng vốn đầu t khá lớn (thời kỳ kế hoạch 5 năm 1996-2000 vào khoảng từ 40-
42 tỷ USD), trong đó hơn một nửa là đầu t trong nớc. Nguồn vốn bên ngoài là
không thể thiếu và có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong thời kỳ đầu tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, khi nhu cầu đầu t rất lớn mà nguồn tích luỹ
nội địa cha đủ đáp ứng. Trớc năm 1987, trong tổng vốn huy động cho đầu t, nguồn
vốn huy động từ ngân sách Nhà nớc chiếm vị trí chủ yếu. Từ 1988 đến nay, với
chính sách mở cửa, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nền kinh tế nớc
ta đang từng bớc hoà nhập với khu vực và trên thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi
để chúng ta mở rộng dần diện huy động vốn trong nớc, đồng thời thu hút thêm các
nguồn vốn đầu t từ bên ngoài. Cho đến nay, nguồn vốn cho đầu t ở nớc ta khá
phong phú hơn trớc và chủ yếu đợc huy động từ các nguồn chính:
* Vốn huy động trong nớc:
- Vốn ngân sách tập trung: đây là nguồn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với các hoạt động đầu t trong nớc. Nguồn này hiện nay chủ yếu đợc tập trung cho
đầu t xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, đầu t phát triển một số công trình
công nghiệp then chốt, bảo đảm giữ các cao điểm trong nền kinh tế quốc dân, các
công trình liên quan đến An ninh - Quốc phòng.
- Vốn của các doanh nghiệp Nhà nớc: nguồn vốn này luôn có vai trò quan
trọng rất lớn và có tác dụng trực tiếp nhất đối với tốc độ tăng trởng hàng năm tổng
sản phẩm trong nớc. Đây chính là nguồn vốn mà các chính sách kinh tế vĩ mô
xem là một đối tợng hàng đầu tác động vào nền kinh tế, có vai trò rất lớn trực tiếp
tác động tới tốc độ tăng trởng bình quân trong các năm sắp tới.
- Vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: nguồn này chủ yếu dùng vào
các định hớng đầu t phát triển chiều sâu, đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản
phẩm và mở rộng quy mô doanh nghiệp hiện đang hoạt động cũng nh mở rộng
thêm doanh nghiệp mới do thị trờng trong và ngoài nớc mở rộng thêm và do xuất
hiện nhu cầu mới hoặc do yêu cầu phân tán rủi ro, tăng thêm khả năng cạnh tranh.
- Vốn tiết kiệm trong dân c: có thể nói đây là nguồn vốn khá lớn, có khả
năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động đầu t trong tơng lai nhng cha đợc tổ
chức khai thác huy động tốt. Nhiều kết quả tính toán cho thấy, nếu khoảng 40-

45% số vốn trong dân c đầu t vào sản xuất và dịch vụ thì cũng là một yếu tố đáng
kể làm lên tốc độ phát triển GDP hàng năm đáng kể của các ngành công nghiệp,
nông nghiệp và dịch vu. Nếu chúng ta có chính sách huy động thoả đáng số vốn
tiết kiệm trong dân thì sẽ có khả năng tăng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ trọng
trong tổng số các nguồn đầu t trong nớc. Nguồn vốn tiết kiệm trong dân c có thể
coi là nền tảng của các hoạt động đầu t xét về lâu dài, là cơ sở của việc hình thành
ba tầng hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế nớc ta: tầng hoạt động kinh doanh
không phải đăng ký kinh doanh; tầng hộ kinh doanh cá thể; tầng kinh doanh của
các doanh nghiệp.
* Vốn huy động từ nớc ngoài:
- Vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA): đây là nguồn vốn do các nớc và
các tổ chức quốc tế viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay u đãi (lãi suất, thời hạn
vay...). Nguồn vốn này đợc tập trung vào ngân sách và có thể sử dụng trực tiếp để
Nhà nớc đầu t hoặc cho vay lại (nhng phải bảo đảm nguyên tắc hoàn trả).
- Vốn của các tổ chức phi chính phủ (NGO). Nguồn vốn này chủ yếu dùng
vào mục đích nhân đạo, nhng cần có cơ chế thu hút thích hợp và sử dụng, có hiệu
quả hơn, đặc biệt trong việc cải thiện và phát triển các vấn đề xã hội.
- Vốn đầu t trực tiếp (FDI) của t nhân nớc ngoài: đây là nguồn vốn khá lớn
và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một mặt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ và tìm thị trờng tiêu thụ
hàng hoá ổn định trong điều kiện Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm kinh doanh
trên trờng quốc tế. Mặt khác vốn FDI gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển
vốn của bên nớc ngoài đỡ đợc gánh nặng nợ nần của Chính phủ.
- Vốn của Kiều dân Việt Nam làm ăn, sinh sống ở nớc ngoài: Ngời Việt Nam
định c ở nớc ngoài nói chung không có nhiều vốn nh Kiều dân của một số nớc
khác nh Trung Quốc, ... nhng không phải là không có. Do đó một mặt phải xây
dựng đợc chính sách thích hợp để thu hút đầu t của họ; mặt khác cần phát huy
tiềm năng của Việt kiều làm cầu nối để thu hút vốn của các quốc gia nơi họ sinh
sống đầu t vào Việt Nam.
Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, nếu không huy động tốt và đủ các nguồn

vốn đầu t trong nớc thì rất khó có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả những
nguồn đầu t lớn từ bên ngoài nhằm phục vụ định hớng phát triển đất nớc. Chính vì
vậy trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế theo đờng lối đổi mới của
Đảng và Nhà nớc ta hiện nay, chiến lợc lâu dài của nớc ta là tăng nhanh tiết kiệm
nội địa, huy động tối đa nguồn vốn trong nớc, nâng dần tỷ trọng vốn trong nớc
trong tổng nguồn vốn đầu t toàn xã hội.
2 - Khuyến khích đầu t trong nớc
2.1. Nhận thức
Khuyến khích đầu t trong nớc là việc sử dụng các cơ chế, chính sách, biện
pháp, nhằm kích thích quá trình đầu t các nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực, địa
bàn trên cơ sở chiến lợc, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng
thời kỳ của đất nớc.
Để khuyến khích các hoạt động đầu t trong nớc, Nhà nớc phải xây dựng,
hoàn thiện một hệ thống các công cụ pháp lý và các biện pháp kinh tế, xã hội
nhằm bảo hộ, bảo đảm đối xử bình đẳng với tất cả các chủ thể tham gia hoạt động
đầu t, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu t, quy định thủ
tục hành chính, đơn giản tiện lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu t vào các lĩnh vực
kinh tế, văn hoá, xã hội trên lãnh thổ theo những khung pháp lý cụ thể và theo các
lĩnh vực, kế hoạch xác định cụ thể.
Mục đích sự khuyến khích của Nhà nớc trong lĩnh vực đầu t là tạo cơ hội cho
các chủ thể tham gia đầu t có thể huy động và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn
vốn, tài nguyên, lao động... tạo thêm việc làm cho xã hội, nhằm thực hiện đờng lối
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đồng thời bảo hộ lợi ích hợp pháp
của nhà đầu t, của ngời góp vốn đầu t, tăng cờng hiệu quả quản lý nhà nớc đối với
các hoạt động đầu t, cải thiện ngày một tốt hơn môi trờng kinh doanh, định hớng
và tụ hội các ý đồ đầu t của các chủ thể tập trung vào các ngành, vùng, lĩnh vực
cần khuyến khích phát triển, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu
vùng theo hớng tiến bộ. Tuy các ý đồ cụ thể có khác nhau, song trên bình diện
chung hầu hết các quốc gia đều hớng tới các mục đích đó.
Để tạo khung pháp lý khuyến khích các hoạt động đầu t trong nớc trong điều

kiện thực thi nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trờng có sự quản lý và định hớng của Nhà nớc, ngày
22/6/1994 Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật khuyến khích đầu t
trong nớc (KKĐTTN). Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1995. Để hớng
dẫn thực hiện Luật này, ngày 12 tháng 5 năm 1995, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 29/CP quy định chi tiết thi hành Luật KKĐTTN. Đây là những văn bản
pháp luật đầu tiên ở cấp Luật và cấp Nghị định nhằm điều chỉnh các quan hệ chủ
yếu về KKĐTTN ở nớc ta. Tuy mới đợc triển khai thực hiện từ 1/1/1995, Luật
KKĐTTN đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế đất nớc đem lại
những luận điểm, kết quả đáng mừng, góp phần thúc đẩy đáng kể hoạt động đầu t
trong nớc.

×