Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 28 trang )

KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan của não.....................4
Tâm lý người mang tính chủ thể............................................................5
Tâm lý người mang bản chất xã hội – lịch sử..........................................6
Bản chất tâm lý của hoạt động dạy – học................................................9
Giáo dục hành vi đạo đức.....................................................................10
Cấu trúc tâm lý của hành vi đạo đức......................................................18
Đặc điểm lao động sư phạm của giảng viên............................................21
Những phẩm chất cần thiết của giảng viên..............................................23
Năng lực dạy học của giảng viên 25

TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÂM LÝ NGƯỜI
Khái niệm tâm lý:
Là sự tổng hòa, thống nhất giữa những yếu tố tinh thần
(cảm xúc, trạng thái, suy nghĩ,…), nảy sinh trong não bộ
của con người từ quá trình tác động qua lại với thế giới
khách quan

Não bộ người

Quá trìnhPhản Ánh
nảy
sinh
Cảm tính( cảm xúc, trạng thái,…)

tâm lý:

Nó đem lại cho mình điều gì?

Tác động trở lại



Thế giới khách quan

Lý tính( tư duy, tư tưởng,…)
Mình có thể làm gì với nó?


QUÁ TRÌNH NẢY SINH TÂM LÝ NGƯỜI

(ghi chú: bấm hiện chú
bảng giải thích quá trình)

thích( Comment) để hiện

Thế giới khách quan tác động lên não bộ hay não chúng ta thông qua quá trình
quan sát đã phản ánh thế giới khách quan vào bên trong bằng cách tái tạo lại hình
ảnh của nó. Sau đó não bộ tiến hành xử lý thông tin (đã được tái tạo), thông qua
đánh giá, nhận định về nó tạo ra trạng thái, cảm xúc,… và tư duy (yếu tố tâm lý) để
đưa ra những định hướng, điều khiển hay điều chỉnh hoạt động của bản thân

Thế giới khách quan là gì?
Thế giới khách quan bao gồm tất cả sự
vật và hiện tượng trong giới tự nhiên và
quá trình vận động, biến đổi của chúng
mà không chịu sự lệ thuộc vào ý thức của
con người (dù muốn hay không thì nó có
thể xảy ra mà không cần tới sự can thiệp).
Bản chất của thế giới khách quan là sự
vận động, tác động qua lại giữa những sự
vật, hiện tượng dẫn đến sự biến đổi về

mặt số lượng, chất lượng của từng sự vật,
hiện tượng. Điều đó tạo nên thuộc tính
chung cho mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là phản ánh (kết quả
của quá trình tác động qua lại)
(ghi chú: bấm hiện chú thích( Comment) để hiện bảng giải thích )

Ta căn cứ vào các dạng tồn tại của vật chất để chia ra 3 dạng phản ánh:

2


 Phản ánh vật lý: phản ánh của các sự vật không có quá trình trao đổi chất với
môi trường. Đây là dạng phản ánh cơ bản nhất, đơn giản nhất mà ở đó nó phản
ánh nguyên si sự vật và hiện tượng
Ví dụ: chân ta (1 dạng hình thái vật chất
có cấu trúc các thuộc tính sự vật, là 1 bộ
phận trên cơ thể sinh học) đi trên bãi cát
=> bãi cát in dấu chân ta (phản ánh1) và
chân ta cũng dính cát (phản ánh2). Sự tác
động qua lại giữa hai hệ thống vật chất
với kết quả là để lại dấu vết tác động ở cả
hệ thống tác động (chủ động) và hệ thống chịu sự tác động (bị động)

 Phán ánh sinh học: Phản ánh của các vật chất sống. Dạng phản ánh này không
còn nguyên si như tác động ban đầu
Ví dụ: Quá trình quang hợp ở thực vật. Thực vật chịu
sự tác động của khí Các bô níc (CO 2) và nước (H20),
dưới ánh nắng mặt trời sẽ giải phóng ra khí Ô xi (O 2).
Ở đây ta thấy sự biến đổi về chất của phản ánh
(không còn nguyên si) qua quá trình tác động qua lại

giữa 2 hệ thống vật chất

 Phản ánh tâm lý: Dạng phản ánh cao nhất, chỉ xuất hiện ở hình thái vật chất có
tổ chức đặc biệt là não người, sinh ra những yếu tố tinh thần phong phú làm thay
đổi cả về chất và lượng

3


Ví dụ: Não bộ thuộc bộ phận trên cơ thể mà con
người là tổng thể của mặt tự nhiên và mặt xã hội
nên não bộ cũng chịu sự ảnh hưởng từ nó. Chính
vì lẽ đó, mà về mặt tự nhiên, chúng ta phải chịu
sự tác động của quy luật trao đổi chất trong cơ
thể, dẫn đến việc nảy sinh nhu cầu hấp thụ dinh
dưỡng. Ở đây, yếu tố quy luật trao đổi chất là
hiện thực khách quan đã tác động lên bộ não con
người làm nảy sinh ra nhu cầu (yếu tố tâm lý)
dẫn đến tái cơ cấu hệ thống tâm lý trong não

Điều kiện để có tâm lý người:
Điều kiện cần và đủ để có được tâm lý là hiện thực khách quan (cần) và bộ não
(đủ), xuất phát từ quá trình nảy sinh tâm lý

Đặc điểm của tâm lý người:

 Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan của não
Khi một sự vật, hiện tượng nào đó trong hiện thực khách quan tác động đến ta,
một phản ánh tâm lý diễn ra. Kết quả là trên não ta có hình ảnh sự vật, hiện tượng
đó và được gọi là hình ảnh tâm lý. Mác nói: “Tinh thân, tư tưởng, tâm lý chẳng qua

là vật chất được chuyển vào trong đầu óc, biến đổi trong đó mà có”. Rõ ràng, tâm
lý không phải do thượng để sinh ra, cũng không phải do não tiết ra như gan tiết ra
mật. Tâm lý có nguồn gốc từ hiện thực khách quan. Hiện thực khách quan chính là
nội dung của phản ánh tâm lý
Tâm lý là hình ảnh của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Sự vật,
hiện tượng tác động vào giác quan và não đã để lại dấu vết trong não. Cơ chế hình
thành và diễn biến của tâm lý ta có chia ra 3 giai đoạn cơ bản:
4


Tiếp nhận kích thích từ thế giới bên ngoài,

Não bộ trả lời kích thích đi theo dây ly tâm

hình thành xung động thần kinh theo dây

truyền từ trung ương thần kinh gây nên

hướng tâm vào não

phản ứng cơ thể

não bộ xử lý thông tin tạo ra hình ảnh tâm


Muốn hình thành và phát triển tâm lý, mỗi chúng ta cần làm phong phú hiện
thực khách quan và biết bảo vệ, giữ gìn bộ não

 Tâm lý người mang tính chủ thể:
Chủ thể trong phản ánh tâm lý chính là con người.

Phản ánh tâm lý giống như các loại phản ánh khác ở chỗ
chúng đều tạo ra những hình ảnh của các sự vật, hiện
tượng. Tuy nhiên, hình ảnh tâm lý khác các loại hình ảnh
khác ở chỗ bao giờ nó cũng mang “dấu ấn” riêng của chủ
thể. Chính vì vậy, phản ánh tâm lý mang tính cá nhân,
sinh động, sáng tạo, không khô cứng, thụ động như phản
ánh vật lý (phản ánh nguyên si)

5


Hình ảnh tâm lý là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Hình ảnh tâm lý
phụ thuộc vào hai yếu tố: thế giới khách quan và chủ thể (người) đang phản ánh
thế giới khách quan
Biểu hiện của tính chủ thể:
1) Một sự vật, hiện tượng nhưng ở những chủ thể
khác nhau cho ta những hình ảnh tâm lý với những mức
độ sắc thái khác nhau, từ đó các chủ thể có thái độ và
hành vi khác nhau đối với sự vật, hiện tượng đó.
2) Một sự vật hiện tượng tác động
đến một chủ thể duy nhất vào những thời
điểm khác nhau, vào những hoàn cảnh
khác nhau với trạng thái cơ thể, tinh thần
khác nhau có thể cho ta những hình ảnh
tâm lý khác nhau (khi yêu thì cảnh vật
xung quanh đẹp khác thường)
3) Chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người hiểu rõ nhất, thể nghiệm sâu sắc nhất
về hình ảnh tâm lý đó (bởi vì là người trực tiếp nhận sự phản ánh mà không thông
qua chủ thể khác (kể lại) )
Lý do: Mỗi con người có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hoạt động

của hệ thần kinh. Đặc biệt hơn nữa là sự khác biệt về hoàn cảnh sống, điều kiện
giáo dục, tính tích cực hoạt động, giao tiếp khác nhau. Như vậy, mỗi chủ thể trong
khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa cái riêng của mình (khi phản ánh chủ
thể luôn đánh giá, nhận định sự vật, hiện tượng) vào trong đó, làm cho nó mang
đậm màu sắc chủ quan.
(ghi chú: bấm hiện chú thích( Comment) để hiện bảng giải thích )

Do tính chủ thể nên tâm lý của con người luôn mang những nét riêng giúp ta
phân biệt được người này với người khác. Trong đời sống và hoạt động, chúng ta
6


cần biết tôn trọng cái riêng của người khác, không thể đòi hỏi họ suy nghĩ, mong
muốn, hành động như mình. Mặt khác, chúng ta cần có cách ứng xử, tiếp cận phù
hợp với đối tượng, không nên cứng nhắc, máy móc.

 Tâm lý người mang bản chất xã hội – lịch sử
Bản chất xã hội: Tâm lý người có nguồn gốc từ thế giới khách quan bao gồm cả
thế giới tự nhiên và xã hội, trong đó cuộc sống xã hội đóng vai trò quan trọng hơn
cả. Các mối quan hệ xã hội như quan hệ kinh tế, quan hệ đạo đức, quan hệ pháp
luật..., quy định bản chất con người (để đánh giá nhân cách của 1 người, ta phải đặt
họ vào một mối quan hệ nhất định, dựa trên hành động của chủ thể với đối tượng
trong mối quan hệ đó), ví dụ:
Con (chủ thể) yêu thương, chăm sóc (hành
động) bố mẹ (đối tượng)


Đánh giá con hiếu thảo (trong mối
quan hệ gia đình)


Bản thân (chủ thể) đến lớp, tích
cực chơi (hành động) với bạn bè
(đối tượng)


Đánh giá bản thân là người
hòa đồng (trong mối quan
hệ với bạn bè)
7


Sự tồn tại và phát triển của con người luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
cộng đồng, xã hội. Không ai có thể sống ngoài gia đình, bạn bè, địa phương, dân
tộc... Trên thế giới, có những trẻ em sống với động vật và được chúng nuôi. Mặc
dù có cấu tạo sinh lý của con người, do sống
tách biệt với xã hội loài người nên chúng
không có tâm lý như người bình thường. Như
vậy, những gì con người có được khi mới
sinh ra chỉ là những điều kiện cần nhưng
chưa đủ. Điều kiện tiên quyết để trở thành
người là phải sống và hoạt động theo kiểu
người trong cộng đồng. Bởi vậy, tâm lý người chỉ hình thành trong môi trường xã
hội, nơi con người sống và làm việc với tư cách là một thành viên của xã hội. Bằng
con đường di truyền sinh học, cá nhân tiếp nhận từ thế hệ trước những đặc điểm về
giải phẫu sinh lý cơ thể và hệ thần kinh. Tuy nhiên để trở thành người, cá nhân cần
phải lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, các chuẩn mực cần thiết...bằng con
đường xã hội thông qua hoạt động, giao tiếp. Như vậy, trong cuộc sống xã hội,
thông qua hoạt động và giao tiếp, con người đã biến kinh nghiệm xã hội - lịch sử
thành kinh nghiệm của cá nhân, hình thành nên tâm lý. Với tư cách là chủ thể xã
hội, con người càng tích cực, chủ động sáng tạo trong hoạt động cá nhân thì tâm lý

càng phát triển. Tâm lý con người mang đầy đủ dấu ấn xã hội.
Tính lịch sử: Theo sự vận động và phát triển của xã hội, tâm lý con người cũng
không ngừng biến đổi và phát triển. Khi chuyển sang một thời kỳ lịch sử khác,
những biến đổi trong xã hội sớm muộn cũng dẫn tới những thay đổi trong nhận
thức, tình cảm, nếp nghĩ, thế giới quan ...của con người. Tuy vậy, những nét tâm lý
đã hình thành không hoàn toàn mất đi mà còn để lại những dấu ấn nhất định trong
8


mỗi người và mỗi thế hệ khi thời kỳ lịch sử cũ đã qua đi (ngày nay, vẫn có một số
gia đình sinh sống theo nề nếp phong kiến (phong cách sống thời đại cũ) ). Tâm lý

của mỗi người được hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát triển của
lịch sử cá nhân, lịch sử cộng đồng, lịch sử dân tộc.
Vì tâm lý người mang bản chất xã hội - lịch sử, khi đánh giá con người cần xem
xét môi trường xã hội, các quan hệ xã hội mà trong đó họ sống và hoạt động. Mặt
khác, ta có thể hình thành hoặc cải tạo con người theo mẫu nhân cách nhất định
bằng cách tạo ra cho họ các điều kiện xã hội thuận lợi như tổ chức các hoạt động
phù hợp...
Tóm lại, hiểu bản chất hiện tượng tâm lý giúp ta nhìn nhận về con người một
cách đúng đắn, có niềm tin và có phương thức trong việc cải tạo con người

BẢN CHẤT TÂM LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC
Khái niệm quá trình dạy học:
Hoạt động tương tác có tính phối hợp giữa người dạy và người học nhằm phát triển
kĩ năng, tri thức, nhân cách của người học
Vai trò của người dạy trong quá trình dạy học:
Là những người có trình độ chuyên môn sư phạm, người dạy có vai trò điều hành,
tổ chức lớp học thông qua việc thực hiện các kế hoạch bài giảng đã được thiết kế
để định hướng, tạo cảm hứng, khơi dậy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của

người học nhằm đạt được mục đích bài giảng đã đề ra
Vai trò của người học trong quá trình dạy học:
Dưới sự điều hành, tổ chức của người dạy, người học trong quá trình dạy học đại
học được kích thích nảy sinh ra động cơ, cảm hứng, tạo tính tích cực, chủ động
9


sáng tạo tương tác với người dạy, với môi trường nhằm tiếp nhận tri thức để phát
triển bản thân với sự định hướng đúng đắn
Sự tương tác giữa người dạy và người học:
Người dạy tổ chức, điều hành
Người học chủ động, tích cực nắm bắt tri thức dưới sự dẫn dắt của người dạy
=> Người học được khơi gợi sự hứng thú, động cơ, mục đích học tập -> Tích cực,
sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức
Bản chất tâm lý của quá trình dạy học đại học: (lĩnh hội tri thức của nhân
loại)
Là quá trình nhận thức của người học từ đơn giản đến phức tạp, trừu tượng có tính
hệ thống khoa học, logic, phù hợp với thực tiễn với tâm thể chủ động, sáng tạo,
tích cực để hoàn thiện tri thức và nhân cách, dưới sự tổ chức, điều hành của người
dạy

GIÁO DỤC HÀNH VI ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH,
SINH VIÊN
Khái niệm đạo đức:
Những biểu hiện của con người trong
xã hội (mối quan hệ cá nhân – cá nhân, cá
nhân – xã hội) được quy định thành một
hệ thống bởi những người đứng đầu thông
qua hệ thống pháp luật, giáo dục, truyền
bá hệ tư tưởng. Nhằm bảo vệ lợi ích

chung (hiểu là ai cũng có lợi, nhưng mỗi
người khác nhau về lợi ít, nhiều). Lợi ích
mà đạo đức bảo vệ là đối tượng có khả
năng phát triển bản thân

Khái niệm hành vi đạo đức:

10


Hành vi đạo đức là một hành động tự giác được thúc đẩy
bởi một động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức (được quy ước
như một hành động có ích cho nhiều người trong xã hội). Nó
được biểu hiện trong các mối quan hệ xã hội của chủ thể
(ghi chú: bấm hiện chú thích( Comment) để hiện bảng giải thích )

Tiêu chuẩn đánh giá hành vi đạo đức:
 Tính tự giác của hành vi đạo đức:
Là cá nhân có ý thức đầy đủ về mục đích, ý nghĩa
hành vi của mình và tự nguyện thực hiện theo động
cơ của chính nội tâm mình. Điều này đòi hỏi ta phải
có hiểu biết để trả lời câu hỏi: Tại sao, ta phải làm
điều đó? Hành động của ta sẽ ảnh hưởng thế nào đối
với đối tượng và với chính bản thân mình? (Nếu
không có hiểu biết nhận thức về điều đó, ta sẽ cảm
thấy nó vô nghĩa, triệt tiêu động lực thúc đẩy để ta năng nổ, hết mình về hành động
đó. Tệ hơn, khi bị lên án về lý do ta không hành động, có thể ta sẽ cảm thấy bị ép
buộc nếu bản thân không cảm thấy thuyết phục, dẫn đến việc tâm trí ta sinh ra
trạng thái tiêu cực, có thể chống trả lại để bảo vệ sự tự do cho cá nhân)


 Tính có ích của hành vi đạo đức:
Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của hành vi và để đánh giá được
tính có ích của nó phải dựa trên hai phương diện: lợi ích của hành động và phạm vi
ảnh hưởng của hành động. Trên phương diện lợi ích của hành động, ta đánh giá
theo hai tiêu chí là hình dạng vật thể của vật chất (tài sản, đồ vật kỉ niệm, sức khỏe,
…) và tinh thần (cảm xúc mà nó đem lại). Hành động chỉ coi là có ích khi hai tiêu
chí trên song hành với nhau, nếu như hai tiêu chí đi ngược nhau sẽ để lại hậu quả
không như mình mong muốn.

11


Ví dụ1: Cho tiền( hình dạng vật thể của vật chất)
người bạn( đối tượng) khi gặp khó khăn với thái độ
khó chịu (tinh thần) sẽ khiến cho người bạn cảm thấy
bị xúc phạm dù cho lúc trước còn giúp đỡ khi mình
gặp hoạn nạn

Ví dụ2: Thấy bạn gặp chuyện buồn, ta an ủi
bằng lời nói (tuy được coi là hành động thể
hiện hình thái vật chất dưới hình thức âm
thanh, câu từ. Nhưng kết quả của nó chỉ là giá
trị về mặt tinh thần, ngoài mục đích ban đầu,
ta phải chú ý đến cả kết quả của hành động để
đánh giá), có thể người bạn bớt cảm giác
buồn, nhưng nếu không có hành động cụ thể
thì vấn đề vẫn không được giải quyết được
chuyện buồn
Để đánh giá được toàn diện tính có ích của hành vi đạo đức phụ thuộc vào khả
năng hiểu biết, nhìn nhận trên nhiều góc độ và phương diện, qua từng mối quan hệ

khác nhau của đối tượng mà mình thực hiện hành vi đạo đức
Ví dụ: Khi gặp bạn bè trốn đi chơi điện tử (mối
quan hệ đối tượng – sở thích), ta có thể ủng hộ họ
(tăng cường mức độ trong mối quan hệ với sở
thích của đối tượng), tuy nhiên nó dẫn đến xung
đột với mối quan hệ khác (mối quan hệ đối tượng
– gia đình) bởi bố mẹ của bạn bè không thích điều
đó (ta phải xác định rõ những mối quan hệ trọng
tâm của đối tượng và đánh giá nó sao cho tránh sự
xung đột các mối quan hệ ở mức tốt nhất có thể)

 Tính không vụ lợi của hành vi đạo đức:
12


Là yếu tố xuất phát từ mục đích của hành vi đạo đức, để hiểu cặn kẽ ta phải làm
rõ định nghĩa vụ lợi trong đạo đức là gì? Khi mà cái đích cuối cùng của hành vi
đạo đức không chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ đối tượng. Ở đây, hành vi đạo đức giúp
đỡ đối tượng chỉ là phương thức mà qua đó ta thu về giá trị vật chất và tinh thần
cho chính bản thân (nó khác biệt với việc “có đi có lại”, khi mà đối tượng sẽ giúp
đỡ lại ta hay nói cách khác là ta giúp đỡ bản thân 1 cách gián tiếp, còn vụ lợi là ta
trực tiếp giúp đỡ bản thân mình trên danh nghĩa giúp đỡ người khác)
Ví dụ: Trước mặt mọi người, ta tạo lớp ngụy trang là người giúp
đỡ người khác, mục đích thực sự là để lấy được cảm tình của
đối tượng và người xung quanh, qua đó tạo giá trị ảo cho bản
thân
Đây là yếu tố nhạy cảm khi xem xét một hành vi có phải là hành vi đạo đức hay
không? Nhưng nó lại là một yếu tố vô cùng quan trọng để đánh giá sự lừa gạt ẩn
dưới lớp ngụy trang hào nhoáng là hành vi đạo đức. Tuy hành vi đó có thể thỏa
mãn yếu tố tự nguyện, yếu tố có lợi, nhưng đó không thể được coi là hành vi đạo

đức (phân biệt sự khác biệt giữa giúp đỡ bản thân gián tiếp và giúp đỡ bản thân
trực tiếp)

Nội dung hành vi đạo đức của học sinh, sinh viên:
Định hướng giá trị đạo đức cho học sinh, sinh viên: Sống có mục đích, sống có
tình nghĩa, thủy chung, được mọi người xung quanh tôn trọng, có ích cho người
khác, hướng về cái thiện, có trình độ học vấn, có nghề nghiệp thích hợp, cống hiến
cho xã hội... Ta phải cân bằng yếu tố đạo đức bên trong (tinh thần) và bên ngoài
(các mối quan hệ xã hội) để thúc đẩy toàn diện con người của học sinh, sinh viên.
Cụ thể đối với học sinh, sinh viên:

 Thói quen tốt trong học tập: Chăm chỉ học tập và rèn luyện nghiệp vụ, có thái độ
trung thực, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và rèn luyện, coi trọng việc tự học, tự

13


rèn luyện, ý thức về tương lai nên chịu khó học, ý thức
về nghề nghiệp nên chịu khó rèn luyện...

 Thói quen tốt trong quan hệ, sinh hoạt: Giao tiếp ứng
xử có văn hóa, kính trọng thầy cô, quan hệ bạn bè
lành mạnh, tình yêu trong sáng, quan tâm đến tập
thể, chấp hành tốt nội quy tập thể...

 Giáo dục đạo đức nghề nghiệp: Để đáp ứng được

yêu cầu nghề nghiệp trong tương lai, sinh viên cần được rèn luyện các phẩm
chất và đạo đức nghề nghiệp. Để hiểu rõ yêu cầu của nghề, phải phân tích các
yếu tố của nghề theo họa đồ nghề nghiệp (bản mô tả nội dung, tính chất, phương

pháp, đặc điểm tâm sinh lý cần phải có, những điều cần tránh khi lao động trong
nghề), từ đó xác định các phẩm chất và các nội dung cần giáo dục cho sinh viên.
Việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên không tách rời các hoạt động
giáo dục đạo đức nói chung

14


CẤU TRÚC CỦA HÀNH VI ĐẠO ĐỨC:
Ta sẽ phân tích trên cơ sở hành vi cho đến hành vi đạo đức dựa trên 3 yếu tố
chính: động cơ, tri thức, năng lực thực hiện và vai trò yếu tố phụ là niềm tin, tình
cảm, thiện chí, nghị lực, thói quen đạo đức

 Yếu tố chính của cấu trúc hành vi đạo đức:

Động

đạo đức
Động

Năng
Tri
Tri thức
lực
thứcthực
đạo
đạođạo
đức
hiện
đứcđức


Động cơ đạo đức (Mục đích của hành vi)
15


Trong hành vi: Vai trò lợi ích có yếu tố then chốt đối với sự phát triển của nhân
loại, rằng mọi hành động của con người luôn hướng tới lợi ích. Nó trở thành mục
đích đồng thời hình thành cho ta động cơ để thực hiện hành động. Như vậy, động
cơ xuất phát từ nhu cầu lợi ích vật chất, tinh thần cho chủ thể
Ví dụ: Mục đích học sinh là đạt giấy khen học sinh giỏi, để làm được điều đó cần
học tập chăm chỉ (hay nói cách khác, động cơ để học sinh học tập chăm chỉ là đạt
được giấy khen học sinh giỏi)
Trong hành vi đạo đức: Xuất phát từ hành vi cho nên bản
thân động cơ hành vi đạo đức cũng xuất phát từ lợi ích. Đặc
điểm của đạo đức là phải đặt nó trong mối quan hệ trong xã
hội (trong mối quan hệ gia đình – con ngoan, con hư. Trong
mối quan hệ bạn bè – bạn tốt, bạn xấu), sẽ không có đạo
đức nếu không có mối quan hệ xã hội. Động cơ của hành
vi đạo đức là thông qua việc tác động vào mối quan hệ xã
hội nhằm tạo ra lợi ích

Làm việc cùng nhau để tạo ra lợi ích

Ví dụ: Hành vi đạo đức: đi từ thiện. Việc bạn đi từ thiện (với mong muốn giúp đỡ
những hoàn cảnh khó khăn), bản thân bạn đã tự thỏa mãn mong muốn của chính
mình (ở đây bạn đã đạt được động cơ của mình thông qua phát triển mối quan hệ
bạn – người bạn từ thiện)
Tri thức đạo đức: (Cách thực hiện hành vi)
Trong hành vi: Khi ta đã nhen nhóm lên động cơ thực hiện hành vi, ta phải đối
diện với việc làm thế nào để thực hiện được động cơ của mình? Ta cần tri thức, nó

dạy cho ta biết ta phải làm như thế nào để đạt được mục đích của mình?

16


Trong hành vi đạo đức: Đây là yếu tố để đánh
giá “tính có lợi” của tiêu chuẩn đạo đức (Xem lại
phần đó trong tiêu chuẩn đạo đức). Bằng tri thức,
ta phải xem xét kết quả của hành vi sẽ để lại hậu
quả gì cho bản thân, cho đối tượng, cho xã hội.
Phân biệt được thế nào là đúng? Thế nào là sai?
(Có những hành vi được xã hội thừa nhận là lẽ
phải, tuy nhiên ta phải xem xét cẩn thận, như thời
phong kiến với “tam tòng” thời bố, thờ chồng, thờ
con dành cho người phụ nữ). Yếu tố này phụ thuộc
rất nhiều vào khả năng hiểu biết của chủ thể
Năng lực thực hiện: (Kết quả hành vi)
Nếu chỉ dừng lại ở động cơ và tri thức, ta không thể gọi nó là
một hành vi. Ta cần yếu tố thực hành trong thực tiễn (trong cuộc
sống), điều đó yêu cầu năng lực thực hiện (khả năng thực hiện)
mục đích của bản thân

 Yếu tố phụ: (biết thêm, các bạn hoàn toàn tự phân tích dựa trên những yếu tố
chính)
Niềm tin, tình cảm đạo đức:
Yếu tố này phụ thuộc vào kết quả của hành vi đạo đức rất nhiều, nếu như kết
quả hành vi giúp bạn đạt được mục đích, việc phát triển mối quan hệ xã hội sẽ
đồng thời phát triển tình cảm để gắn kết mối quan hệ đó ,yếu tố niềm tin sẽ củng cố
sức mạnh vào động cơ và tri thức đạo đức của bạn là đúng. Nếu kết quả cho ra
không được như ý muốn của bạn, bạn sẽ tự hỏi liệu có đang đi đúng hướng (động

cơ sai, tri thức sai hay năng lực thực hiện của mình còn kém)
Thiện chí, nghị lực đạo đức:
Đây là yếu tố bổ trợ cho yếu tố chính năng lực thực hiện của hành vi đọa đức, nó
được củng cố bởi tri thức đạo đức. Một tri thức đạo đức đúng đắn sẽ định hướng
17


bạn đi theo con đường đúng, đây là thiện chí. Nhưng để thực hiện nó, đôi lúc
không phải điều đơn giản và cần phải có nghị lực (ví dụ như bạn muốn học giỏi,
bạn biết mình phải học, bạn có chịu khuất phục trước những thói quen, cám dỗ
trước đây? Nó cần nghị lực, chiến thắng chính mình)
Thói quen đạo đức:
Hành vi đạo đức chỉ được hoàn thiện nếu có thói quen, việc lặp đi lặp lại sẽ củng
cố tất cả các yếu tố trong cấu trúc hành vi đạo đức (động cơ ngày một rõ ràng, tri
thức ngày càng phong phú, niềm tin và tình cảm vững chắc, khả năng thực hiện nó
cải thiện tốt hơn) Nếu không có yếu tố thói quen, hành động của bạn không thể
hoàn thiện và hoàn toàn có thể quên lãng

Yếu tố ảnh hưởng tới giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên:
 Môi trường bên ngoài (cụ thể ở đây là môi trường giáo dục trong nhà trường):
Đây có thể coi là yếu tố quyết định
hàng đầu tới sự trưởng thành đạo đức
của học sinh và sinh viên.. Tại sao môi
trường học tập trong nhà trường lại ảnh
hưởng? Đây có thể coi là yếu tố thế giới
khách quan trong quá trình hình thành
tâm lý cho em học sinh, sinh viên trước
khi trở thành công dân, bước chân ra
ngoài xã hội. Những nền tảng đầu tiên
trong nhận thức có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển sau này của mỗi em

(vai trò của yếu tố môi trường đối với sự phát triển tâm lý hành vi đạo đức)
Ví dụ:
Nền tảng giống như nền móng của một căn nhà, nếu nền
mòng có vấn đề cả tòa nhà đổ Nếu nền móng vững chắc,
nào hỏng hóc thì ta cũng chỉ đập lại tầng đó xây tầng khác.
thứ còn lại vẫn giữ nguyên

18

tầng
Mọi


Nhiệm vụ của nhà trường là tái tạo lại cấu trúc

Động cơ đạo đức
Năng
Tri
TriĐộng
lực
thức
thức
thực
đạo
đạo
hiện
đức
đức

đạo

đức

hành vi đạo đức cho học sinh, sinh viên, cụ thể như khơi dậy động cơ hành vi đạo
đức, định hướng tri thức hành vi đạo đức, rèn luyện khả năng thực hiện hành vi đạo
đức, bên cạnh đó khích lệ tình cảm, niềm tin, thiện chí và nghị lực hành vi đạo đức
(phân tích theo cấu trúc hành vi). Tất cả những điều trên phải diễn ra xuyên suốt
quá trình học tập, để các em học sinh, sinh viên hình thành nề nếp, những nền tảng
hiểu biết vững chắc để định hướng sự phát triển bản thân dù theo những hướng
khác nhau nhưng đều không bị biến chất (nếu phải nêu những phương pháp thì bạn
hãy dựa trên cấu trúc hành vi tâm lý, xây dựng những phương pháp để phát triển 3
yếu tố chính)
Điều kiện để yếu tố môi trường ảnh hưởng hiệu quả đối với quá trình giáo dục
hành vi đạo đức cho các em học sinh, sinh viên:
1) Không để tri thức đạo đức trong nhà trường chỉ dừng lại ở những bài giảng, chữ
trên trang giấy, học đi đôi với làm (theo dõi sát sao quá trình các em thực hiện hành
vi đạo đức để đánh giá)
2) Vì đạo đức là biểu hiện của con người trong mối quan hệ xã hội, nên phải xây
dựng cho từng em học sinh, sinh viên một môi trường lành mạnh, kích thích quá
trình xây dựng cấu trúc hành vi đạo đức (Sống trong môi trường bạo lực học
đường, mất đoàn kết liệu có khiến ta tin vào đạo đức?)

19


3) Luôn đặt các em vào mối quan hệ cá nhân – cá nhân, cá nhân – xã hội làm tiền
đề để các em thấy rõ ảnh hưởng hành vi của mình đến với người khác, ảnh hưởng
tốt ủng hộ, có lời khen, ảnh hưởng xấu lên án, bài trừ
4) Sau này khi các em ra trường sẽ đối mặt với những tình huống nhạy cảm trong
xã hội, cho nên tùy vào cấp bậc giáo dục mà có những phương án định hướng cho
các em cách xử lý hợp lý

5) Kiến thức ở nhà trường chỉ nên dừng lại ở tri thức nền tảng, không nên bị ảnh
hưởng quá sâu bởi sự chủ quan của người dạy, hãy chỉ cung cấp cho các em công
cụ để các em tự phát triển bản thân, tự nhận thức đúng đắn
Vai trò thầy cô, để có thể lãnh đạo, giúp đỡ quá trình tự tu dưỡng của sinh viên
thì cần lưu ý một số điểm sau:
1) Nắm vững mục đích, phương pháp và tổ chức việc tự tu dưỡng của sinh viên.
Trong tổ chức việc tự tu dưỡng, điều đầu tiên là phải hướng dẫn sinh viên lập kế
hoạch tự tu dưỡng. Trong đó bao gồm những nét đạo đức mà sinh viên cần rèn
luyện, củng cố hay khắc phục.
2) Phải làm cho sinh viên hiểu rằng: Tự tu dưỡng phải được diễn ra trong hoạt
động thực tiễn mới đem lại hiệu quả, vì chỉ qua thực tiễn thì niềm tin đạo đức mới
được hình thành.
3) Làm cho sinh viên hiểu rằng: Tự kiểm tra, tự đánh giá thường xuyên là một việc
làm không thể thiếu được của người tự tu dưỡng, vì có như vậy thì mới có cơ sở để
tự khuyến khích vươn lên và củng cố lòng tin cho bản thân

 Môi trường bên trong (đời sống tinh thần):
Đây là yếu tố song hành với môi trường bên ngoài, đóng góp rất lớn trong việc
hoàn thiện bản thân sau khi đã có những nền móng vững chắc. Môi trường bên
trong đóng vai trò trực tiếp điều khiển biểu hiện của ta ra bên ngoài thế giới khách
20


quan. Nó có chiều hướng ngày càng phong phú, sinh động song song với quá trình
khám phá thế giới khách quan. Yếu tố này càng một trở nên độc lập một cách
tương đối theo thời gian chúng ta phát triển (khi bé ta nghe lời bố mẹ, thầy cô, dần
đà lớn lên, tiếp xúc nhiều với thế giới khách quan, ta bắt đầu biết so sánh, nhận xét,
đối chiếu để đưa ra quyết định). Cuộc sống
muôn màu, muôn vẻ, kiến thức của nhà
trường không thể đưa ra đáp án cho từng

tình huống trong cuộc sống, ở đó chỉ cung
cấp kiến thức nền định hướng (la bàn) chỉ
dẫn học sinh, sinh viên. Nếu như nhà
trường (môi trường bên ngoài) có nhiệm
vụ xây dựng nền móng thì đời sống nội
tâm (môi trường bên trong) có nhiệm vụ
hoàn thiện con người dựa trên nền móng
đó thông qua phương pháp tự tu dưỡng tinh thần
Điều kiện để tiến hành tự tu dưỡng bao gồm các vấn đề sau:
1) Sinh viên phải tự nhận thức được bản thân mình, đánh giá đúng mình, luôn luôn
có thái độ phê phán nghiêm túc với những hành vi đạo đức của chính mình, những
thái độ tự mãn, kiêu ngạo hay tự ti đều trái với điều kiện này.
2) Sinh viên phải có một viễn cảnh về cuộc sống tương lai, về lý tưởng của đời
mình. Sinh viên chỉ tích cực tu dưỡng đạo đức của mình khi biết mình phải đi tới
đâu, cần phải trở thành con người như thế nào?
3) Sinh viên phải có phẩm chất ý chí mạnh mẽ, phải có nghị lực. Điều kiện này
giúp cho sinh viên có thể tiến hành tự tu dưỡng một cách liên tục và có hệ thống.
4) Công việc tự tu dưỡng của mỗi người phải được tập thể giúp đỡ, phải được dư
luận tập thể đồng tình và ủng hộ (sự bổ trợ giữa yếu tố môi trường và yếu tố bên
trong)
21


5) Việc tự tu dưỡng của sinh viên phải được giảng viên hướng dẫn, đánh giá, uốn
nắn thường xuyên.
6) Sinh viên phải có động cơ tự tu dưỡng đạo đức chính xác, tốt đẹp, xuất phát từ ý
nghĩa xã hội cao cả.

ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG SƯ PHẠM CỦA NGƯỜI DẠY:
Là nghề tái sản xuất sức lao động xã hội:

Sức lao động:
Sức lao động là khả năng lao động của con người bao gồm năng lực thể chất, trí
tuệ và tinh thần và được người đó sử dụng với mục đích sản xuất tạo ra giá trị. Đặt
trong bối cảnh là xã hội, sức lao động là tổng hòa khả năng tạo ra của cải vật chất
của một cộng đồng, thông qua thị trường kinh tế mua bán, trao đổi mà từ đó đời
sống của từng cá thể đi lên, kéo theo sự phát triển của toàn xã hội. Có thể coi sức
lao động xã hội là nhân tố nguồn lực chính trực tiếp phát triển kinh tế xã hội mạnh
(vai trò sức lao động)
Chủ thể của sức lao động là con người và đó cũng là đối tượng mà hệ thống giáo
dục hướng đến để tiến hành tái sản xuất nguồn nhân lực cho xã hội trong giai đoạn
tiếp theo
Lý do bởi vì nguồn lực xã hội không phải là vô hạn, sức lao động của một cá thể
rồi sẽ đến lúc cạn kiệt do chịu ảnh hưởng bởi tuổi tác, bệnh tật. Điều đó đặt ra vấn
đề cấp thiết để đảm bảo sự phát triển của nhân loại vẫn được tiếp tục, cần tái sản
xuất sức lao động xã hội. Có những giải pháp sinh học, y học nhằm kéo dài sức lao
động của một con người (tuổi thọ tăng), tuy nhiên đó chỉ là biện pháp tạm thời. Và
ở đây hướng tới những cá thể mới sinh ra là biện pháp tối ưu nhất, điều đó đòi hỏi
một ngành nghề với mục đích đào tạo những cá thể nhỏ tuổi này một cách hệ
thống, khoa học, thống nhất, tối ưu. Và hệ thống giáo dục sinh ra để làm điều đó,
hệ thống giáo dục thông qua việc đào tạo người thầy, người cô với kiến thức,
phương pháp chuyên biệt có hiệu quả đối với đối tượng nhỏ tuổi còn non nớt về
mặt nhận thức và kĩ năng sẽ định hướng, phát triển cho những đối tượng nhỏ tuổi
về mặt trí lực và năng lực để đáp ứng nhu cầu xã hội trong giai đoạn chuyển giao
thế hệ sắp tới.

22


Mục tiêu: người học phải trang bị được kiến thức nền tảng khái quát nhất để có thể
tự tiếp tục rèn luyện mà không cần sự hỗ trợ, có khát vọng và ước mơ cống hiến

cho xã hội, trở thành công dân có ích

Là nghề làm việc với con người:
Khác với những ngành nghề khác, đối tượng hệ thống giáo dục hướng đến là
đào tạo và phát triển con người một cách trực tiếp, cụ thể. Với những ngành nghệ
khác, đối tượng nó hướng đến là lợi ích thu được thông qua nhu cầu con người

Là nghề sử dụng công cụ chủ yếu là năng lực và phẩm chất nhân cách
của người giảng viên:
Dựa vào mục đích của hệ thống giáo dục: đào tạo nguồn nhân lực mới trở nên có
ích
Để phát triển một cá thể trở nên có ích trong xã hội, phải kết hợp hài hòa năng
lực chuyên môn và ý thức đạo đức (thiếu 1 trong 2 cũng không thể trở nên có ích,
có tài không có đức thì chạy theo lợi ích mà sẵn sàng làm hại người khác, có đức
không có tài thì không được gì). Và tương ứng với nó, để có thể phát triển 2 thành
tố này ở người học sinh, sinh viên, người dạy phải đảm bảo năng lưc (truyền đạt tri
thức khoa học, nền tảng thông qua khả năng thiết kế bài giảng, sắp xếp nội dung
hợp lý) và nhân cách (đạo đức, văn hóa, lối sống đẹp) của bản thân để học sinh,
sinh viên tiếp thu (nếu người thầy, người cô có tấm gương xấu, học sinh, sinh viên
sẽ ra sao?)

Là nghề lao động khoa học, sáng tạo và nghệ thuật:
Khoa học ở chỗ người dạy phải nắm bắt kiến thức chuyên môn, tri thức có tính
hệ thống và khoa học chứ không phải kinh nghiệm chủ quan của bản thân. Kiến
thức chuyên môn giúp người dạy có khả năng tổ chức lớp hợp lý, nắm bắt những
phương pháp tối ưu cho kế hoạch bài giảng, ngoài ra tri thức truyền đạt cho người
học phải được sắp xếp theo trình tự, mạch lạc, câu từ phù hợp với trình độ khả
năng nhận thức
Sáng tạo nghệ thuật ở chỗ người dạy phải linh hoạt trong việc tổ chức kế hoạch bài
giảng sao cho phù hợp với học sinh, sinh viên, phù hợp với yêu cầu của thời đại

sao cho kích thích sự phát triển của người học ở mức tối đa

23


NHỮNG PHẨM CHẤT CẦN THIẾT CỦA NGƯỜI DẠY:
Thế giới quan khoa học:
Xuất phát từ việc phản ánh thế giới khách quan để hình thành quan niệm về thế
giới (thế giới quan) là đặc tính chung của từng cá thế trong xã hội. Thế giới quan
của người giảng viên chi phối nhiều mặt hoạt động cũng như thái độ của họ đối với
các mặt hoạt động đó như việc lựa chọn nội dung, phương pháp giảng dạy và giáo
dục. Thế giới quan là kim chỉ nam giúp người giảng viên đi tiên phong trong việc
xây dựng niềm tin cho sinh viên.

Lý tưởng đào tạo sinh viên:
Lý tưởng đào tạo sinh viên chính là cái đích người giảng viên hướng đến trong
công việc. Nó mang tính định hướng, dẫn dắt người giảng viên đi lên phía trước,
thấy hết giá trị lao động của bản thân mà lý tưởng còn có ảnh hưởng sâu sắc đến sự
hình thành nhân cách sinh viên. Từ việc định hình được lý tưởng, người giảng viên
mới có động cơ để hoàn thiện năng lực, tri thức, thế giới quan, nhân cách của bản
thân để đáp ứng hoàn thành mục đích đã đề ra. Nên đây được coi là hạt nhân trong
cấu trúc phẩm chất của người giảng viên
Biểu hiện của lý tưởng đào tạo sinh viên có thể nói đến niềm tin vào công việc
mình đang thực hiện. Vì thế, người giảng viên có thể vượt qua được những khó
khăn về tinh thần, vật chất, hoàn thành nhiệm vụ đào tạo thế hệ sinh viên.
Lý tưởng đào tạo sinh viên không phải là có sẵn, không thể truyền từ người này
sang người khác bằng cách áp đặt mà được hình thành và phát triển thông qua nhu
cầu bản thân người giảng viên và sẽ được hoàn thiện trong một quá trình hoạt động
tích cực trong công tác giáo dục. Chính trong quá trình đó, nhận thức về nghề
nghiệp ngày càng được nâng cao, tình cảm nghề nghiệp ngày càng tỏ rõ quyết tâm

cao. Việc giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho sinh viên trong các trường sư phạm là
cần thiết
24


Lòng yêu nghề:
Là chất xúc tác tinh thần cực kì mạnh mẽ để cho người giảng viên ngày một hoàn
thiện bản thân mình
Lòng yêu nghề của người giảng viên thể hiện ở việc luôn nghĩ đến sự cống hiến
cho sự nghiệp đào tạo sinh viên. Giảng viên luôn làm việc với tinh thần trách
nhiệm cao, luôn cải tiến nội dung, phương pháp, không tự thỏa mãn với trình độ và
tay nghề của mình, có niềm vui khi được giao tiếp với sinh viên

Một số phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí của người giảng viên:
Trong hoạt động giảng dạy và giáo dục, mối quan hệ thầy trò có ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng hoạt động. Người giảng viên giáo dục sinh viên không chỉ bằng
những hành động trực tiếp của mình mà còn bằng tấm gương của cá nhân. Một mặt
người giảng viên phải lấy những quy luật khách quan làm chuẩn mực cho mọi tác
động sư phạm. Mặt khác, phải có những phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí cần
thiết. Đó là: Tinh thần nghĩa vụ, thái độ nhân đạo, công bằng, tính nguyên tắc, kiên
nhẫn…Những phẩm chất đạo đức là nhân tố để tạo ra sự công bằng theo quan điểm
trong các mối quan hệ thầy –trò. Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để làm cho
những phẩm chất và năng lực của người giảng viên thành hiện thực và tác động sâu
sắc đến sinh viên.

NĂNG LỰC DẠY HỌC CỦA NGƯỜI DẠY:
Nhóm năng lực dạy học:
Năng lực hiểu sinh viên
Nhân tố trung tâm của cấu trúc quá trình dạy học là dạy – học, sự liên kết vững
chắc giữa hai thành tố này là tiền đề cơ sở để đạt được sự hiệu quả trong công tác

25


×