THÁCH THỨC TRONG PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC DÂN TỘC THIỂU SỐ NƯỚC TA
NHÌN TỪ TIẾP CẬN VĂN HÓA & TÂM LÝ CÁC TỘC NGƯỜI
Trịnh Thị Kim Ngọc
PGS.,TSKH., Viện Nghiên cứu Con người,
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
Đặt vấn đề
Một trong những vấn đề nằm trong những quan tâm hàng đầu đặt ra
cho sự nghiệp đổi mới đất nước, đó là phát triển nguồn nhân lực (NNL).
Với vai trò quyết định sự thành bại của NNL trong sự nghiệp phát triển, vấn
đề NNL luôn được đặt ra cấp thiết cho mọi thời kỳ và thời đại. Trong đó,
một mảng vấn đề luôn là nỗi trăn trở của giới nghiên cứu và hoạch định
chính sách, đó là phát triển NNL dân tộc thiểu số (DTTS) tại các địa bàn
miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ở nước ta hiện nay.
Nước ta có 54 dân tộc, ngoài người Kinh là nhóm đa số, còn 53
DTTS, sinh sống tại 53 tỉnh thành phố trên cả nước. Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê (TCTK), năm 2009, dân số thuộc DTTS ở nước ta gồm
12.251.436 người, chiếm tỷ lệ 14,27% dân số Việt Nam.
Nhìn chung, vùng đồng bào DTTS sinh sống là vùng dân cư có tỷ lệ
nghèo cao, có đời sống vật chất và tinh thần khó khăn hơn nhiều so với các
vùng miền khác trong cả nước. Điều đó đã tác động mạnh mẽ tới thực trạng
NNL của đồng bào. Nghị quyết 52/NQCP ngày 12 tháng 6 năm 2016 về
Đẩy mạnh phát triển NNL các DTTS giai đoạn 20162020 đã nhận định rất
xác đáng rằng: NNL của các DTTS nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế. Lao
động DTTS chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ lệ lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chủ yếu là lao động giản đơn và
chưa qua đào tạo; nhận thức, kỹ năng sống, khả năng thích ứng môi trường
mới còn hạn chế; tác phong và kỷ luật lao động của NNL các DTTS còn
1
nhiều bất cập; số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ DTTS chưa
theo kịp sự phát triển và yêu cầu thực tiễn.
Thực trạng đó buộc chúng ta phải nhìn thẳng vào cả những thách thức
mà các DTTS nước ta đang phải đối mặt trong phát triển, và đồng thời phải
ý thức được cả những thách thức trong phát triển NNL tại các địa bàn rất
đặc thù về mặt địa lý, văn hóa – xã hội mà các DTTS nước ta đang cư trú.
Trong 53 DTTS nước ta phần lớn cư trú ở các vùng miền núi, biên
giới hải đảo…. chiếm 3/4 diện tích cả nước. Vùng trung du và miền núi
phía Bắc nước ta gồm 15 tỉnh1, với tổng diện tích là 95.264,4 km² và tổng
dân số năm (20011) là 11.290.500 người, là địa bàn sinh sống của trên 30
DTTS nước ta. Với vị trí trên tiếp giáp Trung Quốc ở phía Bắc và Lào ở phía
Tây, vùng trung du và miền núi phía Bắc chiếm vị trí đặc biệt quan trọng
trong việc giao lưu kinh tế văn hóa với các nước láng giềng anh em và
chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia. Thực tế lịch sử đã khẳng định, vùng
đồng bào các DTTS, nói chung và vùng trung du và miền núi phía Bắc nước
ta, nói riêng là những vùng giàu tài nguyên, nhưng xa xôi hẻo lánh và dân cư
thưa thớt. Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa
bàn miền núi để xâm lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc của dân tộc ta. Ở đó, đồng bào DTTS chính là “Tấm phên dậu”,
là “biên giới lòng dân” của Tổ Quốc và vùng DTTS đã từng là các căn cứ địa
cách mạng. Tuy nhiên, nhìn chung vùng đồng bào DTTS vẫn là vùng kinh tế
xã hội đặc biệt khó khăn. Do đó, vùng đồng bào DTTS, một mặt, họ luôn
nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng Chính phủ và của tòan thể cộng
đồng xã hội. Mặt khác, đó cũng là những thách thức lớn cho việc thu hút,
phát triển NNL cho địa bàn này.
I. Nguồn nhân lực các DTTS nước ta trong tiếp cận phát triển
Khái niệm nguồn nhân lực
Cho đến hiện nay, khái niệm nguồn nhân lực vẫn được coi là một
khái niệm mở và là khái niệm trọng tâm của công cuộc phát triển. Hiện có
1
Xét về mặt hành chính, vùng này bao gồm 15 tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Quảng
Ninh, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Trung tâm vùng là Thành phố Thái Nguyên; Thành phố Việt Trì.
2
rất nhiều cách tiếp cận và lý giải về nguồn nhân lực. Theo định nghĩa tổng
quan của Liên hiệp quốc thì “nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới
sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước.” Trong đó, nguồn nhân lực
có thể hiểu ở nghĩa rộng là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã
hội và nguồn lực con người cho sự phát triển. Ở góc độ hẹp hơn, NNL
được xem như là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát
triển kinh tế xã hội bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có
khả năng tham gia lao động và sản xuất xã hội.
Nói cách khác, NNL là tổng thể những tiềm năng của con người
(trước hết & cơ bản nhất là tiềm năng lao động), bao hàm yếu tố thể lực,
trí lực và nhân cách của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của một tổ chức
hoặc một cơ cấu kinh tế xã hội nhất định (Võ Xuân Tiến, 2010). NNL
còn có thể được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ
được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng, Fischer &
Dornhusch, 1995).
Nhiều người vẫn hay nhầm hai khái niệm nguồn nhân lực và lực
lượng lao động. Cần phải phân biệt rõ hai khái niệm này để có những luận
giải xác đáng khi phân tích. Lực lượng lao động được xác định là người lao
động đang làm việc và người trong độ tuổi lao động có nhu cầu nhưng
không có việc làm (người thất nghiệp). Nguồn nhân lực là những người đã,
đang và sẽ bổ sung vào lực lượng lao động.
Khi nói đến nguồn nhân lực, tức là nói đến vốn con người. Các yếu
tố phản ánh nguồn nhân lực được thể hiện gồm số lượng, chất lượng và cơ
cấu, trong đó a) số lượng thể hiện ở quy mô; b) chất lượng thể hiện ở sức
khoẻ, thể lực, trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, thẩm mỹ...
trong đó thể lực, trí lực, tâm lực là ba yếu tố quan trọng nhất.
Phát triển nguồn nhân lực
Đi liền với nội hàm NNL chúng ta không thể không nhắc đến khái
niệm phát triển NNL, một mảng ‘thực hành’ bấy lâu nhưng mới trở thành
3
một lĩnh vực học thuật. Trong một nghiên cứu công phu gần đây, Richard
Swanson (2009) mở rộng cách hiểu phát triển NNL như là một quá trình
khơi nguồn và phát triển chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao khả năng
thể hiện của cá nhân, đội ngũ, quá trình sản xuất và hệ thống tổ chức.
Phát triển nguồn nhân lực chứa đựng hai thành tố cốt yếu: 1) đào tạo và
phát triển hướng đến phát triển nghiệp vụ nhân lực để nâng cao khả năng
thể hiện của cá nhân; 2) phát triển tổ chức nhằm khơi nguồn nhân lực để
thay đổi khả năng thể hiện của cá nhân.
Theo cách suy luận ‘quá trình’ này, phát triển NNL vừa được coi
như một hệ thống vừa được xem như một cuộc hành trình trang bị kiến
thức, nâng cao kỹ năng thực hành cho người lao động, nhằm mở ra cho cá
nhân những công việc mới dựa vào trên cơ sở những kỳ vọng và định
hướng tương lai của từng tổ chức. Có thể nói, phát triển NNL là tìm cách
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong mối quan hệ giữa giáo dục, đào
tạo và phát triển. Trong đó, giáo dục được hiểu là các hoạt động học tập
để chuẩn bị cho con người bước vào một nghề nghiệp, hoặc chuyển sang
một nghề mới, thích hợp hơn trong tương lai. Xuất phát từ đặc điểm này,
chúng tôi tập trung thảo luận khía cạnh giáo dục và đào tạo của phát triển
NNL các DTTS ở Việt Nam. Dưới đây là vài nét khái quát về hệ thống
chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển nguồn nhân lực vùng
dân tộc và miền núi.
Hình 1. Khung phân tích những thách thức của NNL DTTS
4
Khi xem xét về những cơ hội và thách thức trong NNL các DTTS,
chúng ta xem xét vốn con người của đồng bào, những vấn đề của NNL trên
trong mối quan hệ chặt chẽ với những vấn đề kinh tế xã hội nơi mà cộng
đồng các DTTS đang sinh sống. Khung phân tích đã được thể hiện theo mô
hình trên đây.
II. Một số thách thức trong phát triển NNL vùng DTTS nước ta nhìn từ
tiếp cận văn hóa tâm lý tộc người
1. Thách thức từ những điều kiện về vị trí địa lý và cơ hội tiếp cận
của cộng đồng
Nhìn về điều kiện kinh tế xã hội nói chung, chúng ta thấy, tới gần
một nửa dân số DTTS nước ta (48,6%) sống tại vùng trung du miền núi phía
Bắc. Có khoảng 30% (29,3%) sống tại các vùng Bắc trung bộ và Duyên hải
miền trung và Tây Nguyên. Như vậy, có đến gần 80% dân số của DTTS
sống tại 3 vùng miền khó khăn nhất trong cả nước. Hầu hết các tỉnh trong
ba vùng trung du miền núi phía Bắc, Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung
và Tây Nguyên không chỉ có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và vị trí địa lý
vô cùng cách trở: xa xôi hẻo lánh, núi non hiểm trở, hoặc là cũng là vùng
chịu nhiều thiên tai như bão, lũ cuốn, sạt lở núi, cũng như các hệ lụy khác
của hiện tượng biến đổi khí hậu…. nhìn chung, đây là các vùng dân cư
5
nghèo nhất trong cả nước ta.
Theo địa bàn cư trú, chúng ta thấy, Việt Nam có 13 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương có tỷ lệ người DTTS cao nhất sinh sống, trong đó có
7 tỉnh có tỷ lệ DTTS cao trên 80%, đều nằm ở khu vực trung du và miền núi
phía Bắc, là: Cao Bằng (94,25%), Hà Giang (86,75%), Bắc Kạn (86,63%),
Lạng Sơn (83,01%), Sơn La (82,39%), Lai Châu (82,02%) và Điện Biện
(81,58%)…, thì cũng đều là những địa phương nghèo so với các tình phía
Bắc. Đồng thời các địa phương nghèo, cũng thường là các địa phương có các
thứ hạng về HDI thấp nhất trong cả nước tham khảo Bảng 1 dưới đây)2.
Bảng 1. Danh sách các tỉnh đông DTTS nhất
và có chỉ số HDI thấp nhất trong 10 năm 1999 2009
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
Tên Tỉnh
Tỷ lệ
DTTS
Thứ
hạng
HDI các
tỉnh
Tuyên Quang
Đắk Nông
Hòa Bình
Trà Vinh
Gia Lai
Bắc Cạn
Cao Bằng
Ninh Thuận
Lào Cai
Kon Tum
Sơn La
Yên Bái
Điện Biên
51,79
35,61
72,27
31,65
43,7
86,63
94,25
21,98
66,88
53,64
82,39
46,0
81,58
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
Chỉ số
HDI
năm
1999
Chỉ số
HDI
năm
2004
Chỉ số
HDI
năm
2009
0,624
..
0,574
0,600
0,519
0,585
0,541
0,599
0,527
0,535
0,527
0,580
....
0,651
0,629
0,629
0,653
0,584
0,623
0,596
0,629
0,608
0,576
0,588
0,620
0,580
0,684
0,681
0,681
0,668
0,667
0,666
0,658
0,655
0,644
0,641
0,641
0,631
0,600
2
Do từ năm 2010 trở lại đây, các chuyên gia UNDP tính toán và công bố HDI theo phương pháp mới có bổ
sung vào bộ công cụ tính toán tiêu chí nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index) và tiêu chí bất bình
đẳng xã hội nên những nhóm nghiên cứu chúng tôi không thể tập hợp các kết quả của 2 phương pháp đo
đạc và tính toán khác nhau vào một bảng xếp hạng để so sánh với nhau giữa các thời kỳ.
6
Nguồn: Nhóm NC tổng hợp từ các Báo cáo PTCN Việt Nam
của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và đề tài Thực trạng đời sống của các DTTS
Việt Nam của Hội đồng Dân tộc
Bên cạnh đó, các điều kiện về cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống dân
cư như điện, đường, trường, trạm, nước sạch,…. mặc dù đã được Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng tới trên 90% các xã, bản của đồng
bào. Tuy nhiên, việc tiếp cận với những thành tựu của công cuộc đổi mới
của đồng bào còn vô cùng hạn chế.
Cơ sở hạ tầng kém, điều kiện sinh hoạt khó khăn và địa hình hiểm
trở đã làm hạn chế điều kiện và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản như giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và môi trường sống đảm
bảo ... của người dân. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng, mà
cả số lượng dân số và nguồn NNL tại các địa bàn nêu trên. Một số ví dụ
thực tế là: tính đến cuối năm 2011, chỉ có 33% người dân ở 4 tỉnh Hà Giang:
Đồng Văn, Mèo Vạc, Quảng Bạ và Yêm Minh được sử dụng nước sạch;
Tại Lai Châu, chỉ có 53% hộ gia đình sử dụng điện nối mạng quốc gia, trong
khi tỷ lệ này lên đến 100% ở một số tỉnh khác ở miền Bắc, như Vĩnh Phúc,
Hải Phòng38...
3
Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình, TCTK, 2011.
7
Một số nơi khác nguồn nước sạch rất khó khăn vì phải bơm theo giờ
đóng nối điện. Nhưng ở một số cộng đồng, vài tiếng đồng hồ có nước sạch
không kịp để bà con dự trữ nước dung lúc không có điện, mà chỉ kịp cho trẻ
em và trâu bò trong bản tắm là hết giờ. Nhiều bản có nguồn nước sạch chứa
trong bể cung của bản, nhưng dân bản cùng cả ngày mà không biết tiết
kiệm (có khi để nước chảy cả ngày) nên khi bà con đi làm về dùng nước thì
đã không còn.
Mặc dù ở hầu hết các xã vùng DTTS, kể cả các xã vùng cao, hiểm
trở đều đã có trạm y tế xã, cùng các nhân viên y tế thôn bản. Tuy nhiên,
người dân trong vùng, đặc biệt là số dân cư sống ở trên núi cao, ít có điều
kiện tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Điều này đồng bào cho là có
nhiều lý do: 1) đường xá xa xôi là trở ngại lớn cho người dân đi khám, chữa
bệnh tại cơ sở y tế. 2) Chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của trạm y tế
xã cũng còn nhiều hạn chế: nguồn lực, trang thiết bị và hạn chế cả về chất
lượng và các phương tiện hỗ trợ đều rất thấp. Mặc dù Chính phủ đã nỗ lực
hỗ trợ tăng cường chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ sở thông qua
chính sách bố trí bác sỹ về làm việc tại các trạm xá xã. Tuy nhiên, nhiều xã
vùng cao vẫn chưa có bác sỹ, vì khó thu hút cán bộ y tế từ miền xuôi lên.
Chính sách cử tuyển gần đây cũng đã giúp các địa phương vùng DTTS
giải quyết một số khó khăn về việc thiếu cán bộ chuyên môn có trình độ đạt
chuẩn làm việc cho cấp xã. Tuy nhiên, nhiều sinh viên cử tuyển sau khi tốt
nghiệp không muốn về làm việc ở tuyến xã, họ thường ở lại ít nhất là
tuyến huyện4.
Đói nghèo trong dân cư là một đặc trưng của vùng DTTS. Ba vùng
tập trung đông DTTS đều là 3 vùng có tỷ lệ nhèo đói cao nhất ở nước ta.
Tuy nhiên, có một thực tế là, tỷ lệ giảm nghèo chủ là tỷ lệ của lãnh đạo địa
phương các cấp cùng bà con phấn đấu trong cuộc sống cam go. Còn bà con
ta không thích được thoát nghèo. Bởi quen tâm lý dựa dẫm, đồng bào sợ
rằng sau khi thoát nghèo, họ không còn nhận được các chính sách hỗ trợ cao
4
TCTK, 2010, Báo cáo Điều tra Mức sống hộ gia đình và Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan của
ngành y tế. Năm 2008.
8
nhất của Đảng và Nhà nước.
3. Thách thức trong cơ hội tìm việc làm của lao động
Với địa bàn chủ yếu là rừng núi, lao động trong vùng DTTS nước ta
chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông – lâm nghiệp, đặc biệt là 2 vùng có số
lượng và tỷ lệ DTTS cao nhất cả nước là Trung du miền núi phía Bắc, nơi
có trên 75% lao động làm nông nghiệp. Trong khi tỷ lệ này lực lượng này
trên cả nước chỉ là 51,9%. Chưa nói đến việc nông nghiệp của đồng bào ta
chủ yếu đang dừng lại ở mô hình nông nghiệp nương rẫy, tự cung tự cấp,
phụ thuộc rất hiều vào thòi tiết, nên chất lượng và hiệu quả kinh tế từ đó
chưa cao.
Ở các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, cũng như với các ngành nghề
có chuyên môn kỹ thuật cao thì lực lượng lao động này chưa tiếp cận được
và nếu có thì số lượng cũng rất hiếm, chất lượng cũng rất thấp. Mặc dù,
Nhà nước đã ban hành Thông tư 58/2017, là nhà nước sẽ hỗ trợ (đóng bảo
hiểm xã hội thay) cho các đơn vị sử dụng lao động là người DTTS tối đa là
5 năm/người lao động. Đồng thời, Ban Quản lý nhiều khu chế xuất và công
nghiệp ở các tỉnh thành đã đề nghị các doanh nghiệp ưu tiên gia tăng cơ hội
việc làm cho người DTTS với nhiều ưu đãi của địa phương. Tuy nhiên,
trình độ tiếp thu thông tin kỹ thuật, trau dồi nâng cao tay nghề, theo yêu cầu
sản xuất của các doanh nghiệp, thì lao động là người DTTS nhìn chung vẫn
chưa đáp ứng được và vì vậy tỷ lệ lao động tham gia các doanh nghiệp
trong nước và liên doanh đều rất hiếm hoi. Trong bối cảnh cạnh tranh vi ệc
làm của lao động trẻ đang ngày một khốc liệt, nên việc làm của lao động
người DTTS thường là những việc làm có thu nhập chưa cao.
Bảng 2. Cơ cấu dân số DTTS theo ngành nghề làm việc
các vùng trong cả nước trong đó có vùng DTTS
T ỷ l ệ %
Nhóm dân số
Cả
Miền núi
Duyên hải
Tây
nước
phía Bắc miền Trung
nguyên
9
Theo ngành
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
51,9
21,5
26,5
75,0
9,9
15,1
58,5
17,5
24,0
73,4
7,9
18,6
78,44
64,81
76,33
6,26
7,31
5,93
0,85
0,56 (ĐBSCL)
0,76
Theo nghề
Nghề nông & nghề đơn
giản
Ngành nghề có CMKT 22,37%
cao và trung bình
lao
động
có
CMKT
Lao động quản lý
Nhìn lại ở các địa phương là trung tâm công nghiệp lớn, các khu chế
suất quy mô, hiện đại với hàng vài chục ngàn công nhân, thì cũng rất ít phần
trăm lao động người DTTS tìm được cơ hội việc làm tại đó. Riêng tỉnh Đắk
Lắk là một điểm sáng về giải quyết việc làm cho lao động là người DTTS.
Theo số liệu thống kê của Sở LĐTB&XH tỉnh Đắc Lắc, riêng năm 2016
đã tỉnh giải quyết việc làm cho khoảng 26.850 người, trong đó lao động là
người dân tộc thiểu số là 8.600 người. Tiền lương và thu nhập của người
lao động khoảng từ 3,5 4,5 triệu đồng/người/tháng. Tuy nhiên, do trình độ
học vấn, nghề nghiệp, nhận thức chính trị và tác phong công nghiệp của lao
động là nguwoif DTTS còn nhiều hạn chế….Số người lao động bị mất việc
làm hàng năm vẫn còn cao hơn các đối tượng khác…..5
Riêng đối với đội ngũ cán bộ (làm công tác lãnh đạo, quản lý ở địa
phương) tỷ lệ này ở vùng DTTS chiếm tỷ lệ không thấp hơn so với các
Tham khảo. Công nhân lao động dân tộc thiểu số trong các doanh nghiệp tỉnh Đắk Lắk: Ý thức chấp
hành kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp còn kém. />quanhelaodong509/congnhanlaodongdantocthieusotrongcacdoanhnghieptinhdaklakythuc
chaphanhkyluatlaodongvatacphongcongnghiepkem183161.tld
5
10