Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thách thức trong phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta nhìn từ tiếp cận văn hóa và tâm lý các tộc người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.45 KB, 10 trang )

THÁCH THỨC TRONG PHÁT TRIỂN  
NGUỒN NHÂN LỰC DÂN TỘC THIỂU SỐ NƯỚC TA  
NHÌN  TỪ TIẾP CẬN VĂN HÓA & TÂM LÝ CÁC TỘC NGƯỜI
                       Trịnh Thị Kim Ngọc
                                PGS.,TSKH., Viện Nghiên cứu Con người,
                                 Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam

Đặt vấn đề
           Một trong những vấn đề nằm trong những quan tâm hàng đầu đặt ra  
cho  sự  nghiệp đổi mới đất nước, đó là phát triển nguồn nhân lực  (NNL).  
Với vai trò quyết định sự thành bại của NNL trong sự nghiệp phát triển, vấn 
đề  NNL luôn được đặt ra cấp thiết cho mọi thời kỳ và thời đại. Trong đó,  
một mảng vấn đề  luôn là nỗi trăn trở  của giới nghiên cứu và hoạch định 
chính sách, đó là phát triển NNL dân tộc thiểu số  (DTTS) tại các địa bàn 
miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ở nước ta hiện nay. 
   Nước ta có 54 dân tộc, ngoài người Kinh là nhóm đa số, còn 53 
DTTS, sinh sống tại 53 tỉnh thành phố trên cả nước. Theo số liệu của Tổng  
cục   Thống   kê   (TCTK),   năm   2009,   dân   số   thuộc   DTTS   ở   nước   ta   gồm  
12.251.436 người, chiếm tỷ lệ 14,27% dân số Việt Nam. 
            Nhìn chung, vùng đồng bào DTTS sinh sống là vùng dân cư có tỷ lệ 
nghèo cao, có đời sống vật chất và tinh thần khó khăn hơn nhiều so với các  
vùng miền khác trong cả nước. Điều đó đã tác động mạnh mẽ tới thực trạng  
NNL của đồng bào. Nghị  quyết 52/NQ­CP ngày 12 tháng 6 năm 2016 về 
Đẩy mạnh phát triển NNL các DTTS giai đoạn 2016­2020 đã nhận định rất  
xác đáng rằng: NNL của các DTTS nước ta còn bộc lộ  nhiều hạn chế. Lao  
động DTTS chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ lệ lao động có  
trình độ  chuyên môn kỹ  thuật rất thấp, chủ  yếu là lao động giản đơn và  
chưa qua đào tạo; nhận thức, kỹ năng sống, khả năng thích ứng môi trường  
mới còn hạn chế; tác phong và kỷ  luật lao động của   NNL  các  DTTS  còn 
1



nhiều bất cập; số lượng, cơ  cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ  DTTS chưa  
theo kịp sự phát triển và yêu cầu thực tiễn. 
          Thực trạng đó buộc chúng ta phải nhìn thẳng vào cả những thách thức  
mà các DTTS nước ta đang phải đối mặt trong phát triển, và đồng thời phải  
ý thức được cả  những thách thức trong phát triển NNL tại các địa bàn rất  
đặc thù về mặt địa lý, văn hóa – xã hội mà các DTTS nước ta đang cư trú. 
           Trong 53 DTTS nước ta phần lớn cư trú ở  các vùng miền núi, biên 
giới hải đảo…. chiếm 3/4 diện tích cả  nước. Vùng trung du và miền núi  
phía Bắc nước ta gồm 15 tỉnh1, với tổng diện tích là 95.264,4 km² và tổng 
dân số  năm (20011) là 11.290.500 người, là địa bàn sinh sống của trên 30 
DTTS nước ta. Với vị trí trên tiếp giáp Trung Quốc ở phía Bắc và Lào ở phía 
Tây, vùng trung du và miền núi phía Bắc chiếm vị  trí đặc biệt quan trọng  
trong việc giao lưu kinh tế  ­ văn hóa với các nước láng giềng anh em và  
chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia.  Thực tế lịch sử đã khẳng định, vùng 
đồng bào các DTTS, nói chung và vùng trung du và miền núi phía Bắc nước  
ta, nói riêng là những vùng giàu tài nguyên, nhưng xa xôi hẻo lánh và dân cư 
thưa thớt. Từ  xưa đến nay, các thế  lực thù địch bên ngoài đều sử  dụng địa 
bàn miền núi để xâm lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo 
vệ tổ quốc của dân tộc ta. Ở đó, đồng bào DTTS chính là “Tấm phên dậu”, 
là “biên giới lòng dân” của Tổ Quốc và vùng DTTS đã từng là các căn cứ địa 
cách mạng. Tuy nhiên, nhìn chung vùng đồng bào DTTS vẫn là vùng kinh tế 
­ xã hội đặc biệt khó khăn. Do đó, vùng đồng bào DTTS, một mặt, họ luôn 
nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng Chính phủ và của tòan thể cộng 
đồng xã hội. Mặt khác, đó cũng là những thách thức lớn cho việc thu hút, 
phát triển NNL cho địa bàn này.  
I. Nguồn nhân lực các DTTS nước ta trong tiếp cận phát triển 
          Khái niệm nguồn nhân lực
          Cho đến hiện nay, khái niệm nguồn nhân lực vẫn được coi là một 
khái niệm mở và là khái niệm trọng tâm của công cuộc phát triển. Hiện có 

1

Xét về mặt hành chính, vùng này bao gồm 15 tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Quảng
Ninh, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Trung tâm vùng là Thành phố Thái Nguyên; Thành phố Việt Trì.

2


rất nhiều cách tiếp cận và lý giải về nguồn nhân lực. Theo định nghĩa tổng  
quan của Liên hiệp quốc thì “nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ 
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới  
sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước.” Trong đó, nguồn nhân lực 
có thể hiểu  ở nghĩa rộng là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã 
hội và nguồn lực con người cho sự  phát triển.  Ở  góc độ  hẹp hơn, NNL  
được xem như là khả  năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự  phát 
triển kinh tế  xã hội bao gồm các nhóm dân cư  trong độ  tuổi lao động, có  
khả năng tham gia lao động và sản xuất xã hội. 
           Nói cách khác, NNL là tổng thể  những tiềm năng của con người 
(trước hết & cơ bản nhất là tiềm năng lao động), bao hàm yếu tố thể lực, 
trí lực và nhân cách của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của một tổ chức  
hoặc một cơ  cấu kinh tế  ­ xã hội nhất định (Võ Xuân Tiến, 2010).    NNL 
còn có thể được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ 
được,   có  khả   năng   đem  lại  thu  nhập  trong  tương  lai  (Beng,   Fischer   &  
Dornhusch, 1995). 
              Nhiều người vẫn hay nhầm hai khái niệm nguồn nhân lực và lực 
lượng lao động. Cần phải phân biệt rõ hai khái niệm này để có những luận 
giải xác đáng khi phân tích. Lực lượng lao động được xác định là người lao 
động đang làm việc và người trong độ  tuổi lao động có nhu cầu nhưng  
không có việc làm (người thất nghiệp). Nguồn nhân lực là những người đã, 
đang và sẽ bổ sung vào lực lượng lao động.

            Khi nói đến nguồn nhân lực, tức là nói đến vốn con người. Các yếu  
tố phản ánh nguồn nhân lực được thể hiện gồm số lượng, chất lượng và cơ 
cấu, trong đó a) số lượng thể hiện  ở quy mô; b) chất lượng thể hiện ở sức  
khoẻ, thể  lực, trí tuệ, trình độ, sự  hiểu biết, đạo đức, kỹ  năng, thẩm mỹ... 
trong đó thể lực,  trí lực, tâm lực là ba yếu tố quan trọng nhất. 
Phát triển nguồn nhân lực
          Đi liền với nội hàm NNL chúng ta không thể không nhắc đến khái 
niệm phát triển NNL, một mảng ‘thực hành’ bấy lâu nhưng mới trở thành 
3


một lĩnh vực học thuật. Trong một nghiên cứu công phu gần đây, Richard 
Swanson (2009) mở  rộng cách hiểu phát triển NNL như  là một quá trình 
khơi nguồn và phát triển chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao khả năng 
thể  hiện của cá nhân, đội ngũ, quá trình sản xuất và hệ  thống tổ  chức.  
Phát triển nguồn nhân lực chứa đựng hai thành tố  cốt yếu: 1) đào tạo và 
phát triển hướng đến phát triển nghiệp vụ nhân lực để nâng cao khả năng 
thể hiện của cá nhân; 2) phát triển tổ chức nhằm khơi nguồn nhân lực để 
thay đổi khả năng thể hiện của cá nhân. 
           Theo cách suy luận ‘quá trình’ này, phát triển NNL vừa được coi  
như  một hệ  thống vừa được xem như  một cuộc hành trình trang bị  kiến  
thức, nâng cao kỹ năng thực hành cho người lao động, nhằm mở ra cho cá  
nhân những công việc mới dựa vào trên cơ  sở  những kỳ  vọng và định 
hướng tương lai của từng tổ chức. Có thể nói, phát triển NNL  là tìm cách 
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong mối quan hệ giữa giáo dục, đào  
tạo và phát triển. Trong đó, giáo dục được hiểu là các hoạt động học tập  
để chuẩn bị cho con người bước vào một nghề nghiệp, hoặc chuyển sang  
một nghề mới, thích hợp hơn trong tương lai. Xuất phát từ đặc điểm này, 
chúng tôi tập trung thảo luận khía cạnh giáo dục và đào tạo của phát triển 
NNL các DTTS  ở  Việt Nam. Dưới đây là vài nét khái quát về  hệ  thống 

chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển nguồn nhân lực vùng 
dân tộc và miền núi.
Hình 1. Khung phân tích những thách thức của NNL DTTS

4


            
            Khi xem xét về  những cơ  hội và thách thức trong NNL các DTTS, 
chúng ta xem xét vốn con người của đồng bào, những vấn đề của NNL trên 
trong mối quan hệ chặt chẽ với những vấn đề kinh tế ­ xã hội nơi mà cộng  
đồng các DTTS  đang sinh sống. Khung phân tích đã được thể hiện theo mô  
hình trên đây.

II. Một số thách thức trong phát triển NNL vùng DTTS nước ta nhìn từ 
tiếp cận văn hóa tâm lý tộc người
1. Thách thức từ  những điều kiện về  vị  trí địa lý và cơ  hội tiếp cận 
của cộng đồng 
          Nhìn về điều kiện kinh tế ­ xã hội nói chung, chúng ta thấy, tới gần 
một nửa dân số DTTS nước ta (48,6%) sống tại vùng trung du miền núi phía 
Bắc. Có khoảng 30% (29,3%) sống tại các vùng Bắc trung bộ và Duyên hải  
miền trung và Tây Nguyên. Như  vậy, có đến gần 80% dân số  của DTTS  
sống tại 3 vùng miền khó khăn nhất trong cả  nước. Hầu hết các tỉnh trong 
ba vùng trung du miền núi phía Bắc, Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung 
và Tây Nguyên không chỉ  có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và vị  trí địa lý 
vô cùng cách trở: xa xôi hẻo lánh, núi non hiểm trở, hoặc là cũng là vùng  
chịu nhiều thiên tai như  bão, lũ cuốn, sạt lở  núi, cũng như  các hệ  lụy khác 
của hiện tượng biến  đổi khí hậu…. nhìn chung, đây là các vùng dân cư 
5



nghèo nhất trong cả nước ta.
Theo địa bàn  cư trú, chúng ta thấy,  Việt Nam có 13 tỉnh, thành phố 
trực thuộc Trung ương có tỷ lệ người DTTS cao nhất sinh sống, trong đó có 
7 tỉnh có tỷ lệ DTTS cao trên 80%, đều nằm ở khu vực trung du và miền núi 
phía Bắc, là: Cao Bằng (94,25%), Hà Giang (86,75%), Bắc Kạn (86,63%), 
Lạng Sơn (83,01%), Sơn La (82,39%), Lai Châu (82,02%) và  Điện Biện 
(81,58%)…,  thì cũng đều là những địa phương  nghèo so với các tình phía 
Bắc. Đồng thời các địa phương nghèo, cũng thường là các địa phương  có các 
thứ hạng về HDI thấp nhất trong cả nước tham khảo Bảng 1 dưới đây)2.  
Bảng 1. Danh sách các tỉnh đông DTTS nhất
và có chỉ số HDI thấp nhất trong 10 năm 1999 ­ 2009

STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

Tên Tỉnh


Tỷ lệ 
DTTS

Thứ 
hạng 
HDI các 
tỉnh

Tuyên Quang
Đắk Nông
Hòa Bình
Trà Vinh
Gia Lai
Bắc Cạn
Cao Bằng
Ninh Thuận
Lào Cai
Kon Tum
Sơn La
Yên Bái
Điện Biên

51,79
35,61
72,27
31,65
43,7
86,63
94,25
21,98

66,88
53,64
82,39
46,0
81,58

49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61

Chỉ số 
HDI 
năm
1999

Chỉ số 
HDI 
năm
2004


Chỉ số 
HDI 
năm
2009

0,624
..
0,574
0,600
0,519
0,585
0,541
0,599
0,527
0,535
0,527
0,580
....

0,651
0,629
0,629
0,653
0,584
0,623
0,596
0,629
0,608
0,576
0,588

0,620
0,580

0,684
0,681
0,681
0,668
0,667
0,666
0,658
0,655
0,644
0,641
0,641
0,631
0,600

2

Do từ năm 2010 trở lại đây, các chuyên gia UNDP tính toán và công bố HDI theo phương pháp mới có bổ 
sung vào bộ công cụ tính toán tiêu chí nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index) và tiêu chí bất bình 
đẳng xã hội nên những nhóm nghiên cứu chúng tôi không thể  tập hợp các kết quả  của 2 phương pháp đo  
đạc và tính toán khác nhau vào một bảng xếp hạng để so sánh với nhau giữa các thời kỳ. 

6


Nguồn: Nhóm NC tổng hợp từ các Báo cáo PTCN Việt Nam
của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và đề tài Thực trạng đời sống của các DTTS  


Việt Nam của Hội đồng Dân tộc

            Bên cạnh đó, các điều kiện về cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống dân  
cư như điện, đường, trường, trạm, nước sạch,…. mặc dù đã được Đảng và 
Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng tới trên 90% các xã, bản của đồng  
bào. Tuy nhiên, việc tiếp cận với những thành tựu của công cuộc đổi mới 
của đồng bào còn vô cùng hạn chế. 
           Cơ sở hạ tầng kém, điều kiện sinh hoạt khó khăn và địa hình hiểm  
trở  đã làm hạn chế  điều kiện và khả  năng tiếp cận các dịch vụ  xã hội cơ 
bản như giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ  và môi trường sống đảm  
bảo ... của người dân. Điều này không chỉ   ảnh hưởng đến chất lượng, mà 
cả  số  lượng dân số  và nguồn NNL tại các địa bàn nêu trên. Một số  ví dụ 
thực tế là: tính đến cuối năm 2011, chỉ có 33% người dân ở 4 tỉnh Hà Giang: 
Đồng Văn, Mèo Vạc, Quảng Bạ  và Yêm Minh được sử  dụng nước sạch;  
Tại Lai Châu, chỉ có 53% hộ gia đình sử dụng điện nối mạng quốc gia, trong  
khi tỷ lệ này lên đến 100% ở một số tỉnh khác ở miền Bắc, như Vĩnh Phúc, 
Hải Phòng38...
3

  Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình, TCTK, 2011.

7


            Một số nơi khác nguồn nước sạch rất khó khăn vì phải bơm theo giờ 
đóng nối điện. Nhưng ở một số cộng đồng, vài tiếng đồng hồ có nước sạch  
không kịp để bà con dự trữ nước dung lúc không có điện, mà chỉ kịp cho trẻ 
em và trâu bò trong bản tắm là hết giờ. Nhiều bản có nguồn nước sạch chứa 
trong bể  cung của bản, nhưng dân bản cùng cả  ngày mà không biết tiết  
kiệm (có khi để nước chảy cả ngày) nên khi bà con đi làm về dùng nước thì  

đã không còn.     
            Mặc dù ở hầu hết các xã vùng DTTS, kể cả các xã vùng cao, hiểm  
trở  đều đã có trạm y tế  xã, cùng các nhân viên y tế  thôn bản. Tuy nhiên, 
người dân trong vùng, đặc biệt là số  dân cư  sống  ở  trên núi cao, ít có điều 
kiện tiếp cận dịch vụ  chăm sóc sức khoẻ. Điều này đồng bào cho là có 
nhiều lý do: 1) đường xá xa xôi là trở ngại lớn cho người dân đi khám, chữa  
bệnh tại cơ sở y tế. 2) Chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của trạm y tế 
xã cũng còn nhiều hạn chế: nguồn lực, trang thiết bị và hạn chế cả về chất 
lượng và các phương tiện hỗ trợ đều rất thấp. Mặc dù Chính phủ đã nỗ lực 
hỗ  trợ  tăng cường chất lượng dịch vụ  chăm sóc sức khoẻ  cơ  sở  thông qua 
chính sách bố trí bác sỹ về làm việc tại các trạm xá xã. Tuy nhiên, nhiều xã 
vùng cao vẫn chưa có bác sỹ, vì khó thu hút cán  bộ  y  tế  từ  miền  xuôi  lên. 
Chính  sách  cử  tuyển gần đây  cũng  đã  giúp  các  địa  phương  vùng DTTS 
giải quyết một số khó khăn về việc thiếu cán bộ chuyên môn có trình độ đạt 
chuẩn làm việc cho cấp xã. Tuy nhiên, nhiều sinh viên cử  tuyển sau khi tốt 
nghiệp không muốn về  làm việc  ở  tuyến xã, họ  thường  ở  lại ít nhất là 
tuyến huyện4. 
            Đói nghèo trong dân cư là một đặc trưng của vùng DTTS. Ba vùng  
tập trung đông DTTS đều là 3 vùng có tỷ  lệ  nhèo đói cao nhất  ở  nước ta.  
Tuy nhiên, có một thực tế là, tỷ lệ giảm nghèo chủ là tỷ lệ của lãnh đạo địa 
phương các cấp cùng bà con phấn đấu trong cuộc sống cam go. Còn bà con  
ta không thích được thoát nghèo. Bởi quen tâm lý dựa dẫm, đồng bào sợ 
rằng sau khi thoát nghèo, họ không còn nhận được các chính sách hỗ trợ cao  
4

TCTK, 2010, Báo cáo Điều tra Mức sống hộ gia đình và Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan của 
ngành y tế. Năm 2008.

8



nhất của Đảng và Nhà nước. 
3. Thách thức trong cơ hội tìm việc làm của lao động
           Với địa bàn chủ yếu là rừng núi, lao động trong vùng DTTS nước ta  
chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông – lâm nghiệp, đặc biệt là 2 vùng có số 
lượng và tỷ  lệ DTTS cao nhất cả nước là Trung du miền núi phía Bắc, nơi  
có trên 75% lao động làm nông nghiệp. Trong khi tỷ  lệ  này lực lượng này 
trên cả nước chỉ là 51,9%. Chưa nói đến việc nông nghiệp của đồng bào ta 
chủ  yếu đang dừng lại  ở  mô hình nông nghiệp nương rẫy, tự  cung tự cấp,  
phụ  thuộc rất hiều vào thòi tiết, nên chất lượng và hiệu quả  kinh tế  từ  đó 
chưa cao. 
            Ở các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, cũng như với các ngành nghề 
có chuyên môn kỹ thuật cao thì lực lượng lao động này chưa tiếp cận được 
và nếu có thì số  lượng cũng rất hiếm, chất lượng cũng rất thấp. Mặc dù, 
Nhà nước đã ban hành Thông tư  58/2017, là nhà nước sẽ  hỗ  trợ  (đóng bảo 
hiểm xã hội thay) cho các đơn vị sử dụng lao động là người DTTS tối đa là 
5 năm/người lao động. Đồng thời, Ban Quản lý nhiều khu chế xuất và công 
nghiệp ở các tỉnh thành đã đề nghị các doanh nghiệp ưu tiên gia tăng cơ hội 
việc làm cho người DTTS với nhiều  ưu đãi của địa phương. Tuy nhiên, 
trình độ tiếp thu thông tin kỹ thuật, trau dồi nâng cao tay nghề, theo yêu cầu 
sản xuất của các doanh nghiệp, thì lao động là người DTTS nhìn chung vẫn 
chưa đáp  ứng được và vì vậy tỷ  lệ  lao động tham gia các doanh nghiệp  
trong nước và liên doanh đều rất hiếm hoi. Trong bối cảnh cạnh tranh vi ệc  
làm của lao động trẻ  đang ngày một khốc liệt, nên việc làm của lao động 
người DTTS thường là những việc làm có thu nhập chưa cao. 
          
                           Bảng 2. Cơ cấu dân số DTTS theo ngành nghề làm việc 
                                            các vùng trong cả nước trong đó có vùng DTTS

                                                                                                          T ỷ l ệ %

    Nhóm dân số
Cả 
 Miền núi  
Duyên hải 
Tây 
nước
phía Bắc  miền Trung
nguyên
9


       Theo ngành 
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ

51,9
21,5
26,5

 

75,0
9,9
15,1

58,5
17,5
24,0


73,4
7,9
18,6

78,44

64,81

76,33

6,26

7,31

5,93

0,85

0,56 (ĐBSCL)

0,76

       Theo nghề
Nghề nông & nghề đơn 
giản
Ngành nghề có CMKT  22,37%
cao và trung bình
lao 
động 
có 

CMKT
Lao động quản lý

            Nhìn lại ở các địa phương là trung tâm công nghiệp lớn, các khu chế 
suất quy mô, hiện đại với hàng vài chục ngàn công nhân, thì cũng rất ít phần 
trăm lao động người DTTS tìm được cơ hội việc làm tại đó. Riêng tỉnh Đắk 
Lắk là một điểm sáng về giải quyết việc làm cho lao động là người DTTS. 
        Theo số liệu thống kê của Sở LĐTB&XH tỉnh Đắc Lắc, riêng năm 2016  
đã tỉnh giải quyết việc làm cho khoảng 26.850 người, trong đó lao động là  
người dân tộc thiểu số  là 8.600 người. Tiền lương và thu nhập của người  
lao động khoảng từ 3,5 ­ 4,5 triệu đồng/người/tháng. Tuy nhiên, do trình độ  
học vấn, nghề nghiệp, nhận thức chính trị và tác phong công nghiệp của lao  
động là nguwoif DTTS còn nhiều hạn chế….Số người lao động bị  mất việc  
làm hàng năm vẫn còn cao hơn các đối tượng khác…..5 
           Riêng đối với đội ngũ cán bộ  (làm công tác lãnh đạo, quản lý ở  địa 
phương) tỷ  lệ  này  ở  vùng DTTS chiếm tỷ  lệ  không thấp hơn so với các  
 Tham khảo.  Công nhân lao động dân tộc thiểu số trong các doanh nghiệp tỉnh Đắk Lắk: Ý thức chấp 
hành kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp còn kém. />quan­he­lao­dong­509/cong­nhan­lao­dong­dan­toc­thieu­so­trong­cac­doanh­nghiep­tinh­dak­lak­y­thuc­
chap­hanh­ky­luat­lao­dong­va­tac­phong­cong­nghiep­kem­183161.tld
5

10



×