Tải bản đầy đủ (.pdf) (178 trang)

Luận án Tiến sĩ Luật học: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 178 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH VĂN SƠN

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH VĂN SƠN

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9 38 01 04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Trần Ngọc Hương


2. TS. Nguyễn Minh Đức

Hà Nội, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận án là trung
thực. Những kết luận nêu trong luận án chưa có công bố ở
bất kỳ công trình khoa học nào.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

ĐINH VĂN SƠN


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC
VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................... 8
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án .................................. 8
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án .................. 19
1.3. Cơ sở lý luận và giả thuyết nghiên cứu; hướng tiếp cận của luận án .... 23
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................... 27
2.1. Khái quát về khiếu nại, tố cáo; giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự............................ 27
2.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về

giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự ......................................... 42
2.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự ......................................... 59
2.4. Những tiêu chí cơ bản đánh giá vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự ......................................... 66
Chương 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................................................................... 71
3.1. Thực trạng pháp luật ghi nhận vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự ......................................... 71
3.2. Thực trạng thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.......................................................... 84
3.3. Đánh giá vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay ......................................... 100


Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................................ 123
4.1. Sự cần thiết và yêu cầu phải bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự ........................... 123
4.2. Yêu cầu bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự........................................................ 126
4.3. Bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng hình sự......................................................................... 133
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 158
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................ 160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 161



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

BLHS

:

Bộ luật hình sự

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

TAND

:

Tòa án nhân dân

TTHS

:


Tố tụng hình sự

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

VKS

:

Viện kiểm sát

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1.Thống kê số liệu giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân trong 10 năm (từ
2009 đến 2018) ............................................................................................ 87
Bảng 3.2.Thống kê số liệu giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân trong 10 năm (từ 2009
đến 2018) ..................................................................................................... 88
Bảng 3.3.Thống kê số liệu kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố

tụng hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong 10 năm (từ 2009 đến 2018) ... 96
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Thống kê số liệu giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự Viện kiểm sát nhân dân (2009-2018) .......................................................... 88
Biểu đồ 3.2. Thống kê số liệu giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự -Viện
kiểm sát nhân dân (2009-2018)................................................................... 89
Biểu đồ 3.3. Số liệu kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (2009-2018) ...................................... 97


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và trách nhiệm xem xét giải quyết của
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền được ghi nhận tại Điều 30 Hiến pháp năm
2013: " Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố
cáo...". Thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nhà nước biết và kiểm tra được
tính đúng đắn của chủ trương, chính sách, pháp luật; thấy được quyết định, hành vi
của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đúng hay sai; đồng thời còn hiểu
được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước đang đẩy mạnh tiến
trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, các quyền cơ bản của công dân ngày càng được mở rộng, trong đó
có quyền khiếu nại, tố cáo. Đảng đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết; Nhà nước ban
hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tăng cường hiệu quả công tác tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự đã thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước ta. Các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự về

quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo
của các cơ quan Nhà nước là phương tiện bảo đảm quyền dân chủ trực tiếp, tránh
oan, sai, phòng lọt tội phạm, góp phần mang lại công bằng xã hội. Viện kiểm sát
nhân dân là cơ quan hiến định, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp; đồng thời có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ làm
phát sinh mối quan hệ pháp lý giữa Viện kiểm sát nhân dân với các cơ quan nhà

1


nước, tổ chức và cá nhân trong việc ban hành các quyết định tố tụng, thực hiện các
hành vi tố tụng trong hoạt động tư pháp; đồng thời sẽ phát sinh khiếu nại, tố cáo đối
với quyết định, hành vi tố tụng đó khi người khiếu nại, tố cáo cho rằng có vi phạm
pháp luật. Ngoài việc có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo phát sinh trong tố
tụng hình sự thuộc thẩm quyền, Viện kiểm sát còn có chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền khác về giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong trong tố tụng hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân không những chịu
trách nhiệm về kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự của chính
mình, mà còn của cả các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khác.
Trong những năm gần đây vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự đã được đề cao. Nhiều khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự liên quan đến oan, sai bức xúc, kéo dài đã được giải quyết;
góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chất
lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự của các cơ quan tư
pháp nói chung và trong ngành Kiểm sát nói riêng, còn có nhiều bất cập, tồn tại,
hạn chế; một số khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết kịp thời hoặc giải quyết
chưa đúng pháp luật. Những yếu kém trên phần nào làm giảm lòng tin của nhân

dân vào chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Từ đó, ảnh
hưởng đến mục tiêu và giá trị xã hội của hoạt động kiểm sát và giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
Là cán bộ nhiều năm công tác trong ngành Kiểm sát, hơn nữa lại trực tiếp
làm việc trong Vụ Kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp tác giả luôn trăn trở, suy nghĩ để tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn
chế; đồng thời đề ra những giải pháp bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.
Nhìn nhận từ bình diện lý luận, mặc dù đã có một số công trình khoa học đã
công bố liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và khiếu nại, tố cáo
đối với quyết định, hành vi cụ thể của hoạt động tố tụng hình sự như khiếu nại
2


quyết định khởi tố vụ án hình sự; khiếu nại cáo trạng... nhưng cho đến nay chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống tương đối toàn diện về vị trí, vai
trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự. Trong lĩnh vực nghiên cứu này, tác giả đã bước đầu tích luỹ được những
kinh nghiệm thực tiễn và lý luận trong quá trình làm việc, nghiên cứu, xây dựng
Chuyên đề, trau rồi kiến thức trong các Hội thảo, Hội nghị, công tác tập huấn
nghiệp vụ. Từ nhận thức như trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề: "Vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam"
làm đề tài luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự,
mã số 9.38.01.04.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án phân tích và chứng minh những vấn đề lý luận thể hiện vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Trên
cơ sở lý luận được chứng minh, luận án phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và
thực trạng thực hiện vai trò kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng

hình sự trên cơ sở các tiêu chí nhất định; đề xuất một số giải pháp khoa học nhằm
bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, luận án đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Xây dựng khái niệm, chỉ ra đặc điểm, bản chất của khiếu nại, tố cáo và giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự; khái niệm, đặc điểm vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự;
- Phân tích và chứng minh những phương diện cơ bản thể hiện vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự;
- Phân tích làm rõ thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự; những
tồn tại, hạn chế, vướng mắc;
3


- Nghiên cứu làm rõ nguyên nhân của những hạn chế vướng mắc, bất cập;
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự ở Việt Nam, trong điều kiện cải cách
tư pháp ở giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận;thực trạng pháp luật và thực trạng
thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự trên phương diện trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thầm
quyền và phương diện kiểm sát việc tuân theo pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố
cáo đối với các chủ thể có thẩm quyền khác; tìm ra nguyên nhân của tồn tại, hạn
chế để đề xuất các giải pháp bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian: Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam;
- Phạm vi thời gian: Trong 10 năm, từ 2009 đến 2018;
- Phạm vi về nội dung: Viện kiểm sát nhân dân ngoài nhiệm vụ giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự thuộc thẩm quyền còn có các nhiệm vụ
giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các lĩnh vực tố tụng khác và trong quản lý hành
chính; đồng thời có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp của các chủ thể có thẩm quyền khác. Tuy
vậy, trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu, Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu vị trí, vai
trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
thuộc thẩm quyền và kiểm sát việc tuân theo pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự của các chủ thể có thẩm quyền khác.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
Nước về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về khiếu nại, tố cáo của cá nhân,
4


cơ quan, tổ chức và trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan có
thẩm quyền. Trong quá trình tiếp cận nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương
pháp tiếp cận hệ thống; tiếp cận liên ngành khoa học xã hội; tiếp cận chuyên ngành
lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật đặc biệt chú ý đến luật học; chủ yếu là
phương pháp tiếp cận của chuyên ngành Luật hình sự, tố tụng hình sự.
Để giải quyết mục tiêu và các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tác giả sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và trừu tượng hóa được sử dụng
trong quá trình xây dựng các khái niệm; phân tích chứng minh và luận giải những
đặc điểm của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự và vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực này. Phân tích quy phạm pháp luật, so sánh pháp
luật được sử dụng trong tất cả các chương của luận án, nhằm trình bày, làm rõ quan

điểm, quan niệm về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự; pháp luật của
một số nước về nội dung này. Từ đó khái quát lại, phân tích rút ra bản chất các hiện
tượng, các quan điểm, hoạt động thực tiễn của vấn đề và quy định của pháp luật về
vấn đề đó (Chương 1,2,3).
- Phương pháp thống kê, tổng hợp được sử dụng trong việc tổng hợp tình hình
làm rõ thực tiễn công tác áp dụng các quy định pháp luật về kiểm sát và giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát nhân dân; làm rõ những yếu tố phù
hợp và những bất cập của pháp luật có liên quan, những hạn chế trong thực thi chức
năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân về lĩnh vực này (Chương 3).
- Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng trong toàn bộ các chương của
luận án nhằm trình bày các vấn đề, các nội dung trong luận án theo một trình tự, bố
cục hợp lý, chặt chẽ, có sự kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được
mục đích, yêu cầu nhiệm vụ đã được xác định cho luận án.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu toàn diện về vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
trong bối cảnh nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN;
5


Luận án đã xây dựng những vấn đề lý luận cơ bản bổ sung vào hệ thống lý
luận khoa học về vai trò của Viện kiểm sát về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự;
Luận án luận giải được tác dụng của VKSND khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự;
Luận án xác định được những nội dung cơ bản trong vai trò của VKSND về giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự trên thực tiễn; các yếu tố cơ bản tác động
đến vai trò của VKSND về lĩnh vực này; những tồn tại, hạn chế, bất cập trong việc
thể hiện vai trò của VKSND về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự,
đồng thời chỉ ra những nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, hạn chế, bất cập đó

để đề xuất hệ thống các giải pháp khoa học phù hợp với điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam nhằm bảo đảm vai trò của của VKSND về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận
Với những kết quả nghiên cứu đạt được, luận án góp phần làm phong phú và
bổ sung những luận giải về vai trò của VKSND về giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự; đồng thời, luận án xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự là không thể
thiếu; khẳng định thiết chế kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự là sự thể hiện kiểm soát quyền lực về tư pháp, hạn chế đến mức thấp nhất
sự lạm quyền trong hoạt động tư pháp,có tác dụng bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ hoạt động
thực tiễn trong lĩnh vực này; đồng thời cũng là nguồn tài liệu để các cá nhân trong
xã hội nghiên cứu tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
Nội dung luận án có thể được tham khảo để biên soạn giáo trình, tài liệu
giảng dạy, bồi dưỡng, tuyên truyền, phổ biến pháp luật;
6


Luận án sẽ là tài liệu quan trọng cho các nhà nghiên cứu lập pháp, các nhà
khoa học pháp lý, những sinh viên chuyên ngành luật và những ai quan tâm đến
lĩnh vực này
7. Kết cấu của luận án
Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến luận án
Chương 2. Những vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 3. Thực trạng vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết

khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 4. Các giải pháp bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Kết luận

7


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án
- Criminal Justice Reform in Russia, Ukraine, and the Former Republics of
the Soviet Union: Trial by Jury and Mixed Courts [117], (Cải cách tư pháp hình sự
ở Liên bang Nga, U-cơ-rai-na, và các nước cộng hoà thuộc Liên Xô: xét xử bởi bồi
thẩm đoàn và toà án hỗn hợp) của tác giả Nikolai Kovalev, được nhà xuất bản
Edwin Mellen Press ấn hành năm 2010, có độ dày 642 trang. Cuốn sách nói về tiến
trình cải cách tư pháp ở Nga, U-cơ-rai-na, và những nước thuộc Liên Xô trước đây.
Những nước này đã trải qua tiến trình cải cách tư pháp từ khi Liên Xô và hệ thống
các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Ở các nước này, việc cải cách tư pháp là một
yêu cầu tất yếu đặt ra và từng nước đã có những bước đi phù hợp. Tuy nhiên, các
nước này đều có một điểm chung đó là rất đề cao vai trò của lực lượng Điều tra
viên. Có thể nói, xây dựng lực lượng Điều tra viên có đủ phẩm chất, năng lực là
một trọng tâm trong tiến trình xây dựng nền tư pháp ở các nước nói trên.
- The Australian Government investigation Standards package, Australian
Taxation Office, The Commonwealth of Australian, 2003 (Uỷ ban tiêu chuẩn
điều tra liên bang Ôx-trây-li-a (2003), Hướng dẫn của cơ quan thuế vụ Chính
phủ Ôx-trây-li-a về bộ tiêu chuẩn điều tra hình sự dành cho các Điều tra viên
của cơ quan này trong điều tra các vụ án hình sự theo thẩm quyền) [119].Bộ tiêu

chuẩn điều tra hình sự dành cho các Điều tra viên trong điều tra các vụ án hình sự
thuộc thẩm quyền (chủ yếu với các tội phạm liên quan đến tội phạm về thuế)
phù hợp với hướng dẫn của Uỷ ban tiêu chuẩn điều tra liên bang, được ban hành
theo thẩm quyền của Tổng công tố và cơ quan Cảnh sát liên bang (AFP), với sự
tham gia của các cơ quan có thẩm quyền và có liên quan. Theo đó, bên cạnh các
tiêu chuẩn về quy trình, thủ tục, thẩm quyền, tiêu chuẩn liên quan đến đạo đức nghề
8


nghiệp, tính liêm chính cũng được xác định trong mọi hoạt động trong giai đoạn
điều tra hình sự, nhất là trong khi tiến hành các hoạt động nghiệp vụ, bí mật, có tác
động trực tiếp đến quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức và các hình thức xử lý vi
phạm, lạm quyền, vi phạm đạo đức nghề nghiệp hoặc xung đột lợi ích cá nhân
trong quá trình Điều tra viên điều tra vụ án hình sự. Ngoài ra, các quy định về trách
nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan hỗ trợ CQĐT trong điều tra vụ án
hình sự.
- Carl B. Klockars, Sanja Kutnjak Ivkovich, William E. Harver, and Maria R.
Haberfeld, The Measurement of Police Integrity, Office of Justice Programs, National
Institute of Justice, U.S. Department of Justice, May 2000 (Carl B. Klockars, Sanja
Kutnjak Ivkovich, William E. Harver, và Maria R. Haberfeld, Biện pháp đo lường tính
liêm chính của Cảnh sát, Viện quốc gia nghiên cứu về tư pháp, Chương trình tư pháp
quốc gia, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, tháng 5/2000) [118] Nghiên cứu này phân tích làm rõ
hiểu biết về quy định liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật của nhân
viên Cảnh sát trong thực thi công vụ như: lạm dụng quyền lực, tham nhũng,
cản trở công lý và các hình thức xử lý vi phạm pháp luật đó, bao gồm các biện
pháp hình sự, hành chính, kỷ luật và trách nhiệm bồi thường dân sự. Bài viết
cũng phân tích tính phù hợp, mức độ thoả đáng của hình phạt, hình thức kỷ
luật, quy định về bồi thường dân sự và cơ chế báo cáo sai phạm, tố cáo, tố giác
tội phạm nhằm mục đích ngăn chặn, phòng ngừa các vi phạm pháp luật của
nhân viên Cảnh sát khi thi hành công vụ, trong đó có hoạt động điều tra hình

sự của Điều tra viên.
- Allan Y. Jiao, Controlling Corruption and Misconduct: A Comparative
Examination of Police Practices in Hong Kong and New York, Asian Criminology
(2010) 5:27-44 (Allan Y. Jiao, Kiểm soát tham nhũng và hành vi lạm quyền: nghiên
cứu so sánh hoạt động của Cảnh sát Hồng Kông và New York, Tạp chí Tội phạm
học châu Á, 2010, số 5) [116].Bài nghiên cứu này phân tích kinh nghiệm của lực
lượng Cảnh sát Hồng Kông (lãnh thổ Trung Quốc, nhưng có quy chế và pháp luật
riêng theo hệ thống luật án lệ) và Cảnh sát New York, Hoa Kỳ về chủ đề này.Theo
9


nội dung nghiên cứu, cả hai lực lượng Cảnh sát đều áp dụng một số biện pháp cơ
bản, theo đó là thành lập cơ quan độc lập nhằm xem xét, quyết định hành vi tham
nhũng và lạm quyền của lực lượng Cảnh sát. Về phòng, chống hành vi lạm quyền
của nhân viên Cảnh sát trong khi thực thi công vụ, Cảnh sát Hồng Kông có ba đơn
vị độc lập có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo với nhân viên Cảnh sát, gồm
cơ quan thanh tra, CQĐT và cơ quan giải quyết khiếu nại với nhân viên Cảnh sát;
Cảnh sát New York cũng có các đơn vị và chương trình tương tự, với chính sách,
thủ tục và quy định pháp luật rất chặt chẽ nhằm phòng, chống lạm quyền, tham
nhũng trong lực lượng Cảnh sát khi thi hành công vụ.
Như vậy, có thể thấy, các cơ chế kiểm soát, đánh giá chất lượng, hiệu quả và
tính liêm chính của lực lượng Cảnh sát thường được thành lập và vận hành bên
trong nội bộ lực lượng Cảnh sát. Cũng có các cơ chế kiểm soát bên ngoài lực lượng
Cảnh sát, thường là giám sát của cơ quan, tổ chức xã hội, của cá nhân, tổ chức có
liên quan và nhất là cơ quan dân cử.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước về khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự ở nước ngoài.
Các công trình chủ yếu tập trung vào nghiên cứu, phân tích các chế định về
trình tự, thủ tục, thẩm quyền tố tụng trong giải quyết vụ án, qua đó có nêu quyền
khiếu nại của người tham gia tố tụng đối với cơ quan, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng. Trong bài viết“Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự Liên ban Nga”
của tác giả Nguyễn Trọng Vĩnh [113] Theo tác giả, mô hình tố tụng hình sự (TTHS)
Liên bang Nga là mô hình TTHS tranh tụng, bởi vì Bộ luật TTHS Liên bang Nga ghi
nhận những nguyên tắc đặc trưng của tố tụng tranh tụng như nguyên tắc "Tranh tụng
giữa các bên", nguyên tắc "Suy đoán vô tội".Về khiếu nại, Điều 19 quy định nguyên
tắc bảo đảm "Quyền khiếu nại đối với các hoạt động và các quyết định tố tụng";
Điều 42 Người bị hại có quyền khiếu nại đối với hoạt động và quyết định của Điều
tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên và Tòa án; Điều 47 Bị can có quyền khiếu
nại đối với hoạt động và quyết định của Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán được tham gia vào việc giải quyết khiếu nại của Tòa án; Điều 56
10


Người làm chứng có quyền khiếu nại đối với hành vi và quyết định của Điều tra
viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên và Tòa án; Điều 59 Người phiên dịch có quyền
khiếu nại đối với hành vi và quyết định của Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát
viên và Tòa án; Điều 69 Người chứng kiến có quyền khiếu nại đối với hành vi và
quyết định của Điều tra viên, Dự thẩm viên và Kiểm sát viên. Pháp luật TTHS Liên
bang Nga chưa quy định quyền tố cáo và quyền kiểm sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của Viện kiểm sát.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự Trung Quốc, tác giả Hoàng Quỳnh Chi
[113] đã nêu Luật tố tụng hình sự Trung Quốc được Đại hội đại biểu nhân dân toàn
quốc khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ năm ngày 14/3/2012. Tố tụng hình sự Trung
Quốc có sự kết hợp giữa mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn nhưng thiên
về tranh tụng, thể hiện rõ nét ở quy định về thủ tục xét xử tại phiên tòa; trong giai đoạn
xét xử, phương pháp tranh tụng được đề cập khá cụ thể khi luật TTHS quy định các
thủ tục và trình tự để bên buộc tội, bên bào chữa đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, xét
hỏi các nhân chứng và tranh luận bình đẳng với nhau.Điều 95 Bị can, bị cáo có quyền
đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn; Điều 176 Người bị hại có quyền khiếu nại
quyết định không truy tố với Viện kiểm sát hoặc kiện ra Tòa án; Điều 110 Người tố

giác về tội phạm có thể đề nghị xét lại đối với việc không khởi tố vụ án nếu không
đồng ý; Điều 111 Người bị hại cho rằng cơ quan công an cần khởi tố điều tra vụ án
nhưng không khởi tố và khiếu nại đến Viện kiểm sát nhân dân, thì Viện kiểm sát
nhân dân phải yêu cầu cơ quan công an trình bày lý do không khởi tố vụ án. Nếu
Viện kiểm sát nhân dân cho rằng lý do không khởi tố vụ án của cơ quan công an là
không đúng thì phải thông báo để cơ quan công an để khởi tố vụ án, cơ quan công
an phải khởi tố vụ án sau khi nhận được thông báo. Như vậy, pháp luật tố tụng hình
sự Trung Quốc không quy định quyền tố cáo, nhưng lại quy định người bị hại có
quyền lựa chọn khiếu nại đến Viện kiểm sát hoặc khởi kiện ra Tòa án đối với quyết
định không truy tố của Viện kiểm sát.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp tác giả Mai Thanh
Hiếu [113] đã chỉ ra Cộng hòa Pháp theo mô hình tố tụng hình sự hỗn hợp. Giai
11


đoạn điều tra thiên về mô hình tố tụng thẩm vấn. Giai đoạn xét xử thiên về mô hình
tố tụng tranh tụng. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa pháp quy định 3 nhóm nguyên
tắc: (1) nguyên tắc chung của tố tụng hình sự: công minh, tranh tụng, công bằng
giữa các bên, phân quyền giữa công tố và xét xử; (2) nguyên tắc bảo đảm quyền
của người bị hại; (3) nguyên tắc bảo đảm quyền của người bị truy cứu trách nhiệm
hình sự: suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa, việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế, quyền được xét xử trong thời hạn hợp lý. Điều 113-1 người bị hại khiếu
nại việc xử lý của chủ thể tố tụng đối với người liên quan trong điều tra (Nhân
chứng được trợ giúp) nhưng chưa đủ căn cứ để khởi tố đối với họ. Địa vị pháp lý
nhân chứng được trợ giúp có thể được thẩm phán điều tra áp dụng cho người làm
chứng có dấu hiệu đã tham gia vào việc thực hiện tội phạm. Thẩm phán điều tra chỉ
được khởi tố bị can trong trường hợp không thể áp dụng tư cách nhân chứng được
trợ giúp.
So sánh pháp luật tố tụng hình sư Việt Nam và một số nước trên thế giới, tác
giả Nguyễn Quốc Việt trong bài viết "Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự

Việt Nam và một số nước trên thế giới” [111]tác giả đã tập trung so sánh thủ tục tố
tụng quyền năng, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng; trách nhiệm, quyền hạn của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng giữa Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam và một số nước trên thế giới. Trong đó có nêu quyền khiếu nại, tố cáo của các
chủ thể tham gia tố tụng. Tuy vậy, công trình mới nêu ở góc độ so sánh thủ tục tố
tụng, chưa phân tích sâu về khiếu nại, tố cáo.
Như vậy, các công trình nghiên cứu của tác giả mới chỉ dừng lại ở những nội
dung trình tự, thủ tục, thẩm quyền tố tụng. Còn về khiếu nại, tố cáo đối với hành vi,
quyết định tố tụng có được nêu ra nhưng chưa được phân tích sâu, chưa làm rõ vai
trò của Viện kiểm sát về lĩnh vực này.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu ở trong nước về khiếu nại, tố cáo
- Những nghiên cứu về quyền khiếu nại, tố cáo
Quyền khiếu nại, tố cáo được các tác giả tiếp cận nghiên cứu trên bình diện
lịch sử, chính trị, pháp lý về quyền con người, đặc điểm, bản chất, cơ chế pháp lý
12


bảo vệ quyền con người. Trong đó có bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư
pháp của các cơ quan tư pháp như bảo vệ quyền con người bị buộc tội và của người
bị hại trong tố tụng hình sự (quyền khiếu nại, tố cáo đối với quyết định, hành vi tố
tụng trong tố tụng hình sự và trách nhiệm giải quyết của cơ quan có thẩm quyền);
bảo vệ quyền con người bằng các hình thức pháp lý hành chính (quyền khiếu nại, tố
cáo đối với quyết định, hành vi hành chính và trách nhiệm giải quyết của cơ quan
có thẩm quyền) [112].
Cách tiếp cận lấy quyền con người làm trung tâm, tác giả Vũ Công Giao,
Ngô Minh Hương đã thể hiện trong tác phẩm “Tiếp cận dựa trên quyền con người –
Lý luận và thực tiễn” [24] tác giả đã tiếp cận, nghiên cứu dựa trên quyền con người
(Human Rights – Based Approach – HRBA) là một vấn đề có tính lý luận và thực
tiễn cao trong lĩnh vực nhân quyền. HRBA thể hiện các nội dung cơ bản là: cách
tiếp cận lấy quyền con người làm trung tâm; cách tiếp cận thúc đẩy phát triển và

đảm bảo công bằng xã hội cho con người qua đó trách nhiệm của nhà nước được
nhấn mạnh. Trong đó tác giả có nêu vấn đề tiếp cận quyền con người trong xây
dựng, thực hiện pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam như: Nguyên tắc đảm bảo
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng; Nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa
có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật...
Trong Chuyên đề: "Quyền lực của nhân dân và chủ quyền nhà nước thuộc về
nhân dân" [73] Tác giả Phan Xuân Sơn (Chủ biên) đã nêu lên các hình thức kiểm soát
hoạt động của nhà nước như: Bằng cơ quan đại diện; Bằng mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp; Bằng thanh tra nhân dân; Bằng quyền khiếu
nại, tố cáo... Quyền khiếu nại, tố cáo đã được tác giả rất coi trọng, được xem như là công
cụ để giám sát, đối trọng với các chủ thể của quyền lực nhà nước.
Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo được phân tích trong giáo trình cao cấp lý
luận chính trị, Tập 14, Chuyên đề 12 "Bảo đảm và đấu tranh trên lĩnh vực quyền
con người ở Việt Nam" [26]. Quyền khiếu nại, tố cáo được khẳng định tại Điều 30
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013). Thực tế mọi người có quyền
13


khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền phải
tiếp nhận giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường
vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm
việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu
khống, vu cáo làm hại người khác.
Trên góc độ tiếp cận quyền khiếu nại, tố cáo xuất phát từ quyền con người,
các tác giả Nguyễn Quốc Văn và Vũ Công Giao còn đưa ra các phân tích, lập
luận từ việc pháp luật quy định quyền khiếu nại, tố cáo nhưng cơ chế bảo vệ
quyền đó chưa được quy định cụ thể, rõ ràng dẫn đến chưa phát huy mạnh mẽ
quyền khiếu nại, tố cáo trên thực tiễn đời sống xã hội. Bộ luật hình sự năm 1999

sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Bộ luật hình sự năm 2015 đều có những quy định
về chế tài với những hành vi vi phạm đến quyền của người tố cáo, trong đó bao
gồm: cản trở hoặc xâm hại đến người tố cáo về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tài sản và các quyền hiến định khác. Đặc biệt, Điều 166 Bộ luật hình
sự năm 2015 quy định một tội danh riêng về xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy
định quyền khiếu nại, tố cáo nhưng các quy định trong tố tụng hình sự về bảo vệ
người tố cáo hiện còn tản mát, mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung, chưa cụ
thể; không đề cập trách nhiệm của cơ quan điều tra trong việc áp dụng các biện
pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo; không phân định trách nhiệm của bất kỳ
cơ quan nào trong bảo vệ người tố cáo [25tr.163].
Tác giả Đinh Hoàng Quang đưa ra một số kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện
Bộ luật tố tụng hình sự để phù hợp với đạo luật gốc để bảo đảm quyền con người
trong bài viết "Cần hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự
sửa đổi phù hợp các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân trong Hiến pháp năm 2013" [47]

14


- Những nghiên cứu về thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo
Tác giả Trần Văn Sơn, "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động giải quyết khiếu nại, tố cáo" trình bày khái niệm khiếu nại, tố cáo và hoạt
động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước; Quan niệm
về pháp chế xã hội chủ nghĩa; Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước; Thực trạng pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính
nhà nước ở Việt Nam; đồng thời, đưa ra những giải pháp tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành

chính nhà nước ở Việt Nam. Theo tác giả Trần Văn Sơn thì với hệ thống quy phạm
pháp luật về khiếu nại, tố cáo hoàn thiện sẽ là căn cứ để các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo; người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, tố cáo và các chủ thể khác tham gia quan hệ pháp luật khiếu nại, tố cáo
phải tự giác, nghiêm chỉnh thực hiện đúng đắn các quy định của pháp luật; có cơ
chế kiểm tra, giám sát; phòng chống và xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật
khiếu nại, tố cáo là biểu hiện của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải
quyết khiếu nại, tố cáo [74].
Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo
được tác giả Nguyễn Tiến Thịnh, (Chủ biên) phân tích trong cuốn sách "Công tác
dân vận trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân". Tác giả cho rằng khiếu
kiện của nhân dân vừa là bức xúc, vừa là lâu dài, là vấn đề nhạy cảm, việc xử lý
không chỉ thuần túy về quyền lợi ích kinh tế mà nó gắn chặt với công tác chính trị
tư tưởng và tổ chức, liên quan đến an ninh và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy giải
quyết phải chặt chẽ linh hoạt, vừa đảm bảo dân chủ, quyền và lợi ích chính đáng,
hợp pháp của nhân dân, lợi ích của nhà nước, không để kẻ xấu lợi dụng thành vấn
đề chính trị phức tạp.Do đó, ngoài trách nhiệm cơ quan có thẩm quyền giải quyết ra
các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cũng phải vào cuộc để đạt được hiệu
quả tốt [77].
15


Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự của các cơ
quan tư pháp được tác giả Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) bình luận trong "Giáo trình
luật tố tụng hình sự Việt Nam". Theo đó, Thủ trưởng Cơ quan điều tra giải quyết
những khiếu nại đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Phó thủ
trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng Viện kiểm sát giải quyết các khiếu nại, tố cáo
đối với hành vi quyết định của Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và
các khiếu nại đối với hành vi, quyết định tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra,
các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra do Viện kiểm sát phê chuẩn; Chánh án

Tòa án giải quyết đối với các khiếu nại, tố cáo hành vi, quyết định tố tụng của
Thẩm phán và Phó Chánh án [15].
Về trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, tác giả
Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên) đã phân tích trong “Những nội dung mới trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015" tuy không phải là nội dung chính, không được phân
tích sâu nhưng đã được tác giả so sánh giữa quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về khiếu nại, tố cáo [6].
- Những nghiên cứu về sự hiện diện của Viện kiểm sát nhân dân trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo
VKSND là cơ quan hiến định, quá trình hình thành và phát triển của
VKSND ở Việt Nam gắn với chức năng, nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước, nhân
dân giao phó. Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác của VKSND
qua 55 năm (26/7/1960-26/7/2015) tổ chức và hoạt động đã chỉ ra: trong những
năm gần đây (2010- 2014) số lượng công dân đến khiếu nại, tố cáo tại Viện kiểm
sát các cấp ngày càng nhiều hơn năm 2010 là 26.359 lượt, năm 2011 là 18.975 lượt,
năm 2012 là 21.421 lượt, năm 2013 là 22.548 lượt.Toàn ngành đã thụ lý 87.795 vụ
việc khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp, trong đó số vụ việc đề nghị kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp
của Tòa án chiếm tỷ lệ cao. Viện kiểm sát các cấp đã giải quyết 44.538 vụ việc (đạt
50,73%). Viện kiểm sát các cấp đã tiến hành kiểm sát trực tiếp việc giải quyết đơn
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp 2.381 lượt tại các cơ quan tư pháp; ban
16


hành 1.891 bản kháng nghị, kiến nghị yêu cầu các cơ quan tư pháp khắc phục vi
phạm [99].
Sự hiện diện của VKS về giải quyết khiếu nại, tố cáo được biểu hiện ở các
khía cạnh giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp. Trước khi Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ
sung năm 2001 thì chức năng của VKS rất rộng: thực hành quyền công tố và kiểm

sát cả lĩnh vực hành chính và tư pháp; sau khi Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001
thì chức năng của VKS được tập trung vào thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp. Theo đó, chức năng kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
cũng chỉ trong lĩnh vực hoạt động tư pháp. Theo Đề án"Đổi mới công tác tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư
pháp" năm 2014 và tài liệu tập huấn năm 2016 "Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tư pháp thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân và quy trình kiểm tra lại
quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật"của VKSND tối cao thì vai trò
của VKSND về giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp là rất quan trọng nếu sự phân
công trong nội bộ VKSND không khoa học, không khách quan sẽ mang lại hiệu lực,
hiệu quả thấp, vai trò của VKSND về lĩnh vực này sẽ mờ nhạt [102].
Trong tố tụng hình sự VKSND có vai trò rất rộng lớn, là cơ quan duy nhất
tham gia tất cả các giai đoạn tố tụng do vậy khó trách khỏi những khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động nghiệp vụ của mình; VKS ngoài việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
phát sinh trong hoạt động của chính mình, còn phải giám sát việc giải quyết khiếu
nại tố cáo thuộc thẩm quyền của các chủ thể khác trong tố tụng hình sự. Kết quả
giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp đã được tác giả Dương Thanh Biểu tổng kết,
đánh giá trong 6 năm, trước Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 và sau khi Hiến
pháp 1992 sửa đổi 2001 ngành Kiểm sát không còn chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế mà tập trung vào thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp [5].
Sự hiện diện của VKSND trong hoạt động kiểm sát và giải quyết khiếu nại,
tố cáo được các tác giả bình luận trên các tạp chí khoa học. Tác giả Lê Cảm và
17


Minh Phượng phân tích trong bài viết: “Về người khiếu nại, tố cáo và người bị
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự” [13], “Về thẩm quyền và thời hạn giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự”[14]; tác giả Lê Kim Dung trong bài viết “Bàn
về sự phối hợp của các cơ quan tư pháp trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo”

[22 ];tác giả Phạm Quốc Huy với các bài viết "Bàn về việc phân định thẩm quyền,
trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo"
[32]; bài viết "Về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [29]; bài viết "Cáo trạng của Viện kiểm sát bị
khiếu nại có phải là quyết định tố tụng được giải quyết theo quy định tại Điều 330
Bộ luật tố tụng hình sự" [34]; bài viết "Bàn về các khái niệm tố giác về tội phạm,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong Bộ luật tố tụng hình sự" [31]; bài
viết "Thực trạng và một số giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng hiệu quả
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự" [37]; tác giả Đoàn Tấn Minh trong bài viết “Những vướng mắc
khi giải quyết khiếu nại Quyết định không khởi tố vụ án hình sự ” đã nêu lên những
khó khăn, vướng mắc trong giải quyết khiếu nại đối với vụ việc cụ thể trong khi tiến
hành tố tụng. Cùng một quyết định không khởi tố nhưng có trường thì Thủ trưởng Cơ
quan điều tra giải quyết (trường hợp Phó thủ trưởng là người ký quyết định không
khởi tố vụ án hình sự bị khiếu nại), có trường hợp lại thuộc thẩm quyền giải quyết của
Viện trưởng VKS cùng cấp (trường hợp Thủ trưởng Cơ quan điều tra là người ký
quyết định không khởi tố vụ án hình sự bị khiếu nại) [44]; tác giả Hà Thái Hùng – Tạ
Hồng Hoa, bài viết “Một số vấn đề về công tác khiếu tố của Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao” đã chỉ ra những quan điểm khác nhau về chức năng, nhiệm vụ kiểm sát và
giải quyết khiếu nại, tố cáo ở VKSND cấp cao khi mới được thành lập theo Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 [28].
Sự phân công đơn vị chủ trì tham mưu kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của VKSND có sự thay đổi từ sau
khi Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quy chế số 51 ngày 02/02/2016. Theo
đó, tác giả Đoàn Mạnh Phong có bài viết " Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
18


×