Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Kiểm toán nội bộ- một nhân tố quan trọng cho quá trình phát triển của các doanh nghiệp và tổ chức hiện nay.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.25 KB, 30 trang )

Lời mở đầu
Cùng với sự phát triển đa dạng và phức tạp của các hoạt động sản xuất
kinh doanh đòi hỏi phải có những hình thức và phương pháp quản lý, kiểm soát
phù hợp để khắc phục những mặt trái của nó. Kiểm toán nội bộ ra đời là một
trong những xu hướng tất yếu để khắc phục những mặt trái đó. Nó là một trong
những yếu tố góp phần đảm bảo, duy trì tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu
lực trong các hoạt động kinh tế của các đơn vị, các doanh nghiệp thuộc các
ngành ở các lĩnh vực khác nhau trong xã hội.
Kiểm toán nội bộ ngày càng được hoàn thiện cùng với sự phát triên của
công tác kế toán. Sự ra đời và phát triển ngày càng mạnh mẽ của hệ thống kiểm
toán nội bộ đã và đang khẳng định vai trò cần thiết của nó trong nền kinh tế thị
trường, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Kiểm toán nội bộ đã giúp cho
các nhà quản lý có được những thông tin xác thực và kịp thời, phục vụ tốt cho
công tác quản lý và hoạch định chính sách, hạn chế rủi ro. Ở Việt Nam, Kiểm
toán nội bộ mặc dù là lĩnh vực còn mới mẻ song thực tế cho thấy công tác này
cũng đã bước đầu thu được những kết quả tích cực, đã và đang làm cho công tác
quản lý ngày càng hoàn thiện hơn. Nhận thức được vai trò của kiểm toán nội bộ
cũng như thấy được sự cần thiết đó, là sinh viên chuyên ngành kiểm toán tại
trường Đại học Kinh tế Quốc dân, được các thầy cô trang bị cho những kiến
thức cơ bản nhất em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài : “Kiểm toán nội bộ-
một nhân tố quan trọng cho quá trình phát triển của các doanh nghiệp và tổ
chức hiện nay”
Do còn hạn chế về nhận thức, về thời gian nghiên cứu và sự mới mẻ của đề tài,
chuyên đề ây em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong có sự đóng
góp ý kiến của các thầy cô giá.
1
Nội dung
Phần I : Lý luận chung
1. Tổng quan về kiểm toán.
1.1. Khái niệm về kiểm toán
Thuật ngữ “Kiểm toán” thực sự xuất hiện và được sử dụng ở nước ta từ hơn


chục năm cuối thế kỷ XX, vì vậy cách hiểu và cách dùng khái niệm chưa hoàn
toàn thống nhất. Tuy nhiên có thể rút ra những kết luận chung chủ yếu từ các
quan niệm khác nhau đó về kiểm toán.
• Kiểm toán là hoạt động độc lập, chức năng cơ bản của kiểm toán là xác
minh, thuyết phục để tạo niềm tin cho những người quan tâm vào những
kết luận kiểm toán cho dù những kết luận này có thể hướng vào những
mục tiêu cụ thể khác nhau như tính trung thực của thông tin( Information
audit ), tính quy tắc trong việc thực hiện các nghiệp vụ ( Regularity
audit ), tính hiệu quả ( Efficiency audit ) hay tính hiệu năng
( Effectiveness audit ) của hoạt động. Qua xác minh, kiểm toán viên bày
tỏ ý kiến của mình về những lĩnh vực tương ứng. Chức năng này quyết
định sự tồn tại của hoạt động kiểm toán.
• Với bản chất và chức năng trên, kiểm toán phải thực hiện mọi hoạt động
kiểm tra, kiểm soát những vấn đề liên quan đến thực trạng tài sản, các
nghiệp vụ tài chính và sự phản ánh của nó trên sổ sách kế toán cùng hiệu
quả đạt được. Những loại công việc này tự nó đã gắn chặt với nhau và đây
là luận cứ cho việc tổ chức kiểm toán khoa học
• Nội dung trực tiếp của kiểm toán trước hết và chủ yếu là thực trạng hoạt
động tài chính. Một phần của thực trạng này đã được phản ánh trên các
bảng khai tài chính và những tài liệu kế toán nói chung. Tuy nhiên, do
giới hạn về trình độ và kỹ thuật xử lý thông tin kế toán, có những phần
thông tin quan trọng khác về hoạt động tài chính chưa được phản ánh đầy
2
đủ trong các tài liệu. Vì vậy, trong mọi trường hợp cần tận dụng những
tài liệu kế toán như những bằng chứng đã có làm đối tượng trực tiếp của
kiểm toán ( kiểm tra chứng từ ). Trong trường hợp thiếu bằng chứng trực
tiếp này, kiểm toán cần sử dụng những phương pháp kỹ thuật để tạo lập
các bằng chứng kiểm toán ( kiểm tra ngoài chứng từ ).
• Để thực hiện chức năng trên trong phạm vi hoạt động tài chính với nhiều
mối quan hệ phức tạp đòi hỏi kiểm toán phải hình thành một hệ thống

phương pháp kỹ thuật riêng bao gồm cả những phương pháp kiểm toán
chứng từ ( cân đối, đối chiếu lôgic, diễn giải thông tin, quy nạp nguồn
thông tin…) và phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ ( điều tra, quan
sát, kiểm kê, thử nghiệm…) thích ứng với đối tượng ( nội dung ) của kiểm
toán và phù hợp với các quy luật và quan hệ của phép biện chứng.
• Kiểm toán là một hoạt động chuyên sâu, một khoa học chuyên ngành nên
hoạt động này phải được thực hiện bởi những người có trình độ nghiệp vụ
chuyên sâu về kiểm toán. Kiểm toán viên, giám định viên kiểm toán, thẩm
kế viên, kế toán viên công chứng. Đây là những kiểm toán viên chuyên
nghiệp hoạt động hay hành nghề theo pháp luật.
Từ những điều trình bày trên có thể kết luận : “ Kiểm toán là xác minh và bày
tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương
pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm
toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp
lý có hiệu lực”.
Kiểm toán không phải là hoạt động “Tự thân” và “vị thân” : Kiểm toán sinh ra
từ yêu cầu của quản lý và phục vụ cho yêu cầu của quản lý. Từ đó, có thể thấy
rõ ý nghĩa, tác dụng của kiểm toán trên nhiều mặt.
• Thứ nhất: Kiểm toán tạo niềm tin cho những “người quan tâm”. Trong cơ
chế thị trường, có nhiều người quan tâm tới tình hình tài chính và sự phản
ánh của nó trong tài liệu kế toán. Trong “Thế giới” của những người quan
3
tâm có cả các cơ quan nhà nước, các nhà đầu tư, các nhà quản lý, khách
hàng và người lao động…
• Thứ hai: Kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nền nếp
hoạt động tài chính kế toán nói riêng vầ hoạt động quản lý nói chung.
• Thứ ba: Kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý : Rõ
ràng, kiểm toán không chỉ xác minh rõ độ tin cậy của thông tin mà còn tư
vấn về quản lý. Có thể thấy đặc biệt rõ tác dụng của vai trò tư vấn này
trong kiểm toán hiệu năng và hiệu quả quản lý. Vai trò này phát huy đặc

biệt rõ trong các đơn vị được kiểm toán thường xuyên. Trong điều kiện
đó, việc tích luỹ kinh nghiệm qua thực tiễn sẽ là cơ sở cho những bài học
cho tương lai. Điều đó cũng có thể giải thích từ tính phức tạp và đa dạng
trong việc giải quyết các mối quan hệ kinh tế – xã hội trong các đơn vị
được kiểm toán. Đặc biệt trong nhưng bước chuyển đổi kinh tế, có nhiều
quan hệ mới, phức tạp nảy sinh. Trong cả nhận thức lẫn thực tiễn, có thể
thấy rõ tính phức tạp của các quan hệ này từ chính những đặc trưng của
kinh tế thị trường: Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng, công bằng xã hội,
phúc lợi xã hội không còn đủ các điều kiện thuận lợi duy trì và phát triển
trong cơ chế thị trường thuần tuý. Cạnh tranh là quy luật đạt tới lợi nhuận,
nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, cạnh tranh và bình đẳng trước pháp
luật. Kinh tế mở cửa, đa phương hoá, đầu tư và mở rộng, các quan hệ
quốc tế có lợi ích kinh tế trực tiếp song không phải mọi quan hệ này đều
chỉ đơn thuần về kinh tế… Đặc biệt trong điều kiện mới chuyển đổi cơ
chế kinh tế, hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh, kinh nghiệm và chuyên gia
giỏi về quản lý chưa có nhiều. Trong điều kiện đó , duy trì kỷ cương và
bảo đảm phát triển đúng hướng và chỉ có thể có được trên cơ sở xây dựng
đồng bộ và tổ chức thực hiện tốt kiểm toán trên mọi lĩnh vực để trên cơ sở
tích luỹ kinh nghiệm từ xác minh đi đến tư vấn cho mọi lĩnh vực hoạt
động.
4
Từ tất cả những điều trình bày trên, có thể thấy rõ kiểm toán có ý nghĩa lớn
trên nhiều mặt: Đó là “quan toà công minh của quá khứ”, “người dẫn dắt cho
hiện tại” và “người cố vấn sáng suốt cho tương lai”.
1.2. Phân loại kiểm toán .
Để có nhận thức rõ hơn về kiểm toán và có cơ sở tổ chức tốt công tác kiểm
toán cần hiểu được các loại kiểm toán. Kiểm toán có thể phân ra nhiều loại theo
các tiêu thức khác nhau.
• Theo đối tượng cụ thể, kiểm toán có thể phân thành kiểm toán ( báo
cáo ) tài chính, kiểm toán nghiệp vụ ( hoạt động ) và kiểm toán liên

kết.
• Theo lĩnh vực cụ thể của kiểm toán có thể phân kiểm toán thành
kiểm toán thông tin, kiểm toán qui tắc ( tuân thủ ), kiểm toán hiệu
năng và kiểm toán hiệu quả.
• Theo phạm vi tiến hành kiểm toán, có thể phân kiểm toán thành
kiểm toán toàn diện và kiểm toán chọn điểm ( điển hình ).
• Theo tính chu kỳ của kiểm toán, có thể phân kiểm toán thành kiểm
toán thường kỳ, kiểm toán định kỳ và kiểm toán bất thường ( đột
xuất ).
• Theo quan hệ pháp lý của kiểm toán, có thể có kiểm toán bắt buộc
và kiểm toán tự nguyện.
• Theo tổ chức bộ máy kiểm toán, có thể phân kiểm toán thành kiểm
toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ.
2. Khái quát chung về kiểm toán nội bộ (KTNB).
2.1. Khái niệm.
ở Australia, khái niệm về KTNB được nêu trong chuẩn mực kiểm toán
AUS 104 là: “ KTNB được xem là hoạt động thẩm định độc lập, được thiết lập
cùng với 1 tổ chức và là 1 dịch vụ đối với tổ chức đó. Chức năng của KTNB là
5
xem xét, đánh giá và thông báo tính thích hợp và tính hiệu quả của hệ thông
kiểm soát nội bộ”.
Đây là một quan điểm truyền thống, nó nhìn nhận KTNB từ góc độ của
các kiểm toán viên độc lập, bên ngoài tổ chức, vì vậy KTNB được coi như là
một bộ phận hợp thành môi trường kiểm soát. Khái niệm này còn được bổ sung
thêm ở phần 2 - chuẩn mực số 106 của AUS. Khi nó nêu lên vai trò của KTNB
là xem xét và đánh giá.
• Hệ thống kiểm soát và thông tin nội bộ.
• Thông tin tài chính và thông tin nghiệp vụ.
• Tính kinh tế , tính hiệu quả và tính hiệu năng của hoạt động.
• Việc tuân thủ các quy tắc phù hợp của tổ chức.

• ở một số nước mà kiểm toán nội bộ chưa phát triển thì quan điểm
về KTNB còn rất hạn chế . Nói chung KTNB được xem là hoạt
động kiểm tra.
KTNB là hoạt động kiểm tra , giám sát của bộ máy quản lý , điều hành
trong doanh nghiệp . Đó là công việc thường xuyên , hàng ngày gắn liền với
chức năng hoạt động của mỗi người trong bộ máy điều hành , như giám đốc
kiểm tra trước khi ký hợp đồng kinh tế , kế toán kiểm tra trước khi lập phiếu
chi , thủ kho kiểm tra chứng từ trước khi xuất hàng … KTNB có tác dụng thiết
thực , trực tiếp với doanh nghiệp vì mỗi người kiểm tra có điều kiện tiếp cận với
mọi thông tin , sát thực tế , hoặc có quyền từ chối trước khi hoạt động kinh tế
xảy ra , hoặc có quyền báo cáo những phát giác của mình cho người đứng đầu
doanh nghiệp . Điều đó có thể hạn chế ngăn ngừa một cách hữu hiệu những thiệt
hại trước khi có thể xảy ra .
Việc kiểm tra của cơ quan cấp trên doanh nghiệp , xét trong giác độ ngành
, chính là KTNB phục vụ việc điều hành của người đứng đầu ngành .
Về lý thuyết , KTNB là các quy định về tổ chức bộ máy quản lý , quy
định về chức năng nhiệm vụ , quyền hạn và phương pháp tham gia điều hành
6
doanh nghiệp . Trên thực tế , hoạt động của từng người , từng bộ phận trong bộ
máy quản lý , chính là hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Hạn chế của KTNB là không đưa ra lời nhận xét tổng quát , toàn diện về
các thông tin tài chính , nhưng lại xét nhiều thông tin kinh tế , quản trị và nghiệp
vụ liên quan đến hoạt động kinh doanh của đơn vị .
Một trong những nhiệm vụ của KTNB là kiểm tra chất lượng hoạt động
của hệ thống kiểm soát nội bộ. Nếu hoạt động tốt sẽ hạn chế các rủi ro và công
việc của kiểm toán viên đọc lập sẽ giảm nhẹ hơn theo tỷ lệ nghịch.
Theo chuẩn mực hành nghề KTNB của học viện các kiểm toán viên nội
bộ thì KTNB là một hoạt động bảo đảm và cố vấn độc lập , khách quan được
thiết kế để tăng cường và cải thiện các hoạt động của tổ chức . Nó giúp một tổ
chức hoàn thành các mục tiêu đặt ra thông qua hệ thống phương pháp để đánh

giá và cải thiện tính hiệu quả của quá trình quản lý , kiểm soát và điều chỉnh .
Đây là khái niệm phản ánh cái nhìn mới , phù hợp hơn với vai trò đã phát
triển đến hiện nay của KTNB.
2.2. Đặc trưng của KTNB .
2.2.1. Chủ thể KTNB .
Để thực hiện hoạt động KTNB , mỗi tổ chức phải thành lập bộ máy
KTNB.
Bộ máy KTNB là hệ thống tổ chức của các kiểm toán viên do đơn vị tự
lập ra theo yêu cầu quản trị nội bộ và thực hiện nền nếp , kỷ cương quản lý .
Để tổ chức và quản lý hoạt động KTNB trong bộ máy lãnh đạo cao nhất
của đơn vị phải cử ra những người phụ trách công việc này . Theo yêu cầu đó ,
thông thường một uỷ ban kiểm toán được lập ra do một tẩp thể thường bao gồm
ba thành viên hội đồng quản trị phụ trách . Trong trường hợp cần thiết , hội đồng
quản trị có thể quyết định thuê các chuyên gia kiểm toán tham gia hoặc tư vấn
cho uỷ ban .
Uỷ ban kiểm toán , vừa có trách nhiệm trong tổ chức hoạt động KTNB
( nội kiểm ) , vừa có trách nhiệm tạo lập mối quan hệ với chủ thể kiểm toán tài
7
chính từ bên ngoài ( ngoại kiểm ) . Trong trường hợp không có hội đồng quản trị
, chủ đầu tư hoạc người đựơc uỷ quyền phụ trách sẽ chỉ đạo công tác kiểm toán .
Tất nhiên , uỷ ban kiểm toán hoạc người phụ trách chỉ có chức năng tổ chức ,
chỉ đạo công việc kiểm toán . Người thực hiện KTNB là những kiểm toán viên
trong đơn vị hoặc chuyên gia ( giám định viên kế toán ) từ bên ngoài . Từ đó có
thể có hai mô hình cơ bản là hội đồng hay bộ phận KTNB và giám định viên kế
toán ( hoặc giám sát viên nhà nước ) .
Hội đồng hay bộ phận KTNB ( Internal Auditing Department ) là mô hình
phổ biến đặc biệt ở các nước Bắc Mỹ . Thành viên của bộ phận này là các kiểm
toán viên nội bộ . Số lượng và cơ cấu các thành viên tuỳ thuộc vào qui mô của
đơn vị , vào nhiệm vụ KTNB cụ thể trong từng thời kỳ . Hội đồng có nhiệm vụ
thực hiện tất cả các công việc do uỷ ban kiểm toán giao cho kể cả việc xây dựng

hoặc hoàn thiện qui chế KTNB ( nếu có ) , tổ chức thực hiện đều đặn và có hiệu
lực qui chế đã ban hành và cả công việc đột xuất khác .
Mô hình này có nhiều ưu điểm và rất thích hợp với các doanh nghiệp có
qui mô lớn . Tuy nhiên , điều kiện tiên quyết để phát huy ưu việt này là chất
lượng kiểm toán viên nội bộ .
Kiểm toán viên nội bộ khi thực hiện công việc thì họ phải có tính độc
lập . Tính độc lập cho phép kiểm toán viên nội bộ có những phán đoán khách
quan và không thành kiến , cần thiết để tiến hành đúng đắn những cuộc kiểm
toán . Nhưng muốn có tính độc lập kiểm toán viên nội bộ phải được sự ủng hộ
của ban giảm đốc và hội đồng quản trị để họ có được sự cộng tác của những bộ
phận được kiểm toán và để công việc của họ không bị can thiệp . Đồng thời
kiểm toán viên nội bộ được yêu cầu thực hiện các cuộc kiểm toán một cách
trung thực và không được có một sự thoả hiệp nào về lượng đáng kể nào xảy ra .
Họ không được để mình lâm vào tình trạng không có khả năng nhận định nghề
nghiệp một cách khách quan . Vì thế trong các cuộc kiểm toán , việc phân công
phải tránh sự mâu thuẫn về quyền lợi cũng như kiẻm toán viên nội bộ luôn được
yêu cầu phải báo cáo định kỳ những thông tin cho người phụ trách về những
8
mâu thuẫn đang , sẽ xảy ra . Đặc biệt kiểm toán viên nội bộ không được đảm
nhận công việc nghiệp vụ khác cũng như kiểm toán viên nội bộ không nên trở
lại kiểm toán bộ phận mà trước đây kiểm toán viên này có quyền hay có trách
nhiệm . Vì như vậy kiểm toán viên nội bộ có khả năng sẽ thiên vị do đã có liên
quan .
Về mặt chuyên môn , kiểm toán viên nội bộ phải có kiến thức , kỹ năng ,
kỷ luật cần thiết để thực hiện công việc kiểm toán . Cụ thể kiểm toán viên nội bộ
phải tinh thông nghiệp vụ trong việc áp dụng các chuẩn mực , thủ tục và thuật
KTNB ; Tinh thông nguyên tắc và nghiệp vụ kế toán ; Hiểu biết nguyên tắc quản
lý để nhận thức và đánh giá thực chất và tầm quan trọng của những sai lệch
trong thực tế kinh doanh ; nhận thức rõ những nguyên tắc cơ bản của các vấn đề
kế toán , kinh tế , luật thương mại , hệ thống thuế , tài chính , các phương pháp

định lượng hệ thống thông tin được chương trình hoá .
Ngoài ra kiểm toán viên nội bộ phải có nhiều đức tính quan trọng khác.
Muốn trao đổi ý kiến có hiệu quả thì kiểm toán viên nội bộ phải là người khéo
ứng xử khi tiếp xúc , phải nắm vững và duy trì mối quan hệ thoả đáng với các bộ
phận được kiểm toán . Để không bị lạc hậu hay đào thải của nghề này , kiểm
toán viên nội bộ phải không ngững học tập để duy trì trình độ thành thạo của
mình trong thế giới năng động và thường xuyên thay đổi hiện nay . Bên cạnh đó
kiểm toán viên phải rèn luyện tính thận trọng nghề nghiệp đúng mực để có thể
thích ứng với sự phức tạp của nhiệm vụ kiểm toán .
Mô hình thứ hai là sử dụng giám định viên kế toán ( hoặc giám sát viên
nhà nước ) là mô hình ứng dụng phổ biến ở các xí nghiệp nhà nước và các doanh
nghiệp có qui mô nhỏ . Trong trường hợp này , người thực hiện công việc kiểm
toán có thể là kiểm toán viên chuyên nghiệp ( hành nghề ) thậm chí ở một số
nước trong các xí nghiệp công và doanh nghiệp nhà nước được biên chế trong
bộ máy kiểm toán nhà nước .
Mô hình này rất thích hợp với các xí nghiệp công , các doanh nghiệp có
qui mô nhỏ không cần biên chế kiểm toán viên nội bộ . Nó phát huy được thế
9
mạnh nghề nghiệp của các chuyên gia giỏi . Tuy nhiên trong trường hợp này chi
phí kiểm toán thường cao do phải thuê nhân viên . Mặt khác , do công việc
KTNB cũng do số ít chuyên gia có trình độ cao đảm nhiệm nên cần chú trọng
đảm bảo tính khách quan trung thực của kiểm toán viên bằng các phương pháp
bổ sung như kiểm tra chéo , định kỳ thay đổi nơi làm việc của các kiêmt toán
viên tăng cường trách nhiệm của kiểm tra bên ngoài …
Như vậy chủ thể của KTNB là các kiểm toán viên nội bộ nằm trong bộ
máy KTNB cả đơn vị tổ chức đó hoặc là các giám định viên kiểm toán thuê
ngoài . Dù là một nhân viên của tổ chức hay người ngoài , dù đã có chứng chỉ
kiểm toán viên nội bộ hay chưa thì họ cũng phải là người có sự thành thạo về
mặt chuyên môn và phải tuân thủ các yêu cầu đạo đức nghề nghiệp rất chặt chẽ .
Điều đó giúp cho công việc kiểm toán tiến hành hiệu quả hơn , phục vụ tót hơn

cho nhu cầu quản lý trong doanh nghiệp cũng như các cơ quan chức năng của
nhà nước .
2.2.2. Lĩnh vực hoạt động của KTNB .
Theo chuẩn mực chung số 300 đã xác định rõ KTNB sẽ xem xét , đánh
giá tính đầy đủ và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức và chất
lượng thực hiện trách nhiệm được giao . Tuy nhiên , tuỳ theo yêu cầu của ban
giám đốc và hội đồng quản trị mà KTNB trong từng tổ chức sẽ phải tuân theo
định hướng công việc nhất định . Nhưng có thể thấy các lĩnh vực công việc mà
hầu hết các hệ thống KTNB thường có trách nhiệm thực hiện là:
Thẩm tra tính xác thực và tính toàn vẹn của thông tin tài chính , thông tin
nghiệp vụ và các phương tiện đã sử dụng để xác định , định lượng , phân loại và
báo cáo thông tin đó .
Thẩm tra các hệ thống đã thiết lập để bảo đảm sự tuân thủ các chính sách ,
kế hoạch , thủ tục , pháp luật , các quy định có ảnh hưởng quan trọng tới các
nghiệp vụ , các báo cáo và phải xác định tổ chức có làm theo đúng không .
10
Thẩm tra các biện pháp sử dụng để bảo vệ tài sản , tránh tổn thất do các
hành vi trộm cắp , hoả hoạn , sử dụng sai hoặc bất hợp pháp , thẩm tra sự vạch
trần các yếu tố này . Khi cần thiết thì thẩm tra sự tồn tại của những tài sản đó .
Đánh giá tính tiết kiệm và tính hiệu quả của các nguồn nhân lực được sử
dụng . Điều này có nghĩa là ban giám đốc chịu trách nhiệm đề ra những chuẩn
mực điều hành để định lượng việc sử dụng các nguồn nhân lực tiết kiệm và hiệu
quả của một hoạt động , còn kiểm toán viên nội bộ chịu trách nhiện xem xét xem
: Các chuẩn mực tác nghiệp đố được thiết lập để đo lường tiết kiệm và hiệu quả
không ; Các chuẩn mực đã thiết lập thì có được thực hiện không ; Những sai
lệch so với các chuẩn mực đã thiết lập có được xác định , phân tích và báo cáo
cho người có trách nhiệm để sửa sai hay không . Mặt khác kiểm toán viên phải
xác định những tình trạng khác như : Cơ sở vật chất có được tận dụng tối đa ;
công việc có năng suất hay không? Các thủ tục có tốn kém không? Nhân viên
thừa hay thiếu.

Kiểm toán viên nội bộ phải xem xét các hoạt động hoặc chương trình để
khẳng định kết quả có đáp ứng mục tiêu và mục đích đã định không , các nghiệp
vụ hoặc chương trình có thực hiện đúng kế hoạch không .
Như vậy yếu tố chủ yếu liên quan tới các lĩnh vực hoạt động là việc hoàn
thành các mục tiêu của mình để hỗ trợ ban giám đốc thông qua việc xem xét ,
đánh giá các công việc kiểm soát nội bộ khác nhau . Tuỳ vào từng tổ chức , ban
giám đốc có thể thay đổi hoặc yêu cầu kiểm toán viên nội bộ thực hiện phạm vi
công việc khác nhau nhưng kiểm toán viên nội bộ vẫn phải tập trung vào các
khía cạnh nêu trên của hệ thống kiểm soát nội bộ. Trong tát cả các mối liên quan
này thì kiểm toán viên nội bộ giữ vai trò tham vấn còn ban giám đốc phải chịu
trách nhiệm về việc sử dụng các nguồn lực phục vụ lợi ích tối đa của tổ chức .
3. Sự cần thiết của KTNB đối với các tổ chức.
Mọi hoạt động , trong đó có hoạt động kiểm soát như KTNB xuất hiện
trong thực tế đều là kết quả của nhu cầu này sinh . Với sụ phát triển tự nhiên,
11
các nghiệp vụ trong doanh nghiệp ngày càng có khối lượng nhiều và phức tạp ,
nên người chủ sở hữu và quản lý cao cấp trong thực tế không thể dễ dàng tiếp
xúc với các nghiệp vụ đó để kiểm tra hiệu quả của hoạt động một cách vừa ý
được . Mặc dù ông chủ có thể xây dựng một hệ thống và muốn có cái nhìn phán
quyết qua hệ thống đó , thì vẫn cứ khó cho ông ta khi muốn biết lợi ích của
doanh nghiệp có được phục vụ xứng đáng hay không . Những quy tắc đã định ra
có được tuân thủ không? Công nhân viên làm việc có hiệu năng hay không ?
Liệu tài sản có được đảm bảo an toàn không ? Những quy tắc hiện hành có còn
hiệu lực khi điều kiện thay đổi không ? Câu trả lời sau cùng cho những yêu cầu
đó là ông chủ cần có sự trợ giúp . Việc giúp đỡ này phải giao cho một hay một
số người chịu trách nhiệm trực tiếp kiểm tra các hoạt động và báo cáo lại theo
như các câu hỏi trên . Như vậy là , hoạt động kiểm toán nội bộ đã đi vào thực tế
một cách chính thức và rõ ràng. Việc luôn tồn tại một nhu cầu chung về dịch vụ
KTNB có lẽ là đã rất rõ ràng dù đó là loại hình tổ chức gì , hoạt động với mục
tiêu gì . Điều này có nghĩa là , mọi tổ chức , doanh nghiệp có tồn tại trách nhiệm

quản lý đều cần có KTNB . Mục tiêu của các tổ chức có thể là tìm kiếm lợi
nhuận , mục tiêu nhân đạo xã hội hoặc tiến hành một nhiệm vụ của chính phủ .
Trong tất cả các trường hợp , khi các đơn vị có các nhu cầu bảo vệ – tức là làm
sao để các hoạt động trên được tiến hành đúng các chính sách , thủ tục và được
tiến hành theo cách thức phản ánh các tiêu chuẩn phù hợp , cũng như nhu cầu về
nâng cao chất lượng hoạt động , hay tìm ra phương thức tối ưu hoá việc sử dụng
các nguồn lực trong điều kiện hạn chế của thị trường , thì cần có bộ phận KTNB
liên quan tương ứng.
Có thể thấy từ điểm khởi đầu , khi KTNB chỉ được xem như là một hoạt
động đơn lẻ ở cấp thấp và trong đa số trường hợp tồn tại với tư cách là một bộ
phận cấu thành của các chức năng kế toán ; KTNB đã định hình một cách vững
chắc - được nhìn nhận như một nhiệm vụ không thể thiếu trong mọi lĩnh vực của
tổ chức , kể cả các đơn vị tư nhân ; Nó cũng trở thành một hoạt động chuyên
12

×