Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
điều đó đã đem lại cho nền kinh tế nước ta nhiều cơ hội và thách thức mới. Trong
bối cảnh toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng, hoạt động kinh doanh trong nước trở
nên năng động hơn bao giờ hết. Trong đó, ngành tài chính ngân hàng có sự chuyển
biến mạnh mẽ và trở thành tâm điểm chú ý của toàn xã hội. Trong thời gian này,
những NHTM cổ phần ngoài quốc doanh mở rộng mạng lưới chi nhánh, tăng vốn
điều lệ và tiến hành cổ phần hoá. Tất cả vấn đề này đã tạo nên môi trường cạnh
tranh sôi động trong lĩnh vực ngân hàng. Các ngân hàng với chức năng “đi vay để
cho vay” đã nhanh chóng mở rộng các loại hình sản phẩm dịch vụ để thu hút vốn
nhàn rỗi trong nền kinh tế, đồng thời đẩy mạnh hoạt động tín dụng để lấy thu bù
chi.
Hoạt động tín dụng là hoạt động truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn trong thu
nhập của NHTM. Nhưng hoạt động tín dụng lại chứa đựng rất nhiều rủi ro, bởi vì nó
có mối quan hệ với các cá nhân, tổ chức khác trong toàn bộ nền kinh tế. Các cá nhân
hay tổ chức hoạt động kinh doanh luôn chứa đựng nhiều rủi ro thậm chí là phá sản,
cho nên khi đặt mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng - khách hàng thì rủi ro tiềm ẩn
mà ngân hàng phải gánh chịu là hiển nhiên.
Muốn tồn tại và phát triển, các ngân hàng cần phải thiết lập một hệ thống
kiểm soát chặt chẽ nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng nói riêng cũng
như rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung. Hệ thống KTNB ra đời và phát
triển phải đáp ứng yêu cầu đó. Phải phát huy hết sức hiệu quả kiểm tra, giám sát
nội bộ và tư vấn hoạt động cho ngân hàng. Từ đó nâng cao hiệu quả công tác tín
dụng cũng như quản lý điều hành trong hoạt động tín dụng.
Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta KTNB là một vấn đề khá mới mẻ với nhiều
nhà quản lý và nó chưa được quan tâm đúng mức, chưa phát huy hết các chức năng
của KTNB. Cũng như hệ thống các NHTM Việt Nam, công tác KTNB tại
SVTH: Cao Hải Vân
1
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc bên cạnh những ưu điểm đạt được còn
không ít những hạn chế. Vì vậy, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay, công
tác KTNB hoạt động tín dụng hiệu quả sẽ giúp Chi nhánh góp phần hạn chế những
rủi ro trong kinh doanh, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững.
Nhận thức được sự cần thiết và vai trò của KTNB đối với hoạt động ngân
hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, cùng với kiến thức đã được trang
bị trong quá trình 4 năm học tại nhà trường, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài:
“Nâng cao chất lượng KTNB hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh
Huyện Phú Lộc” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu sau:
- Đề tài đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán và kiểm toán
nội bộ hoạt động tín dụng trong NHTM.
- Đề tài tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng KTNB hoạt động tín dụng
tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng KTNB hoạt động tín
dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là công tác KTNB hoạt động tín dụng
tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: 2007 – 2009
- Nội dung: hoạt động KTNB của NHTM, thực trạng công tác KTNB hoạt
động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
- Địa điểm nghiên cứu: tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc, tỉnh
Thừa Thiên Huế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tôi đã sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
SVTH: Cao Hải Vân
2
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để tìm
hiểu và hệ thống hoá lý luận về NHTM, đánh giá thực trạng KTNB hoạt động tín
dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh Phú Lộc.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này nhằm xử lý các số liệu thu thập
được dùng để tiến hành đối chiếu, so sánh số liệu giữa các năm, sự tăng giảm các
chỉ tiêu qua các kỳ phân tích.
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: Hỏi trực tiếp người cung cấp thông tin,
dữ liệu cần thiết cho đề tài nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng trong giai
đoạn thu thập những thông tin cần thiết và số liệu thô liên quan đến đề tài.
- Phương pháp kiểm toán hệ thống: Là phương pháp kiểm toán trong đó các
thủ tục, kỹ thuật kiểm toán được thiết lập để thu thập các bằng chứng về tính hiệu
lực của hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán.
- Phương pháp kiểm toán cơ bản: Là phương pháp kiểm toán trong đó các
thủ tục kiểm toán được thiết kế nhằm thu thập bằng chứng có liên quan do hệ
thống kế toán xử lí và cung cấp.
6. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, khoá luận có bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán và kiểm toán nội bộ
hoạt động tín dụng trong NHTM.
Chương 2: Thực trạng KTNB hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi
nhánh huyện Phú Lộc.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng KTNB hoạt động tín dụng tại
NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
SVTH: Cao Hải Vân
3
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
PHẦN II – NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM TOÁN
VÀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRONG NHTM
1.1 Tổng quan về kiểm toán
1.1.1 Sơ lược về sự ra đời và phát triển của kiểm toán
Trên thế giới, thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, từ khi xuất hiện nhu cầu xác
định tính trung thực, độ tin cậy của thông tin trong báo cáo tài chính, kế toán và thực
trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Từ nền văn minh Ai Cập và La
Mã cổ đại, đã xuất hiện kiểm toán cổ điển bằng cách những người làm công việc ghi
chép kế toán đọc những số liệu, tài liệu cho bên độc lập nghe và nhận xét. Vì vậy,
trong tiếng Anh từ Audit (kiểm toán), có gốc Latinh là Auditus (nghe).
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, kiểm toán đã rất phát triển từ thế kỷ
XVIII, XIX. Riêng trong nền kinh tế các quốc gia thuộc hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa, do có một thời gian dài có một số quan niệm hết sức duy ý chí về một
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nên kiểm toán cũng là một lĩnh vực không được xem
xét đến (xem như không cần thiết). Tuy nhiên, những quan niệm ấy càng bộc lộ
những yếu kém, không phù hợp với quy luật khách quan và kiểm toán đã ra đời, đi
vào hoạt động bắt đầu từ Nga, các nước Đông Âu, Trung Quốc… Tại Việt Nam,
kiểm toán cũng mới chỉ thực sự có những hoạt động cụ thể từ khoảng hơn 10 năm
nay mà thôi. Kiểm toán Việt Nam được chính thức xuất hiện từ tháng 5 năm 1991
với các Công ty kiểm toán độc lập, tháng 11 năm 1994 với kiểm toán Nhà nước và
tháng 11 năm 1997 với kiểm toán nội bộ.
Trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam, thuật ngữ kiểm toán mới xuất hiện từ
những năm cuối của thập kỷ 80 của thế kỷ XX và phát triển dần theo sự phát triển
và đổi mới nền kinh tế. Trước khi có luật bổ sung sửa đổi: Luật các tổ chức tín
dụng Việt Nam, trong hệ thống ngân hàng nước ta chưa định hình hệ thống kiểm
soát nội bộ mà chỉ có hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng và đến
SVTH: Cao Hải Vân
4
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
năm 1999, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 03/1998/QĐ-NHNN3
ngày 03/01/1998: “Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội
bộ trong các TCTD hoạt động tại Việt Nam”.
Theo quy định tại Quyết định số 03 nêu trên của NHNN, TCTD phải lập hệ
thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ thuộc hệ điều hành, giúp Tổng giám đốc (Giám
đốc) điều hành thông suốt, an toàn và đúng pháp luật hoạt động nghiệp vụ của
TCTD.
Các TCTD phải kiểm tra thường xuyên việc chấp hành pháp luật và các quy
định nội bộ; kiểm tra trực tiếp các hoạt động nghiệp vụ trên tất cả các lĩnh vực tại
Sở giao dịch, Chi nhánh, Văn phòng đại diện và các công ty trực thuộc. TCTD phải
kiểm toán hoạt động nghiệp vụ từng thời kỳ, từng lĩnh vực nhằm đánh giá chính xác
kết quả hoạt động kinh doanh và thực trạng tài chính của TCTD.
Kết quả kiểm tra, kiểm toán nội bộ phải báo cáo kịp thời với Tổng giám
đốc (Giám đốc), Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Cũng theo quy định trên, tổ
chức bộ máy kiểm tra nội bộ trực thuộc Tổng giám đốc (Giám đốc) của TCTD.
Căn cứ Luật TCTD và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các
TCTD năm 2004, ngày 1 tháng 8 năm 2006, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết
định số 36/2006/QĐ-NHNN ban hành Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của
TCTD và Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ
của các TCTD.
1.1.2 Khái niệm và bản chất của kiểm toán
Như trên đã nêu, kiểm toán mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam trong những năm
gần đây, với những kinh nghiệm học hỏi từ những nước khác nhau, những tài liệu
khác nhau và với những suy nghĩ chủ quan khác nhau nên dẫn tới có những quan
niệm khác nhau về kiểm toán. Có thể khái quát thành ba quan điểm chính như sau:
Quan điểm thứ nhất: Kiểm toán được đồng nghĩa với kiểm tra kế toán. Nội
dung của hoạt động này là rà soát các thông tin kế toán, chứng từ kế toán và tổng
hợp cân đối kế toán. Thực ra, đây là một chức năng vốn có của bản thân kế toán.
Quan điểm này chỉ tồn tại vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới, thời kỳ chúng
SVTH: Cao Hải Vân
5
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
ta bắt đầu chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước.
Quan điểm thứ hai: Là quan điểm theo các tác giả Alvin A.Arens và James
K.Loebbecker: “Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập có thẩm quyền thu
thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một
đơn vị cụ thể, nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các
thông tin với các chuẩn mực đã được thiết lập”. Đây là quan điểm phát sinh cùng
với sự ra đời của cơ chế thị trường và được sử dụng trước tiên tại các nước sớm có
nền kinh tế thị trường phát triển.
Quan điểm thứ ba: Trong thời kỳ nền kinh tế thị trường đã phát triển mạnh
mẽ, người quan tâm đến thông tin kinh tế - tài chính của đơn vị không chỉ có Nhà
nước mà còn có cả các chủ thể khác trong nền kinh tế. Hơn nữa, đôi khi đối tượng
kiểm toán không chỉ là các thông tin mang tính định lượng. Chính vì vậy, theo
quan điểm này, kiểm toán có phạm vi rất rộng, bao gồm: kiểm toán quy tắc (kiểm
toán tuân thủ), kiểm toán hoạt động, kiểm toán báo cáo tài chính.
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm về kiểm toán như sau:
Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập có thẩm quyền, có kỹ năng
thu thập và đánh giá các bằng chứng khách quan, từ đó bày tỏ ý kiến về thực
trạng hoạt động được kiểm toán sau khi đối chiếu với các chuẩn mực được xây
dựng cho việc báo cáo thông tin đó.
1.1.3 Vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường
Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thực hiện chủ trương đa dạng hóa
các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế được mở rộng và ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện nền
kinh tế như vậy, thông tin tài chính của doanh nghiệp không chỉ để báo cáo cho
các cơ quan quản lí nhà nước để kiểm tra và xét duyệt mà nay các thông tin này
cần cho nhiều người, được nhiều đối tượng quan tâm, khai thác sử dụng cho các
quyết định kinh tế. Tuy ở nhiều góc độ khác nhau nhưng tất cả các đối tượng này
đều có cùng nguyện vọng là có được các thông tin có độ chính xác cao, tin cậy và
trung thực.
SVTH: Cao Hải Vân
6
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
Luật pháp yêu cầu và để yên lòng người sử dụng các báo cáo tài chính phải
được kiểm toán và chỉ có những thông tin kinh tế đã được kiểm toán mới là căn cứ tin
cậy cho việc đề ra các quyết định hiệu quả và hợp lí. Việc các quy định mang tính
pháp lí bắt buộc các thông tin tài chính trước khi công bố phải được kiểm toán, điều
này thể hiện rõ nét vai trò của kiểm toán trong quá trình đổi mới nền kinh tế.
Trong các quan hệ kinh tế nhờ có kiểm toán mà các doanh nghiệp đã tìm được
tiếng nói chung đó là sự tin cậy lẫn nhau, sự thẳng thắn, trung thực trình bày về tình
hình tài chính của mình. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá, lựa chọn đối
tác kinh doanh. Đặc biệt trong quan hệ hợp tác kinh doanh với nước ngoài, nếu nhà
đầu tư nước ngoài muốn tìm hiểu về hoạt động kinh doanh và đánh giá tình hình của
một doanh nghiệp trước khi đầu tư, hợp tác kinh doanh thì chi phí cho cuộc kiểm toán
sẽ hiệu quả và rẻ hơn nhiều so với chi phí mà hai bên phải bỏ ra để đàm phán tự
chứng minh về khả năng tài chính của mình. Đồng thời ý kiến khách quan của kiểm
toán luôn đáng tin cậy hơn. Ngay cả khi các công ty có vốn đầu tự nước ngoài được
thành lập thì nhu cầu kiểm toán của các công ty này là tất yếu bởi yêu cầu quản lí của
các đối tác nước ngoài trong doanh nghiệp.
Hoạt động kiểm toán còn thu hút được lực lượng lớn các lao động có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao và đặc biệt là lực lượng chuyên gia tư vấn nước ngoài làm
việc tại các công ty kiểm toán quốc tế.
Kiểm toán thực hiện kiểm tra tính trung thực hợp lí hợp pháp của thông tin
trong hoạt động kinh tế, tài chính làm lành mạnh hoá các quan hệ tài chính, cung cấp
các thông tin trung thực cho quản lí vĩ mô trong nền kinh tế.
Với bên thứ ba, kiểm toán đã giúp ngân hàng, các công ty tài chính, các nhà đầu
tư, các cổ đông, đối tác… có đủ thông tin tin cậy, bằng chứng xác đáng để đưa ra quyết
định có đầu tư, liên quan đến đơn vị được kiểm toán.
1.1.4 Phân loại kiểm toán
Có hai cách phân loại kiểm toán, phân loại theo chủ thể và phân loại theo
chức năng.
SVTH: Cao Hải Vân
7
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
1.1.4.1 Phân loại theo chức năng kiểm toán
Căn cứ theo chức năng kiểm toán có thể chia công việc kiểm toán thành ba
loại: kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá về tính
kinh tế, tính hữu hiệu và tính hiệu quả của một hoạt động để đề xuất phương án cải
tiến. Ở đây tính kinh tế là xem xét đánh giá công việc đạt được mục tiêu đề ra với
chi phí nhỏ nhất; tính hữu hiệu là khả năng hoàn thành nhiệm vụ hay mục tiêu; còn
tính hiệu quả chính là việc đạt được kết quả cao nhất với một nguồn lực nhất định,
hay còn gọi là nguyên tắc tối đa.
Đối tượng của loại hình này rất đa dạng, cụ thể có thể bao gồm:
- Kiểm tra việc huy động, phân phối, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu
quả các nguồn nhân lực (nhân lực, vật tư, hàng hoá, tài sản, tiền vốn…) của doanh
nghiệp.
- Kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh; phân phối và
sử dụng thu nhập; kết quả bảo toàn và phát triển vốn.
- Kiểm tra và đánh giá tính hiệu quả hoạt động của các bộ phận chức năng
trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong loại hình kiểm toán này chuẩn mực đánh giá được xác định tuỳ theo
từng đối tượng cụ thể, vì thế không có chuẩn mực chung, và việc lựa chọn chuẩn
mực thường mang tính chủ quan và tuỳ theo nhận thức của kiểm toán viên. Chuẩn
mực có thể là các tiêu chuẩn kỹ thuật, tỷ suất bình quân ngành, hay một tiêu chuẩn
nào đó.
Loại hình kiểm toán này thường được thực hiện bởi các kiểm toán viên nội
bộ, nhưng cũng có thể do kiểm toán viên nhà nước hay kiểm toán viên độc lập tiến
hành. Kết quả hoạt động chủ yếu để phục vụ cho lợi ích của bản thân đơn vị.
Kiểm toán tuân thủ
Là việc kiểm tra nhằm đánh giá mức độ chấp hành pháp luật, hay một văn
bản, một quy định nào đó của đơn vị.
SVTH: Cao Hải Vân
8
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
Đối tượng của loại hình này rất đa dạng, cụ thể có thể bao gồm:
- Kiểm tra tính tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính kế toán, chế
độ quản lý của Nhà nước và tình hình chấp hành các chính sách, quyết định, nghị
quyết, quy chế của Hội đồng quản trị, của Ban giám đốc.
- Kiểm tra tính tuân thủ các quy định về nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ,
thủ tục quản lý của toàn bộ cũng như của từng khâu công việc, của từng bộ phận
trong hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Kiểm tra sự chấp hành các nguyên tắc, các chính sách, các chuẩn mực kế
toán từ khâu lập chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế toán, tổng hợp
thông tin và trình bày báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị đến lưu trữ tài
liệu kế toán.
Chuẩn mực dùng để đánh giá là các văn bản có liên quan, ví dụ như luật
thuế, các văn bản pháp quy, các nội quy, các hợp đồng…
Kiểm toán tuân thủ có thể được thực hiện bởi các kiểm toán viên nội bộ,
kiểm toán viên Nhà nước, hay kiểm toán viên độc lập. Kết quả kiểm toán tuân thủ
dùng để phục vụ cho các cấp thẩm quyền có liên quan.
Kiểm toán báo cáo tài chính
Kiểm toán báo cáo tài chính là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và xác nhận về
tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính cũng như xem xét báo cáo tài chính
có phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và yêu cầu của luật pháp hay
không. Đây là loại hình kiểm toán xuất hiện sớm và khá phổ biến. Khi thực hiện
kiểm toán, nội dung cơ bản bao gồm: Kiểm tra và xác nhận tính kịp thời, đầy đủ,
khách quan và tin cậy của các báo cáo tài chính trước khi ký duyệt và công bố;
Kiểm tra và đánh giá các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị và đưa ra
những kiến nghị và tư vấn cần thiết cho hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo sự
hợp lý, hiệu quả.
Nếu kiểm toán tuân thủ sử dụng các văn bản làm chuẩn mực để đánh giá thì
kiểm toán báo cáo tài chính lấy các chuẩn mực kế toán hay chế độ kế toán hiện
hành làm thước đo chủ yếu.
SVTH: Cao Hải Vân
9
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
Kiểm toán báo cáo tài chính thường được thực hiện bởi các kiểm toán viên
độc lập, và kết quả kiểm toán để phục vụ cho đơn vị, Nhà nước và các bên thứ 3,
trong đó chủ yếu cho các nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung cấp, các cổ đông…
Trong thực tế kiểm toán báo cáo tài chính là hoạt động được tiến hành chủ
yếu. Người ta ban hành rất nhiều các quy định, hướng dẫn việc thực hành kỹ thuật
kiểm toán này. Việc thực hiện các loại kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ
chủ yếu là dựa vào kỹ thuật kiểm toán của loại kiểm toán báo cáo tài chính.
1.1.4.2 Phân loại theo chủ thể tiến hành
Căn cứ theo chủ thể tiến hành có thể chia công việc kiểm toán thành ba loại:
Kiểm toán Nhà nước
Là công việc kiểm toán do cơ quan kiểm toán Nhà nước tiến hành. Kiểm toán
Nhà nước chủ yếu tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành các
chính sách, luật lệ, chế độ của Nhà nước và đánh giá sự hữu hiệu, hiệu quả hoạt động
tại các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của Nhà nước. Cơ quan kiểm toán Nhà nước là
một tổ chức trong bộ máy quản lý của Nhà nước. Kiểm toán viên Nhà nước là các
viên chức Nhà nước.
Kiểm toán Nhà nước nhận xét, đánh giá và xác nhận việc chấp hành chính
sách, chế độ tài chính, kế toán ở các đơn vị. Bên cạnh đó, kiểm toán Nhà nước còn có
quyền góp ý và yêu cầu các đơn vị kiểm toán sữa chữa những sai phạm và kiến nghị
với cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm, đề xuất với Chính phủ những sữa đổi, cải
tiến cơ chế quản lý tài chính, kế toán cần thiết.
Kiểm toán độc lập
Là hoạt động kiểm toán được tiến hành bởi các kiểm toán viên độc lập thuộc
những tổ chức kiểm toán độc lập. Họ thực hiện các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính,
và tuỳ theo yêu cầu của khách hàng, họ còn có thể thực hiện kiểm toán hoạt động,
kiểm toán tuân thủ và các dịch vụ tư vấn về kiểm toán, thuế, tài chính.
Do sự độc lập trong hoạt động nên kết quả kiểm toán của họ tạo được sự tin
cậy đối với những người sử dụng, vì vậy trong nền kinh tế thị trường thì vai trò của
họ trở nên rất cần thiết và khó có thể thay thế. Nói cách khác là tuy rằng báo cáo kiểm
SVTH: Cao Hải Vân
10
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
toán các báo cáo tài chính có thể được nhiều đối tượng sử dụng nhưng đối tượng sử
dụng chính yếu là các bên thứ ba, và những người này thường chỉ tin cậy báo cáo tài
chính đã được kiểm toán viên độc lập kiểm toán.
Trên thế giới, kiểm toán độc lập là loại hoạt động dịch vụ tư vấn dưới sự bảo
hộ và thừa nhận của pháp luật, công việc kiểm toán độc lập càng ngày càng được
quản lý chặt chẽ bởi các hiệp hội chuyên ngành về kiểm toán.
Kiểm toán nội bộ
Là công việc kiểm toán do các KTV nội bộ của đơn vị tiến hành theo yêu cầu
của giám đốc doanh nghiệp hoặc thủ trưởng đơn vị. KTNB có phạm vi thực hiện như
sau: kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị của doanh nghiệp và các
đơn vị thành viên; kiểm toán tuân thủ; kiểm toán hoạt động.
Để có thể hoạt động hữu hiệu thì bộ phận KTNB được tổ chức độc lập với các
bộ phận khác trong đơn vị, thế nhưng sự độc lập này chỉ mang tính tương đối vì họ
vẫn là nhân viên của đơn vị. Đây chính là sự khác biệt chủ yếu giữa KTNB và kiểm
toán độc lập, và làm cho kết quả KTNB khó có được sự tin cậy của những người ở
bên ngoài đơn vị.
Như vậy, cần hiểu chức năng xác nhận của KTV nội bộ ở đây theo một nghĩa
khác với chức năng xác nhận của KTV độc lập: đó là sự xác nhận phục vụ cho người
quản lý đơn vị (là người tổ chức và chỉ đạo KTNB) chứ không phải cho tất cả các đối
tượng sử dụng báo cáo của đơn vị. Chính vì vậy, điều 6 của Quy chế kiểm toán nội bộ
(Quyết định 832/TC-CĐKT ngày 28/10/1997 của Bộ tài chính) đã chỉ rõ trách nhiệm
của KTV nội bộ: … “kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh
tế, tài chính của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị trước khi trình ký
duyệt”… Theo đó, KTV nội bộ chịu trách nhiệm trước người quản lý và người quản
lý chịu trách nhiệm trước người sử dụng báo cáo tài chính về các thông tin trên báo
cáo.
1.1.5 Các phương pháp kiểm toán
Phương pháp kiểm toán được hiểu là các biện pháp, cách thức và thủ
pháp được vận dụng trong công tác kiểm toán nhằm đạt được mục đích kiểm
SVTH: Cao Hải Vân
11
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
toán đã đặt ra.
Phương pháp kiểm toán là sản phẩm của sự nhận thức khoa học quá trình
kiểm toán và thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị.
Có nhiều phương pháp được sử dụng trong kiểm toán nhưng trong thực
tế có 2 phương pháp được sử dụng phổ biến là :
Phương pháp kiểm toán hệ thống
Phương pháp kiểm toán cơ bản
1.1.5.1 Phương pháp kiểm toán hệ thống
Là phương pháp tiếp cận đối tượng kiểm toán dựa trên hệ thống để kiểm
tra một lĩnh vực hoạt động, một khâu tác nghiệp trong mối tương quan với các
lĩnh vực hoạt động, các khâu tác nghiệp khác. Kiểm toán viên thực hiện các thử
nghiệm để thu thập bằng chứng kiểm toán để đảm bảo rằng hệ thống kiểm soát
nội bộ mà kiểm toán dựa vào đó để kiểm toán là một hệ thống kiểm soát nội bộ
có hiệu quả.
Các phương pháp được áp dụng phổ biến:
Khảo sát hệ thống (walk through):
Hay còn gọi là kỹ thuật điều tra hệ thống. Đòi hỏi việc kiểm tra chi tiết một
loạt các nghiệp vụ từ đầu đến cuối để xem xét, đánh giá các bước kiểm soát áp
dụng trong hệ thống điều hành nội bộ.
Các thử nghiệm chi tiết đối với kiểm soát:
Là các thử nghiệm được tiến hành để thu thập bằng chứng về sự hiện hữu
của các quy chế kiểm soát và các bước kiểm soát, làm căn cứ cho việc thiết kế
phương pháp kiểm toán cơ bản.
1.1.5.2 Phương pháp kiểm toán cơ bản
Là phương pháp kiểm toán trong đó các thủ tục kiểm toán được thiết kế
nhằm thu thập bằng chứng có liên quan do hệ thống kế toán xử lí và cung cấp.
Đặc trưng của phương pháp này là việc tiến hành các thử nghiệm, các đánh
giá đều dựa trên số liệu, các thông tin trên báo cáo tài chính và hệ thống kế toán
SVTH: Cao Hải Vân
12
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
của đơn vị (gọi là phương pháp thử nghiệm trên số liệu). Trong kiểm toán cơ bản
người ta thường sử dụng phương pháp phân tích và kiểm tra chi tiết.
Các bước thử nghiệm số liệu bao gồm:
Phân tích số liệu:
Trên cơ sở sử dụng các tỷ lệ, các mối quan hệ tài chính để xác định những
tính chất hay những sai lệch không bình thường trong bảng cân đối kế toán và các
báo cáo tài chính khác của doanh nghiệp. Phân tích số liệu cho phép KTV có cái
nhìn khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh và tài chính của đơn vị được
kiểm toán, phát hiện những điều kiện không hợp lí, những điều bất thường những
biến động lớn và những trọng tâm trọng yếu trong kiểm toán.
Kỹ thuật chủ yếu dùng để phân tích, đánh giá các thông tin tài chính của
doanh nghiệp là:
- Phân tích so sánh về lượng trên cùng một chỉ tiêu hay còn gọi là phân tích
ngang. Ví dụ về phân tích ngang như: so sánh số liệu kỳ này với kỳ trước hoặc giữa
các kỳ với nhau, so sánh số liệu với các đơn vị cùng ngành, cùng quy mô.
- Phân tích tỷ suất hay còn gọi là phân tích dọc, bằng cách so sánh, xác định
tỷ lệ tương quan giữa các chỉ tiêu, các khoản mục khác nhau. Các tỷ suất được lựa
chọn sử dụng tuỳ theo kinh nghiệm, trình độ của kiểm toán viên như: các tỷ suất
về khả năng thanh khoản, khả năng sinh lời, cấu trúc tài chính của doanh nghiệp.
Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và các số dư tài khoản:
Là phương pháp kiểm tra trực tiếp các nghiệp vụ và số dư để xác định xem
các nghiệp vụ kế toán có được phê duyệt đúng đắn hay không, có được hạch toán
và ghi sổ chính xác không, các số dư trên bảng cân đối có thực và chính xác
không.
Phương pháp này thích hợp với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, các loại
nghiệp vụ không có tính chất phức tạp. Còn đối với các doanh nghiệp có quy mô
hoạt động lớn thì việc kiểm tra chi tiết tất cả nghiệp vụ và số dư là không thể. Khi
đó, việc kiểm tra chi tiết chủ yếu dựa trên cơ sở kiểm tra mẫu của một số nghiệp
SVTH: Cao Hải Vân
13
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
vụ cùng loại. Hiện nay có 2 phương pháp chọn mẫu chính đó là phương pháp chọn
mẫu xác suất và phương pháp chọn mẫu phi xác suất.
1.2 Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng trong NHTM
1.2.1 NHTM và hoạt động tín dụng
1.2.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
Ở Việt Nam, theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng (26/12/1997) chỉ rõ:
“Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ các hoạt động của ngân
hàng và hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Trong đó “hoạt động ngân hàng
là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh
toán”.
Với các chức năng như trên, NHTM tỏ rõ vị thế quan trọng của mình trong
nền kinh tế thị trường. Ngân hàng đựơc ví như huyết mạch của nền kinh tế quốc
dân. Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã so sánh hệ thống ngân
hàng, tài chính như “hệ thần kinh” chi phối hoạt động của nền kinh tế đất nước mà
trong tình hình hiện nay “hệ thần kinh” này cần hoạt động mạnh hơn nữa, đưa ra
những dự báo, chiến lược thông minh, hiệu quả giúp Chính phủ giải quyết khó
khăn, duy trì đà tăng trưởng.
Hoạt động của NHTM ngày càng được đa dạng hoá, các dịch vụ ngân hàng
đựơc cung cấp ngày càng chu đáo, với nhiều tiện ích hiện đại như Internet
Banking, Phone Banking… Ngân hàng thực sự trở thành cầu nối không thể thiếu
và không thể thay thế trong nền kinh tế thị trường đang được quốc tế hoá cao,
đang xâm nhập vào mọi mặt của đời sống xã hội. Ngân hàng là một tổ chức đặc
biệt về tiền tệ tín dụng được thể hiện thông qua :
NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, là nơi nhận tiền gửi của dân cư
để cho vay đối với những người thiếu vốn và có nhu cầu vay, là công cụ quan
trọng thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất.
NHTM chính là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường thông qua
hoạt động tín dụng của ngân hàng với doanh nghiệp.
SVTH: Cao Hải Vân
14
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế: Thông qua hoạt
động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng trong hệ thống đã góp phần mở
rộng khối lượng tiền cung ứng ra lưu thông.
Bên cạnh đó NHTM chính là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài
chính thế giới, tham gia quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu.Với các vai trò của mình
chính NHTM đã góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển, dẫn
đến sự hợp tác giữa các ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài.
1.2.1.2 Hoạt động tín dụng của NHTM
Tín dụng là một quan hệ giao dịch về tiền hoặc tài sản giữa hai chủ thể là
bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân,
doanh nghiệp và các chủ thể khác); trong đó bên cho vay giao tiền hoặc tài sản cho
bên đi vay được sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, đồng thời
bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện vốn và lãi cho bên cho vay khi đến hạn
thanh toán đã thoả thuận.
Tín dụng ngân hàng là hình thức chủ yếu, chiếm vị trí quan trọng đặc biệt
trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng có một số đặc điểm sau:
- Đối tượng của tín dụng ngân hàng là vốn tiền tệ, nghĩa là ngân hàng huy
động vốn và cho vay vốn bằng tiền. Nó phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ sở hữu
và cá chủ thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trên nguyên tắc có thời
hạn, hoàn trả cả vốn gốc lẫn lợi tức.
- Tín dụng ngân hàng vừa là tín dụng tiêu dùng vừa là tín dụng mang tính chất
sản xuất kinh doanh gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Thời gian tín dụng được xác định do thoả thuận giữa bên cho vay và bên
đi vay.
Rủi ro tín dụng của NHTM
Rủi ro tín dụng là rủi ro của ngân hàng phát sinh trong quá trình cho vay,
được biểu hiện dưới hình thức người đi vay không trả được nợ vay hoặc không trả
nợ cho ngân hàng đúng thời hạn như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
SVTH: Cao Hải Vân
15
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
Rủi ro tín dụng của NHTM thường được biểu hiện thông qua nợ quá hạn.
Ngày 31/12/2001, Thống đốc ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay của TCTD đối với
khách hàng, trong đó Điểm 2 Điều 13 quy định chi tiết về việc chuyển nợ quá hạn
như sau: “Khi đến hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn
và không được điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc hoặc lãi hoặc không được gia hạn nợ gốc
hoặc lãi thì TCTD chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ quá hạn.” Đây cũng được xem
là định nghĩa nợ quá hạn của nước ta.
Tỷ lệ nợ quá hạn = Dư nợ quá hạn*100/Tổng dư nợ
Tỷ lệ này cho thấy mức độ rủi ro tín dụng của một ngân hàng tại một thời
kỳ, nó cho biết trong một trăm đồng dư nợ thì có bao nhiêu đồng nợ quá hạn. Theo
NHNN, tỷ lệ này dưới 3% được đánh giá là tốt.
1.2.2 Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng trong NHTM
1.2.2.1 Kiểm toán nội bộ NHTM
a) Khái niệm về kiểm toán nội bộ NHTM
Theo Liên đoàn kế toán quốc tế IFAC thì khái niệm KTNB được nêu ra:
“Một hoạt động được lập ra trong một đơn vị kinh tế, như một loại dịch vụ cho
đơn vị đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát tính thích hợp và hiệu quả
của hệ thống kế toán và KTNB”.
Tháng 6/1999, Hội đồng quản trị Viện KTNB đã thông qua định nghĩa như
sau về KTNB: “KTNB là hoạt động đảm bảo và tư vấn một cách độc lập, khách
quan; được thiết kế nhằm tăng giá trị và tăng cường hoạt động của một tổ chức.
Nó cho phép tổ chức đạt được các mục tiêu của mình bằng cách tiếp cận có kỷ luật
và hệ thống nhằm đánh giá và tăng cường hiệu lực của các quy trình quản trị, điều
hành, kiểm soát và quản lý rủi ro”.
Với nội dung như vậy, Uỷ ban Basel đã đưa ra định nghĩa về kiểm toán nội
bộ như sau: “KTNB là hoạt động độc lập, khách quan; là hoạt động tư vấn được tổ
chức thực hiện nhằm tăng thêm giá trị và cải thiện hoạt động của doanh nghiệp.
KTNB giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình bằng cách tổ chức kiểm tra
SVTH: Cao Hải Vân
16
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
có tính hệ thống và chặt chẽ nhằm đánh giá và nâng cao hiệu quả của các hoạt
động quản trị rủi ro, kiểm soát và quản trị tổ chức”.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 610 ban hành kèm theo quyết định số
143/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính thì: “KTNB là
một bộ phận trong hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị, có chức năng kiểm tra,
đánh giá tính phù hợp, hiệu quả, sự tuân thủ của pháp luật và các quy định của hệ
thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị đó.”
KTNB NHTM được hiểu là quá trình hoạt động một cách có tổ chức, có kỷ
luật và độc lập của những người có thẩm quyền trong ngân hàng nhằm kiểm tra,
đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của các thông tin tài chính và phi tài chính
của ngân hàng, đồng thời đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
quản lí rủi ro, kiểm soát nội bộ và quản trị điều hành của ngân hàng.
KTNB là một bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống cơ chế kiểm tra, giám
sát nội bộ trong ngân hàng nên KTNB ngân hàng sẽ không bị bó hẹp phạm vi hoạt
động kinh doanh trong một công việc, bộ phận nào mà phải mở rộng phạm vi
nghiên cứu ra tới tất cả loại hình nghiệp vụ mà ngân hàng đã, đang và sẽ thực hiện.
Có như vậy thì KTNB mới hướng công việc của mình vào cải thiện và nâng cao
chất lượng hoạt động, tăng cường sức mạnh cho cơ chế kiểm soát nội bộ phát huy
hiệu quả.
KTNB nằm ngoài quy trình, độc lập và tách rời với quy trình nghiệp vụ, sẽ
không chịu trách nhiệm về tình hình, kết quả hoạt động của nghiệp vụ đó mà chỉ
có trách nhiệm kiểm tra và đánh giá một cách khách quan xem quy trình nghiệp vụ
đó hay toàn hệ thống đã vận hành an toàn, hiệu quả hay chưa, thông tin đưa ra có
chính xác hay không? Từ đó rút ra được các điểm yếu cần phải khắc phục, đưa ra
ý kiến nhận xét để hoàn thiện quy trình, nhắc nhở các cán bộ nhân viên có ý thức
tuân theo những chuẩn mực, quy định đã đề ra.
Như vậy, khi mới ra đời KTNB chỉ đóng vai trò chống gian lận, sai sót
nhưng hiện nay đã mở rộng phạm vi chức năng hoạt động bao gồm cả việc kiểm
tra những rủi ro mà ngân hàng phải tránh đỡ. Một thực tế đã được thừa nhận trong
thời gian qua là công tác KTNB đã góp phần nâng cao hiệu quả quản trị điều hành
SVTH: Cao Hải Vân
17
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
hoạt động của ngân hàng. Để đạt được kết quả trên, các NHTM cần có đội ngũ
KTV không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn cần có đạo đức nghề nghiệp
tốt. Bởi vậy, Ngân hàng phải có chính sách tuyển dụng, chính sách đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực khoa học, hợp lý để có được đội ngũ cán bộ, nhân viên có
năng lực chuyên môn tốt, có ý thức kỷ luật, có tính chuyên nghiệp cao. Với đặc
thù riêng của hoạt động ngân hàng thì mỗi nhân viên ngân hàng đều có trách
nhiệm kiểm tra, tự kiểm tra theo quy trình nghiệp vụ, theo quy định ngân hàng đã
thiết lập, đề cao ý thức chấp hành trong mọi thao tác nghiệp vụ. Trong hoạt động
kiểm toán thì KTV nội bộ còn phải thực hiện quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đó là
tính trung thực, tính khách quan, có năng lực chuyên môn, tính bảo mật trong thực
hiện nhiệm vụ.
b) Chức năng của KTNB
- Chức năng kiểm tra: Là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật để xem
xét, đối chiếu mức độ trung thực của các thông tin, tài liệu và tính hợp pháp của
việc thực hiện các nghiệp vụ hay lập các bản khai tài chính.
- Chức năng đánh giá: Thông qua kiểm tra, KTNB thực hiện đánh giá
tính đúng đắn, trung thực và hợp pháp của các số liệu, thông tin, tài liệu được
kiểm tra.
- Chức năng xác nhận: Thông qua kiểm tra, đánh giá, KTNB xác nhận
thực trạng của thông tin đã kiểm tra về tính đúng đắn, trung thực và hợp pháp
của các thông tin đó.
- Chức năng tư vấn: Trên cơ sở những phát hiện trong quá trình kiểm tra,
đánh giá, KTNB đề xuất và tư vấn giải pháp để khắc phục sai sót, cải thiện và hoàn
thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, giúp Ngân hàng đạt được mục tiêu của mình.
c) Nhiệm vụ của KTNB
- Kiểm tra và đánh giá tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả trong hệ thống
kiểm soát nội bộ, kiểm tra xác nhận độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính của
báo cáo tài chính, báo cáo kế toán của đơn vị trước khi trình BGĐ ký.
- Kiểm tra và theo dõi sát sao việc chấp hành các chính sách, chế độ kế
SVTH: Cao Hải Vân
18
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
toán, các nghị quyết của HĐQT và của BGĐ thông qua việc rà soát lại hệ thống kế
toán, các quy chế về hệ thống kiểm soát nội bộ có liên quan.
- Phát hiện những sở hở yếu kém, gian lận trong quản lý và bảo vệ tài
sản, có các ý kiến đề xuất đề có thể hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ cũng
như hệ thống quản lí điều hành kinh doanh.
d) Cơ cấu tổ chức KTNB trong NHTM
Cơ cấu tổ chức bộ phận KTNB của các ngân hàng về cơ bản có cấu trúc
như sau:
Sơ đồ 1.1: Mô hình tổ chức KTNB trong NHTM
Chú thích: Quan hệ trực tuyến
Quan hệ chức năng
Uỷ ban kiểm toán: trực thuộc HĐQT, có chức năng giúp việc cho HĐQT
trong việc giám sát quản lý hoạt động của ngân hàng.
- Uỷ ban kiểm toán không tham gia điều hành và độc lập với việc quản lý.
- Nhiệm vụ điển hình là giám sát hoạt động của bộ phận KTNB và là kênh
liên lạc trực tiếp với cấp lãnh đạo cao nhất.
- Thực hiện xác nhận về điều lệ hoạt động KTNB, kế hoạch kiểm toán và
nguồn lực cần thiết.
Ban KTNB: là nơi tập trung chức năng kiểm toán của toàn đơn vị ngân hàng.
- Ban KTNB có nhiệm vụ báo cáo trực tiếp lên Uỷ ban kiểm toán về kết
quả kiểm toán và các vấn đề liên quan đến Ban điều hành.
SVTH: Cao Hải Vân
Chủ tịch HĐQT
Ban điều hành
Giám đốc chi nhánh
Phòng KTNB
Ban KTNB
Uỷ ban kiểm toán
19
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
- Thiết lập mối quan hệ làm việc và báo cáo công việc hàng ngày với Tổng
giám đốc/Giám đốc.
- Xây dựng, trình duyệt kế hoạch kiểm toán hàng năm.
Phòng KTNB:
- Có chức năng tham mưu cho Ban KTNB để quản lí, chỉ đạo điều hành
hoạt động KTNB.
- Xây dựng, trình duyệt kế hoạch từng cuộc kiểm toán.
- Trực tiếp tổ chức thực hiện nhiệm vụ KTNB.
- Lập, trình các báo cáo kiểm toán theo quy định.
1.2.2.2 Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng trong NHTM
a) Sự cần thiết phải KTNB đối với hoạt động tín dụng trong NHTM
Một hợp đồng tín dụng luôn tiềm ẩn rủi ro, rủi ro tín dụng này chỉ hết khi
hợp đồng tín dụng được thanh lý. Hoạt động tín dụng lại là hoạt động chủ đạo của
mỗi NHTM. Rủi ro tín dụng luôn ẩn chứa trong mỗi hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Như vậy một khi xảy ra rủi ro sẽ tác động rất lớn tới rủi ro mất mát tài
sản của ngân hàng mà tình huống xấu hơn nữa là rủi ro phá sản của ngân hàng.
Đây không phải chỉ là đề cập đến vấn đề có thể xảy ra mà nó đã xảy ra trong quá
khứ.
Trong năm 2008 vừa qua đánh dấu hậu quả rủi ro hoạt động tín dụng mà
các NHTM Mỹ phải gánh chịu khi mà các ngân hàng này phải gánh chịu những
khoản nợ xấu kếch xù. Năm 2008 cũng là năm đánh dấu cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu bùng nổ. NHTM lớn nhất nước Mỹ là Washington Mutual
Inc(WaMu) đã sụp đổ do sức nặng của những khoản nợ xấu kếch xù liên quan đến
thị trường cho vay thế chấp. Hay một số ngân hàng khác phải đóng cửa như Ocala
National Bank có tổng tài sản 223,5 triệu USD, ngân hàng Suburban Federal có
tổng tài sản 306 triệu USD… Điều đó thể hiện rằng rủi ro mà ngân hàng gặp phải
là rất lớn và gây hậu quả hết sức nặng nề.
Công việc quản lý của ngân hàng là rất khó khăn, khối lượng công việc của
các nhà quản lý ngân hàng là rất lớn do ngân hàng thường có quy mô mạng lưới
SVTH: Cao Hải Vân
20
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
hoạt động rộng khắp. Điều đó dẫn đến một vấn đề đặt ra là liệu nhân viên tín dụng
của mình có làm đúng nguyên tắc, đảm bảo tính đầy đủ về mặt pháp lý trong hoạt
động hay chưa? Công tác điều hành quản lý tín dụng của họ đã phù hợp chưa? Các
chính sách tín dụng đã được ban hành có mang tính khả thi và đem lại hiệu quả tốt
chưa? Rồi rủi ro tín dụng mà ngân hàng phải gánh chịu đang ở mức độ nào?
KTNB chính là bộ phận giải quyết được các yêu cầu trên, là phương tiện và công
cụ đắc lực trong công tác quản lý điều hành cho ban lãnh đạo ngân hàng.
Bằng chức năng, nhiệm vụ và hoạt động cụ thể của mình, KTNB góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Bởi vì KTNB thực hiện kiểm
tra giám sát hoạt động tín dụng của ngân hàng, kịp thời phát hiện hay có những đánh
giá về tính tuân thủ hoạt động tín dụng của ngân hàng mình.Trên cơ sở đó phát hiện
kịp thời những sai sót, những hạn chế trong hoạt động tín dụng để có giải pháp xử lý
hay đề xuất kiến nghị cải tiến đổi mới hoạt động tín dụng làm cho hoạt động tín dụng
mang lại hiệu quả cao hơn. Đảm bảo cho hoạt động tín dụng tuân thủ đúng các chuẩn
mực, chính sách, quy định của pháp luật.
b) Mục tiêu KTNB đối với hoạt động tín dụng của NHTM
KTNB đối với hoạt động tín dụng của NHTM nhằm đánh giá tính nghiêm
túc, đúng đắn trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện nghiệp vụ tín dụng, như:
Chiến lược, chính sách kinh doanh, các quy trình cho vay và quy trình phê duyệt
tín dụng, việc tổ chức, chỉ đạo điều hành hoạt động tín dụng.
KTNB nhằm giúp phát hiện những sơ hở trong hoạt động tín dụng, những
rủi ro và tiềm ẩn rủi ro hoạt động tín dụng của NHTM từ đó đề xuất với HĐQT,
ban lãnh đạo các biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng.
Đánh giá tính thích đáng trong việc định giá trị của các khoản cho vay, tính
chính xác, trung thực, phù hợp của các số liệu: dư nợ, lãi suất cho vay, định giá tài
sản đảm bảo.
Xác định ảnh hưởng của nghiệp vụ tín dụng tới hiệu quả hoạt động tài
chính của ngân hàng.
SVTH: Cao Hải Vân
21
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
c) Đối tượng của KTNB hoạt động tín dụng trong NHTM
Đối tượng của KTNB đối với hoạt động tín dụng của NHTM là tổng thể
nghiệp vụ cho vay, cơ cấu rủi ro tiềm ẩn, toàn bộ các giai đoạn trong quá trình xét
duyệt cấp tín dụng – giám sát tín dụng và uy tín tài chính của khách hàng vay vốn
cũng như tài sản đảm bảo của họ.
Theo một cách trình bày khác, đối tượng của KTNB hoạt động tín dụng có
thể được phân thành 3 nhóm lớn như sau:
- Kiểm toán các rủi ro về cơ cấu trong nghiệp vụ tín dụng nhằm nắm bắt và
đánh giá rủi ro luỹ kế từ cơ cấu tín dụng.
- Kiểm toán các khoản cho vay nhằm nắm bắt và đánh giá các rủi ro về khả năng
tài chính của từng khách hàng vay, từ đó đánh giá độ an toàn của từng khoản cho vay.
- Kiểm toán việc xét duyệt tín dụng và nguyên tắc phân quyền để có thể
đánh giá về hoạt động nghiệp vụ này với độ tin cậy tối thiểu dựa trên các thông tin
hiện có, hay nói cách khác đó chính là việc đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả của
hệ thống kiểm soát nội bộ đối với nghiệp vụ tín dụng.
d) Nhiệm vụ của KTNB hoạt động tín dụng
Kiểm tra, đánh giá tính hiệu lực, phù hợp của hệ thống kiểm soát nội bộ
trong ngân hàng, độ tin cậy của các thông tin tín dụng trước khi ký quyết định cấp
tín dụng cho khách hàng.
Kiểm tra, xác nhận độ tin cậy của các tài liệu liên quan trong bộ hồ sơ tín
dụng, đánh giá tính hợp lý, đầy đủ của hồ sơ tín dụng. Đánh giá tính tuân thủ pháp
luật và quy định cấp tín dụng của NHNN và bản thân ngân hàng .
Kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của việc sử dụng vốn.
Đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống điều hành quản lí kinh doanh
ngân hàng trên cơ sở phát hiện sơ hở yếu kém, gian lận trong quản trị tín dụng, bảo
vệ tài sản và nguồn vốn của ngân hàng.
e) Những nội dung chủ yếu của KTNB hoạt động tín dụng
Nội dung chủ yếu của KTNB hoạt động tín dụng là việc kiểm tra tính tuân
thủ các quy định của NHNN và của chính bản thân hệ thống NHNo về việc tuân
SVTH: Cao Hải Vân
22
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
thủ nguyên tắc hoạt động và quản lý tín dụng, tuân thủ quy trình tín dụng.
Kiểm toán tính hiệu quả, tính kinh tế cũng như khả năng hoạt động của cơ
chế kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng.
Rủi ro tín dụng, hiệu quả của hoạt động tín dụng thể hiện ngay trong cơ cấu
tín dụng. Kiểm toán cơ cấu tín dụng sẽ cho ta cái nhìn tổng quan về mức độ tập
trung tín dụng cũng như rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Kiểm toán về quy trình nghiệp vụ cấp tín dụng sẽ đánh giá xem các quy
trình nghiệp vụ tín dụng trên thực tế có được tuân thủ nghiêm túc không? Kiểm
tra, đánh giá việc tổ chức, chỉ đạo điều hành hoạt động tín dụng có hiệu quả
không, có khoa học không?
Kiểm tra chi tiết các hồ sơ vay vốn để đánh giá tính đầy đủ, hợp lệ của các
bộ hồ sơ. Từ đó, chọn mẫu một số hồ sơ để kiểm tra, đối chiếu trực tiếp với khách
hàng.
Trên cơ sở đó KTNB phát hiện những sai sót yếu kém, sơ hở hay gian lận
trong quản trị tín dụng, bảo vệ an toàn tài sản cho ngân hàng. Cũng từ đó đưa ra
những biện pháp cải thiện và hoàn thiện cơ chế điều hành, hoạt động tín dụng nói
riêng hay hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung.
SVTH: Cao Hải Vân
23
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
TẠI NHNo & PTNT CHI NHÁNH HUYỆN PHÚ LỘC
2.1 Tổng quan về NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh
Thực hiện Nghị định 53/NĐ-HĐBT, cùng với sự ra đời của hệ thống
NHNo&PTNT Việt Nam, Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Thừa Thiên Huế được
thành lập trên cơ sở tách từ NHNN tỉnh Bình Trị Thiên cũ. Từ ngày 22/02/1990,
Chi nhánh NHNo&PTNT Thừa Thiên Huế là một chi nhánh của NHNo&PTNT
Việt Nam với 8 chi nhánh cấp huyện và Ngân hàng cơ sở có liên quan. Cũng từ
thời điểm này do Quyết định của Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Thừa Thiên Huế về việc
phân lại địa giới hành chính tỉnh, huyện Phú Lộc đã được hình thành với tổng diện
tích tự nhiên là 728.175 ha, gồm 16 xã và 1 thị trấn, với đặc thù kinh tế sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ. Từ đấy, NHNo&PTNT huyện Phú Lộc ra đời.
Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Phú Lộc là chi nhánh ngân hàng cấp 2, hoạt
động theo quy chế điều hành của Giám đốc NHNo&PTNT Tỉnh Thừa Thiên Huế,
theo Luật các TCTD và điều lệ của NHNo&PTNT Việt Nam theo Quyết định số
210/NHNo-QĐ của Chủ tịch Hội đồng quản trị - Tổng giám đốc NHNo. Ngân hàng
hoạt động kinh doanh tiền tệ, trực tiếp giao dịch kinh doanh, hạch toán kinh tế nội
bộ, có quyền đề nghị Ngân hàng cấp trên thành lập phòng giao dịch ở những nơi cần
thiết. Sự có mặt của NHNo&PTNT huyện Phú Lộc đã cung ứng vốn cho 1 thị trấn
và 16 xã, góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy tiềm năng ở
nông thôn, là người bạn đồng hành đáng tin cậy của bà con nông dân.
Hiện nay, NHNo&PTNT huyện Phú Lộc có trung tâm hội sở tại thị trấn
Phú Lộc và 4 phòng giao dịch trực thuộc tại các khu vực: PGD Truồi, PGD Thừa
Lưu, PGD Lăng Cô và PGD Khu Ba. Tổng số cán bộ công nhân viên toàn Chi
nhánh là 44 người, trong đó 73% có trình độ đại học cao đẳng, 27% có trình độ
trung cấp. Quá trình hoạt động của ngân hàng trong 20 năm qua là quá trình kiên trì
SVTH: Cao Hải Vân
24
P.GIÁM ĐỐC PHỤ TRÁCH
KẾ TOÁN NGÂN QUỸ
PHÒNG KINH DOANH
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trịnh Văn Sơn
đi theo định hướng phát triển của NHNo&PTNT Việt Nam, theo đường lối đổi mới
của Đảng và Nhà nước. Thị trường hoạt động được xác định chủ yếu là nông nghiệp
nông thôn, từng bước mở rộng kinh doanh đa năng, mở rộng các dịch vụ ngân hàng
thông qua các biện pháp đổi mới toàn diện về nghiệp vụ, đổi mới công tác điều hành,
sắp xếp lại bộ máy hành chính, nâng cao chất lượng cán bộ, thực hiện phương châm
“đi vay để cho vay”, phục vụ cho nền kinh tế thị trường, năng động nhạy bén với quan
hệ cung cầu, lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu kinh doanh.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy
Cơ cấu tổ chức:
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chi nhánh
Chú thích: Quan hệ trực tuyến
Quan hệ chức năng
Nguyên tắc tổ chức: Bộ máy quản lý của chi nhánh NHNo&PTNT huyện
Phú Lộc hiện nay được tổ chức theo mô hình quan hệ trực tuyến, chức năng. Với
SVTH: Cao Hải Vân
25
P.GIÁM ĐỐC PHỤ TRÁCH
TÍN DỤNG
PHÒNG
GD
TRUỒI
PHÒNG
GD
THỪA
LƯU
TRUNG
TÂM HỘI
SỞ
PHÒNG
GD
LĂNG
CÔ
PHÒNG
GD
KHU III
PHÒNG KẾ TOÁN
NGÂN QUỸ
GIÁM ĐỐC
Bộ phận kiểm tra, KTNB