Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

SKKN rèn chữ viết đúng, viết đẹp cho học sinh lớp 3 môn tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 33 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH XUÂN – HÀ NỘI
TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH XUÂN TRUNG

-----------------------------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN CHỮ VIẾT ĐÚNG, VIẾT ĐẸP CHO HỌC SINH LỚP 3

MÔN: TIẾNG VIỆT

Tác giả

: Nguyễn Thị Quynh

Chức vụ

: Giáo viên Tiểu học

Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thanh Xuân Trung
(Tài liệu kèm theo đĩa CD)

NĂM HỌC 2011 - 2012


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
1.1. Lý do khách quan:
Đất nước ta đã và đang đổi mới về mọi lĩnh vực của cuộc sống. Vì vậy mục tiêu
của công tác giáo dục đặt ra là đào tạo nên những con người phát triển toàn diện phù
hợp với tầm cao của thời đại. Các em học sinh bắt đầu cắp sách đến trường là được các
thầy các cô dạy đọc, dạy viết … Nếu biết đọc, biết viết thì cả thế giới tri thức rộng lớn


sẽ mở ra trước mắt các em. Tập viết chính là một trong những phân môn có tầm quan
trọng đặc biệt ở tiểu học, nhất là đối với các em học sinh lớp 3. Phân môn tập viết
trang bị cho học sinh toàn bộ chữ cái La Tinh và những yêu cầu kĩ thuật để sử dụng
được bộ chữ cái đó trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa này, tập viết không những
có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn học khác mà còn góp phần rèn
luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường –
kĩ năng viết chữ. Nếu viết đúng chữ mẫu, rõ ràng, tốc độ viết nhanh thì học sinh có
điều kiện ghi chép bài học một cách tốt nhất, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn.
Ngược lại nếu các em viết xấu, chữ viết không rõ ràng, mạch lạc tốc độ viết chậm sẽ
ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập.
Tập viết là phân môn có tính chất thực hành. Trong chương trình không có tiết
học lý thuyết, chỉ có các tiết rèn luyện kĩ năng. Tính chất thực hành của việc dạy học
tập viết khẳng định vị trí quan trọng của phân môn này ở trường Tiều học. Chính vì
tầm quan trọng của môn tập viết trong trường Tiểu học mà mỗi người giáo viên phải
luôn tự học hỏi, sáng tạo để có những sáng kiến kinh nghiệm dạy học với những giải
pháp phù hợp, hữu ích nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh.
Việc đổi mới phương pháp dạy học giúp học sinh hứng thú học tập, ham tìm tòi
hiểu biết, phát huy trí lực, tạo điều kiện cho học sinh học tập tốt. Trong phong trào
“Nắn chữ, rèn người” ở các trường Tiểu học hiện nay, với học sinh lớp 3 việc dạy đọc,
dạy viết luôn song song với nhau và tạo điều kiện thuận lợi để học tốt hơn các môn
học khác. Khi học sinh lớp 3 đọc và viết đạt yêu cầu thì các em mới học tiếp được lên
các lớp tiếp theo.
Ngày nay khi khoa học ngày càng phát triển thì chữ viết càng có tầm quan trọng
không thể thiếu được trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống như học tập, giao tiếp, thông
tin, báo chí … Nhờ chữ viết mà người ta hiểu và khám phá ra những điều tinh tú của
2


cuộc sống và ghi truyền lại cho đời sau những di sản văn hóa, khoa học … có giá trị.
Trong nhà trường đọc, viết nói chung hay đọc đúng, đọc hay, viết đúng và viết đẹp nói

riêng là cơ sở tốt để học sinh tiếp thu kiến thức ở các môn học khác. Vì vậy ngay từ
lớp 3 học sinh phải được hình thành 4 kĩ năng cơ bản của môn Tiếng Việt là: nghe, nói,
đọc, viết. Đồng thời rèn chữ viết cho học sinh cũng chính là rèn luyện những phẩm
chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kỉ luật và khiếu thẩm mĩ cho các em.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nói:” Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết
người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho
học sinh tính cẩn thận, tính kỉ luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy
và bạn mình”. Chữ viết và dạy viết được cả xã hội quan tâm. Nhiều thế hệ thầy cô giáo
đã trăn trở, góp công, góp sức để cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp
dạy học chữ viết để ngày một nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh. Tuy vậy
nhiều học sinh vẫn viết sai, viết xấu, viết chậm điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới các
môn học khác. Chính vì vậy mà việc rèn chữ viết đúng, viết đẹp cho các em học sinh
ngay từ lớp đầu cấp là việc làm vô cùng quan trọng.

1.2. Lý do chủ quan:
Thực tế hiện nay các em học sinh Tiểu học có nhiều em chưa viết đẹp, chưa viết
đúng mẫu, sự liên kết giữa các nét chữ hoặc liên kết giữa các chữ cái chưa chuẩn, tốc
độ viết còn chậm, cách rê bút, lia tay chưa đúng, thiếu khoa học, các em chưa cẩn thận
khi viết dẫn đến kết quả học tập không cao. Ảnh hưởng đến nhiều nhất là kết quả môn
tập viết, luyện chữ, chính tả, tập làm văn … Nếu ở lớp 3 các em rèn luyện chữ viết
không tích cực thường viết sai, viết xấu thì các em học lên lớp trên chữ viết đã quen
tay rất khó sửa và để sửa được cho đúng, cho đẹp sẽ phải mất rất nhiều thời gian và
công sức của thầy cô cũng như của chính các em. Có những em vừa tập viết đã mỏi, đã
chán không hứng thú, kiên trì trong khi tập viết. Có hiện tượng đó nên chất lượng chữ
viết của các em không cao. Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy học giúp học
sinh hứng thú học tập, ham muốn viết chữ đẹp, viết chữ đúng, tự trọng, cẩn thận khi
viết là một việc làm vô cùng quan trọng.
Lúc sinh thời Bác kính yêu đã dạy:
“ Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”


3


Lời dạy của Bác như thấm sâu, khắc sâu vào mõi con người Việt Nam chúng ta.
Lời dạy ấy như nhắc nhở mỗi người giáo viên phải chịu một phần trách nhiệm không
nhỏ tới tương lai của đất nước. Chính vì thấm nhuần lời dạy của Bác, nên là một giáo
viên trực tiếp giảng dạy lớp 3 tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào
việc nâng cao chất lượng chữ viết cho các em học sinh lớp 3 đó cũng chính là nâng cao
chất lượng môn Tiếng Việt và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Chính vì những
lý do trên mà tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “ Rèn chữ viết đúng, đẹp cho học sinh lớp
3”.

2. Mục đích nghiên cứu:
Trường Tiểu học là nơi dạy các em biết đọc, biết viết những chữ đầu tiên. Nếu
ngay từ khi bắt đầu cắp sách đến trường các em đã được dạy viết đúng, viết đẹp thì các
em sẽ rất tự tin và hứng thú học tập. Do đó các em mong muốn được đến trường, ham
muốn học hỏi tiếp thu tri thức. Chính vì vậy mục đích của đề tài này tôi nghiên cứu
nhằm tìm ra nguyên nhân, những điểm còn hạn chế trong dạy và học môn tập viết ở
lớp 3 để từ đó tìm ra những biện pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng chữ viết
giúp các em viết đúng, viết đẹp ngay từ lớp đầu cấp.

3. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu và đối tượng khảo sát:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Để tìm ra được những nguyên nhân và biện pháp khắc phục nhằm nâng cao chữ
viết cho học sinh, với bản sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã đi sâu nghiên cứu về vở
tập viết, luyện viết chữ đẹp dành cho các em học sinh lớp 3. Đồng thời nghiên cứu
phương pháp giảng dạy của giáo viên , cách viết, cách học môn tập viết và kết quả bài
viết của học sinh lớp 3 để từ đó tìm hiểu những vấn đề xung quanh việc giúp học sinh
viết đẹp, viết đúng và tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm nâng cao chất

lượng chữ viết cho các em học sinh lớp 3.

3.2. Phương pháp nghiên cứu:
Khi nghiên cứu bản Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã thực hiện theo các
phương pháp nghiên cứu sau:
 Nhóm phương pháp lý luận:
• Tra cứu, tìm, đọc tài liệu
• Tập hợp tài liệu
• Viết đề cương
• Viết bản thảo
4


• Viết bản chính văn
 Nghiên cứu thực tiễn
• Điều tra bằng bài kiểm tra
• Phỏng vấn
• Quan sát thực tế tình hình học tập viết của học sinh
• Dự giờ, ghi chép tổng hợp
• Thực nghiệm
• Ghi chép kết quả thực nghiệm
 Nhóm phương pháp nghiên cứu bổ trợ
• Bảng, biểu đồ
• Thống kê toán học

3.3. Đối tượng khảo sát:
Với mục đích nghiên cứu của Sáng kiến kinh nghiệm tôi tiến hành khảo sát chữ
viết của các em học sinh lớp 3A6 tại trường Tiểu học Thanh Xuân Trung nơi tôi đang
công tác. Từ đó tôi đi sâu nghiên cứu thực trạng tình hình học tập môn tập viết và môn
chính tả của các em và tìm những ưu điểm, nhược điểm của cách viết, từng con chữ,

tiếng, từ của các em. Trên cơ sở đó tôi suy nghĩ tìm biện pháp khắc phục cả về phương
pháp giảng dạy của giáo viên và giáo dục ý thức học tập của học sinh nhằm nâng cao
chất lượng chữ viết cho các em ngay trong từng tiết học. Để mong muốn cuối cùng là
các em viết đúng, viết đẹp.

4. Nhiệm vụ, phạm vi và thời gian thực hiện:
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
 Phân tích, xác định cơ sở khoa học của việc rèn chữ viết cho các em học sinh
tiểu học nhất là các em học sinh lớp 3.
 Đánh giá thực trạng dạy và học môn tập viết lớp 3 ở trường nơi tôi đang công
tác.
 Tìm ra nguyên nhân dẫn đến học sinh viết chữ xấu, chưa đúng mẫu và sai chính
tả.
 Đề xuất, lí giải và thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chữ viết
cho học sinh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:
 Phạm vi bản sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ đi sâu nghiên cứu việc rèn chữ
viết đúng, đẹp cho các em học sinh lớp 3 chứ không mở rộng phạm vi nghiên
cứu chữ viết đúng, đẹp ở các lớp khác trong bậc tiểu học.
5




Khi tìm hiểu thực trạng chữ viết, cách học tập viết, luyện viết và khảo sát chữ
viết của các em học sinh tôi chỉ thực hiện ở lớp 3A6 Trường Tiểu học Thanh
Xuân Trung ở trường nơi tôi đang công tác.

4.3. Thời gian thực hiện:

Ngay từ đầu năm học nhận lớp, trong quá trình giảng dạy môn Tiếng việt đặc
biệt là môn tập viết và luyện viết chữ đẹp tôi đã ghi chép lại những điều quan sát được
ở cách học, ý thức học tập viết của các em. Cùng với việc dự giờ thăm lớp, học tập ở
đồng nghiệp sau một thời gian tôi bắt tay vào nghiên cứu, sưu tập tài liệu, tổng hợp tài
liệu tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục giúp các em học
sinh viết đúng, viết đẹp.
Sau khi nghiên cứu kĩ trên lí thuyết tôi tiến hành thực hiện dạy ở lớp và ghi
chép lại những chuyển biến của các em, lập biểu đồ thống kê.kết quả.

5. Đóng góp về giáo dục của sáng kiến kinh nghiệm:
Đề tài “Rèn chữ viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 3” mặc dù chỉ là một phần nhỏ
trong quá trình giáo dục, giảng dạy trong nhà trường nhưng tôi nhận thấy khi đã rèn
được cho các em lớp 3 viết đúng, viết đẹp chính là rèn được ở các em tính cẩn thận,
tính kỉ luật và khiếu thẩm mĩ. Không những thế khi các em được rèn viết đúng, viết
đẹp thì sẽ giúp các em học tốt hơn các môn học khác và ở các lớp tiếp theo. Đây chính
là mục đích của sáng kiến kinh nghiệm mà tôi mong muốn đạt được , và cũng chính là
mục đích “Nắn chữ, rèn người” trong công tác giáo dục.
Mặc dù đã có sự cố gắng, song trong quá trình viết sáng kiến, do năng lực còn
hạn chế nên có thể còn có những thiếu sót tôi rất mong các cấp lãnh đạo ngành giáo
dục và các bạn đồng nghiệp bổ sung, góp ý kiến để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi
hoàn thiện hơn. Nếu bản sáng kiến kinh nghiệm “Rèn chữ viết đúng, viết đẹp cho học
sinh lớp 3” được thực hiện cùng với sự nỗ lực của giáo viên và học sinh lớp 3 thì tôi
thiết nghĩ chữ viết của các em sẽ tiến triển rõ rệt và đạt kết quả cao, góp phần nâng cao
chất lượng dạy học môn Tiếng việt ở trường Tiểu học.

6


B. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở khoa học của đề tài

1.1. Cơ sở lí luận:
Dạy viết là dạy một kĩ năng mới đối với trẻ em nên giáo viên cần đặc biệt quan
tâm đến việc xây dựng cho trẻ những nề nếp tốt. Để đảm bảo chất lượng chữ viết cho
học sinh, giáo viên cần phải nắm vững những cơ sở khoa học của dạy học viết chữ.
Học viết là một quá trình phức tạp. Mỗi chữ viết đối với các em là một sự cố
gắng lớn. Muốn viết được các chữ các em phải vận dụng trí óc quan sát, sự chú ý của
mình để phân tích các đường nét cấu tạo thành chữ cái, cách nối các con chữ trong một
tiếng hay một từ, cách sắp xếp các từ trong câu. Ở đây việc học đọc và học viết gắn
liền với nhau. Một học sinh đọc kém thì khó có thể viết đúng và nhanh được.
Vì chữ viết là một kí hiệu như kiểu một hình vẽ nên khi viết các em phải phối
hợp tay và mắt để ghi lại trên mặt phẳng kí hiệu bằng một công cụ, viết những đường
nét đã thu nhận qua mắt mình. Do đó, muốn dạy viết tốt cần nghiên cứu lần lượt những
đặc thù của mỗi bộ phận cơ thể có liên quan đến hoạt động viết của trẻ.
Viết là một hoạt động đặc biệt, phải vận động rèn luyện trong thời gian dài mới
thành kĩ sảo được. Để có thói quen viết chữ nhẹ nhàng thoải mái, trước hết học sinh
cần biết kĩ thuật cầm bút. Động tác cầm bút đúng tạo điều kiện cho các em vận động
viết thoải mái, dễ dàng. Cầm bút phải thật tự nhiên, nếu cầm chặt quá sẽ khó vận động,
còn nếu lỏng quá sẽ không điều khiển được bút.
Đặc biệt trẻ em ban đầu chưa có khả năng phân hóa các vận động nên nếu một
bộ phận bị tác động thì các bộ phận khác cũng bị kéo theo một cách không cần thiết.
Hiện tượng khi mới tập viết các em đập chân tay, uốn miệng theo động tác tay cũng có
thể giải thích được từ góc độ này. Trong quá trình tri giác hình thành nét chữ, các em
phải ghi nhớ đầy đủ các đường nét thì mới tái hiện lại nó một cách chính xác. Ở đây
yếu tố tinh thần cũng đóng một vai trò quan trọng. Nếu trẻ viết trong tư thế thoải mái
tâm trạng phấn khởi thì dễ có một kết quả tốt. Ngược lại nếu trẻ có buồn phiền thì chữ
viết cũng bị ảnh hưởng. Sự phân tích trên cho thấy, rõ ràng trong quá trình học viết ở
trẻcó sự phối họp chặt chẽ giữa tâm lý, sinh lý. Hướng dẫn trẻ em học viết giáo viên
cần có những hiểu biết về sinh lý, tâm lý của trẻ làm cơ sở thì việc dạy viết mới có kết
quả cao.


7


Muốn dạy viết tốt, giáo viên còn phải hiểu rõ những quy luật truyền thụ kĩ năng
sau: Làm quen với đối tượng, qua hướng dẫn của giáo viên, trẻ em tri giác bằng mắt,
tai và tay làm theo. Học sinh có thể nói to điều mình tri giác được đồng thòi nhận rõ
tên gọi, các đường nét và hình dáng chữ đó, sau đó mới luyện viết bằng tay. Viết xong
các em cần biết kiểm tra lại kết quả so với chữ mẫu để rút kinh nghiệm cho lần viết
sau.
Chữ viết của mỗi cá nhân phải đảm bảo những yêu cầu chuẩn mực. Vì vậy, để
xây dựng một cách viết có tính khoa học hiệu quả cần chú ý đến kí hiệu của ngôn ngữ.
Hệ thống âm vị và hệ thống chữ viết tuy sử dụng chất liệu khác nhau, nhưng đều có
thể vận dụng phương pháp phân tích và miêu tả thành các nét khu biệt. Cấu tạo chữ
viết Tiếng Việt được khu biệt theo hai nét cơ bản: Nét thẳng và nét cong.
Muốn nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh , người giáo viên cần nắm
vững:
a) Yêu cầu cơ bản của dạy môn tập viết ở lớp 3.
+ Kiến thức : Giúp học sinh có những hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ ,độ cao,
cỡ chữ, hình dáng và tên gọi các nét chữ,cấu tạo chữ cái, chữ nghi tiếng, khoảng cách
giữa chữ, cách viết chữ thường , dấu thanh và các chữ số .
+ Kĩ năng : Viết đúng quy trình viết từng nét ,viết chữ cái và liên kết các chữ
cái tạo thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch . Viết thẳng hàng các chữ trên dòng
kẻ . Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện các kĩ năng như :tư thế ngồi viết ,cách cầm
bút , để vở …
Muốn đổi mới phương pháp dạy học người giáo viên phải hiểu rõ ý đồ của vở
tập viết .Cấu trúc mỗi bài gồm phần bài tập viết chữ hoa và từ ứng dụng và câu ứng
dụng. Các kí hiệu trong vở tập viết phải được học sinh nắm chắc về đường kẻ ngang ,
quy định độ cao chữ cái ,dấu chấm là điểm đặt bút đầu tiên của chữ .
b) Chương trình và vở tập viết hiện hành
Vở tập viết của Bộ giáo dục phát hành giúp học sinh không ngừng nâng cao về

chất lượng chữ viết mà còn phối hợp với các môn học khác nhằm phát huy vai trò của
phân môn tập viết .Chương trình tập viết lớp 3 gồm có: luyện viết lại những chữ các
em đã học ở lớp 1,2.
Mỗi tuần có một tiết tập viết, mỗi tiết có 35 phút các em được viết những chữ
hoa đã học và những câu từ ứng dụng nhằm rèn cho các em viết đúng và viết đẹp hơn.
8


1.2. Cơ sở thực tiễn:
Là một giáo viên dạy lớp 3, tôi nhận thấy khả năng tiếp thu kiến thức của các
em còn nhiều hạn chế. Có những em tiếp thu được bài, đọc thông, viết thạo, viết đúng
nhưng bên cạnh đó có nhiều em học sinh chữ viết còn xấu, sai nhiều lỗi chính tả, lại
chưa đúng mẫu chữ, cỡ chữ. Thậm chí có những em còn chưa xác định được ô li. Có
những em do tính cẩu thả, viết ngoáy đã thành thói quen xấu khi viết, nên kết quả chữ
viết không cao.
Việc tập viết có quan hệ đồng thời đến nhiều bộ phận trong cơ thể học sinh như
tay, mắt, cột sống có thể để lại các di chứng như: mắt cận thị do nhìn quá sát xuống
vở, cột sống bị vẹo do ngồi viết không đúng tư thế. Vì vậy trong việc rèn chữ viết
đúng, viết đẹp cho học sinh cần chú ý đảm bảo sức khỏe cho các em trong quá trình
dạy học.
Tâm lý các em học sinh Tiểu học rất hiếu động, hay bắt chước. Các em luôn coi
hành vi và việc làm của giáo viên là đúng, là thần tượng. Các em vâng lời thầy cô,
nghe thầy, làm theo thầy hơn là nghe bố mẹ. Nếu lớp học nào giáo viên viết mẫu
chuẩn, viết chữ đẹp, nhiệt tình trong dạy tập viết cho học sinh thì 80% học sinh lớp đó
viết đẹp giống thầy. Còn ngược lại nếu thầy viết chữ xấu, không chú trọng môn tập
viết cho các em thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến chữ viết của các em. Do vậy muốn rèn
chữ viết đúng viết đẹp cho học sinh lớp 3 thì cơ bản chữ viết của thầy phải đẹp, thẳng
dòng, đều nét, có nét thanh, nét đậm để học sinh coi đó là chuẩn mực, là đẹp để bắt
chước và thi đua với các bạn.
Hiện nay xã hội ngày một phát triển. Công tác Giáo dục Đào tạo được cả xã hội

quan tâm các cuộc thi “Vở sạch chữ đẹp” cấp trường, cấp quận, cấp Thành phố được
tổ chức thường xuyên hàng năm ở các khối lớp. Chính vì vậy việc rèn học sinh viết
đúng, viết đẹp chính là giáo dục các em giữ vở sạch chữ đẹp thi đua với bạn.

2. Thực trạng vấn đề chữ viết của học sinh lớp 3
2.1. Đặc điểm chung về tình hình nhà trường:
Trường Tiểu học Thanh Xuân Trung là một ngôi trường khang trang sạch đẹp.
Với đội ngũ giáo viên trẻ đầy nhiệt tình tâm huyết và sự lãnh đạo khéo léo, thông minh
của Ban giám hiệu Trường cùng với hơn 800 học sinh thân yêu. Khối lớp 3 lại là khối
lớp rất vinh dự được là lớp học sinh đầu tiên mà nhà trường đón nhận khi trường vừa
thành lập. Bởi vậy rèn nét chữ luyện nết người cho học sinh lớp 3 là một việc làm đầy
9


ý nghĩa với bản thân mỗi giáo viên chúng ta. Vì thế nên tôi chọn đề tài: “Rèn chữ viết
đúng, đẹp cho học sinh lớp 3”.

2.2. Mục đích yêu cầu:
- Để giúp đề tài thực sự có hiệu quả thiết thực với học sinh tôi cần phải nắm
được đặc điểm tình hình chữ viết của từng học sinh. Từ đó mới uốn nắn giúp học sinh
sửa sai khắc phục những lỗi về kĩ thuật viết và cách viết để giúp các em viết đúng viết
đẹp hơn.
Ở lớp 3, yêu cầu cơ bản đối với các em là viết đúng và đẹp hơn, đọc to và rõ thì
mới tiếp thu được tri thức mới được thuận lợi.

2.3. Nội dung và cách tiến hành:
Trong phạm vi bài viết nhỏ hẹp này tôi chỉ tìm hiểu thực trạng tình hình chữ
viết của các em học sinh lớp 3A6.
Khi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 3A6. Để nắm được thực trạng
tình hình chữ viết của lớp tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát học sinh. Trong quá trình

khảo sát tôi quan sát xem những em nào đã đọc đúng, viết đúng em nào đúng tư thế
ngồi khi viết, em nào ngồi viết chưa đúng tư thế, em nào cầm bút đúng cách, em nào
cầm bút sai rồi điều kiện về bàn ghế đã phù hợp với các em chưa …

2.4. Sau khi khảo sát tôi thu được kết quả như sau:
 Lớp 3A6 có 35 học sinh.
 Các em còn nhầm lẫn giữa các âm:
 tr, ch: 5 em sai = 14%
 l, n: 2 em sai = 5,7%
 gh, g: 2 em sai = 5,7%
 r, d, gi : 8 em sai = 22,8%
 oe, eo : 5 em sai = 14%
 Viết chưa đúng mẫu chữ, chưa đều nét, run rẩy, nguệch ngoạc, chữ to, chữ bé,
nét thấp, nét cao, không đúng li và lỗi chính tả nhiều: 25 em sai = 71%.
 Bên cạnh đó có số ít em biết viết đúng, viết chữ ngay ngắn nhưng những em
này rất ít 10 em = 28,5%.
 Còn bàn ghế để các em ngồi học ngồi viết tương đối phù hợp với lứa tuổi các em.
 Một số em vừa mới viết được vài chữ đã uể oải, mệt mỏi, quay nhìn trái, nhìn
phải: 5em = 14%.
Sau thời gian đầu giảng dạy lớp mình, qua theo dõi tôi nhận thấy chữ viết của
các em còn rất xấu, sai, nhầm lẫn giữa các âm, vần … Tôi tiến hành tìm nguyên nhân
của vấn đề.
10


Bằng kinh nghiệm của nghề nghiệp và qua điều tra thực tế tôi đã rút ra được
nguyên nhân chủ yếu sau:
- Ở tuổi này các em vẫn còn mải chơi, mải đùa nghịch và hiếu động nên chưa ý
thức cao trong học tập.
- Sự tập trung chưa liền mạch.

- Nguyên nhân nữa là do tính cẩu thả không chú ý trong khi giáo viên hướng
dẫn viết.
- Có những em chậm tiếp thu cần phải có thời gian để rèn luyện.
- Một số em tự ti dẫn đến việc tập viết kém, chậm chạp không theo kịp các bạn.
- Một số em còn chưa nhận biết được ô li và tên gọi các đường kẻ dẫn đến viết
không đúng độ cao chưa rộng của các con chữ, các chữ viết không đều, nét thấp nét
cao, chữ to chữ bé…
- Có những em chưa nắm vững được kĩ năng viết chữ.
- Về phía giáo viên đã nhiệt tình trong giảng dạy xong việc giảng dạy còn phụ
thuộc vào giáo án chưa đổi mới phương pháp dạy học.
Khi đã nghiên cứu thực trạng việc viết chữ đúng, đẹp của lớp và nguyên nhân
dẫn đến tình trạng viết chữ chưa đúng, chưa đẹp của các em tôi bắt tay vào nghiên cứu
tìm giải pháp thực hiện.

3. Những giải pháp được đề ra.
3.1. Mục đích yêu cầu
- Qua từng tiết học giáo viên cần truyền đạt để học sinh từng bước nắm chắc và
thực hiện tốt các kĩ năng tập viết.
- Giúp HS viết đúng, viết đều, viết đẹp ở tất các môn học:

3.2. Nội dung các cách tiến hành:
Sau khi tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân tôi đã tiến hành một số biện pháp
sau:
a. Kỹ thuật viết và cách trình bày
* Cách cầm bút:
Muốn giúp các em có thói quen viết chữ nhẹ nhàng, thoải mái mà vẫn viết đẹp,
viết đúng thì trước hết các em phải biết kĩ thuật cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón cái,
ngón trỏ, ngón giữa) bàn tay phải có điểm tựa là mép cùi của bàn tay. Cầm bút phải tự
nhiên, đừng quá chặt sẽ khó vận động, nếu lỏng quá sẽ không điều khiển được bút.
11



Nếu các em cầm bút sai kĩ thuật bằng 4, 5 ngón tay khi viết vận động cổ tay, cánh tay
thì các em sẽ mau mệt mỏi, sự chú ý kém, kết quả chữ viết không đúng và nhanh được.
* Tư thế ngồi viết:
Khi ngồi viết, giáo viên cần hướng dẫn các em ngồi ngay ngắn, lưng thẳng,
không tì ngực vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở từ 25 đến 30cm. Cánh tay
phải cũng ở trên mặt bàn. Với cách để tay như vậy, khi viết, bàn tay và cánh tay phải
có thể dịch chuyển thuận lợi từ trái sáng phải dễ dàng. Trong các tiết học tôi thường
xuyên nhắc nhở các em ngồi đúng tư thế.
* Xác định vị trí các đường kẻ và tọa độ khi viết:
Đây là một trong những yêu cầu quan trọng góp phần nâng cao chất lượng chữ
viết
+ Đường kẻ ngang, đường kẻ dọc: vở tập viết của các em đã có sẵn các đường
kẻ, giáo viên cần hướng dẫn các em một số quy ước về cách gọi.
Ví dụ: Đường kẻ ngang đếm từ dưới lên. 1 là đường kẻ ngang thứ nhất; 2 là đường kẻ
ngang thứ 2; 3 là đường kẻ ngang thứ 3; 4 là đường kẻ ngang thứ 4; 5 là đường kẻ
ngang thứ 5; đường kẻ trên cùng là đường kẻ 6.
6
4
2

+ Ô vuông trên khung chữ mẫu: các ô vuông này do đường kẻ ngang, dọc cắt
nhau tạo thành. Giáo viên cần dạy lại cho học sinh xác định và nhận diện được độ cao
1 ô li, 1, ô li, 2ô li, 2,5 ô li và chiều rộng 1/2 ô li, 1 ô li. Thông qua các nét sổ thẳng,
nét gạch ngang.
Xác định tọa độ và chiều hướng chữ: Tọa độ chữ được xác định trên đường kẻ
ngang của vở tập viết (nét chữ được thể hiện trên dòng kẻ ngang). Cách xác định tọa
độ trên khung chữ phải dựa vào đường kẻ dọc, đường kẻ ngang và các ô vuông làm
định hướng. Quy trình viết đúng được thực hiện lần lượt bởi các thao tác mà hành trình

ngòi bút đi qua các tọa độ các chữ.
Xác định điểm đặt bút và điểm dừng bút :
Điểm đặt bút: là điểm bắt đầu khi viết 1 nét trong một chữ cái .Điểm đặt bút có
thể nằm trên đường kẻ ngang , hoặc không nằm trên đường kẻ ngang .
12


Điểm dừng bút :là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái .Điểm dừng bút
có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ :
+ Viết liền mạch:là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét đứng
trước tới điểm bắt đầu của nét chữ tiếp theo sau .
Thao tác viết liền mạch giữa điểm kết thúc của nét khuyết trên với điểm bắt đầu
của nét vòng ở trên trong chữ cái b.
+ Kĩ thuật “lia bút “ :Giáo viên cần giúp học sinh nắm được kĩ thuật lia bút . Để
đảm bảo tốc độ viết trong quá trình viết một chữ cái hay nối các chữ cái với nhau, nét
bút được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết ( đầu ngòi bút, phấn…) không chạm vào
mặt phẳng viết (giấy, bảng …) thao tác đưa bút lên trên không gọi là lia bút.
+ Kĩ thuật “rê bút”: Đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại với nét
chữ vừa viết .Ở đây xảy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn …) chạy nhẹ
từ điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của nét liền sau.
* Kĩ thuật viết nối các chữ cái:
Khi viết một chữ cái (ghi vần ,ghi tiếng ) gồm từ 2 chữ cái nối lại với nhau, để
đảm bảo tốc độ viết, người ta không thểviết rời từng chữ cái, mà phải di chuyển dụng
cụ viết đưa nét bút liên tục theo kĩ thuật viết liền mạch. Viết xong chữ cái đứng trước,
viết tiếp chữ cái đứng sau (không nhấc bút khi viết).
Trường hợp viết nối thuận lợi: Đây là trường hợp các chữ cái đứng trước và sau
đều có nét liên kết (gọi là liên kết 2 đầu). Khi viết,cần hướng dẫn các em chỉ cần đưa
nét bút từ điểm dừng bút của chữ cái đứng trước nối sang điểm đặt bút của chữ cá cái
đứng sau một cách thuận lợi theo hướng dịch chuyển của nét bút từ trái sang phải.
Trường hợp viết nối không thuận lợi: Trong việc viết chữ ghi âm tiếng Việt còn

có nhiều trường hợp viết không thuận lợi. Đó là những trường hợp nối các chữ cái mà
ở vị trí liên kết không thể viết các nét nối từ cuối chữ cái đứng trước với điểm bắt đầu
của chữ cái đứng sau.
Trường hợp điểm dừng bút của chữ cái đứng trước cách xa và không thuận
chiều với điểm đặt bút của chữ cái đứng sau. Giáo viên cần hướng dẫn các em học sinh
sử dụng kĩ thuật lia bút để đảm bảo viết liền mạch. Quá trình này cũng được thực hiện
bằng cách điều tiết hình dáng của phần cuối nét chữ của chữ cái đứng trước và phần
đầu nét của chữ cái đứng sau sao cho phù hợp với chiều hướng của quy trình viết. Tuy
nhiên, việc điều chỉnh này không được phép làm sai lạc cấu tạo của hình dáng chữ cái.
13


Đây là trường hợp xảy ra giữa các chữ hoa đứng trước không có nét liên kết và các
chữ thường đứng sau không có nét liên kết.
Khi dạy viết từ, câu ứng dụng, giáo viên ngoài việc làm cho học sinh hiểu được
ý nghĩa của từ, câu sẽ viết bằng những giải thích ngắn gọn, cần hướng dẫn các em nối
liên kết liền mạch các chữ cái. Đây là một việc làm quan trọng. Viết liền mạch không
chỉ làm cho tốc độ viết được nâng cao lên mà còn đảm bảo tính cân đối và yêu cầu
thẩm mĩ của chữ viết. Trên cơ sở quan sát chữ mẫu giáo viên cần giúp học sinh phân
tích xem trong từ có bao nhiêu chữ cái có độ cao như nhau, khoảng cách giữa các chữ
cái như thế nào? Trong từ có bao nhiêu điểm nối các chữ cái? Điểm xuất phát( đặt
bút), điểm nối và điểm dừng bút ở đâu?
* Kĩ thuật viết dấu phụ và dấu thanh:
Một đặc trưng tiêu biểu của chữ viết ghi âm tiếng Việt là có dấu phụ và dấu
thanh. Do vậy, quy trình viết dấu thanh là một khâu không thể thiếu trong quy trình
viết chữ tiếng Việt.
+ Dấu các chữ cái: ă, â, ê, ô đặt ở vị trí trên đầu các chữ cái. Điểm cao nhất của
dấu không quá 1/3 đơn vị, điểm thấp nhất của dấu không chạm vào đầu các chữ
cái( cách đầu chữ cái một khe hở) chiều ngang của dấu bằng 1/3 đợn vị chữ.
+ Dấu của chữ cái: ư, ơ là một dấu như hình lưỡi câu đặt hơi nghiêng phía bên

phải của thân chữ, độ cao không quá 1/3 ô. Ở chữ cái ư, dấu hỏi có điểm dừng bút
chạm vào đầu của nét móc thứ hai. Ở chữ cái ơ, dấu” móc câu” có điểm dừng bút
chạm vào điểm dừng bút của nét cong kín. Khi viết dấu này cần nhấn bút xoay tròn
đầu bút tại chỗ để tạo chấm tròn nhỏ rồi mới móc vào con chữ.
+ Viết dấu thanh:
• Dấu sắc ( ) là một nét thẳng xiên ngược được viết từ trên xuống hơi
chéo sang trái, độ dài bằng 1/3 ô.
• Dầu huyền ( `) là một nét thẳng xiên được viết từ trên xuống hơi chéo
sang phải, độ dài bằng 1/3 ô.
• Dấu hỏi (?) gồm một nét cong hở trái, biến dạng ở phần cuối nét. Khi
viết kéo dài được nét cong chéo về trái, độ cao bằng 1/3 ô.
• Dấu ngã (~) là hai nét cong hở liền nhau xếp ngược nhau theo chiều
ngang và nối liền. Khi viết điểm đặt bút và dừng bút cùng nằm trên
một đường kẻ theo chiều rộng bằng 1/3 ô.

14


• Dấu nặng (.) là một dấu chấm đặt phía dưới các chữ âm chính của
vần.
Dấu thanh cần đặt ở âm chính của vần, dấu thanh đặt ở vị trí cân đối và
chỉ đặt vào chữ ghi nguyên âm chứ không đặt ở vị trí giữa hai chữ cái. Ở
các chữ ghi tiếng không có âm đệm và không có âm cuối vần, dấu thanh
đặt trên hoặc dưới âm chính.
* Kĩ thuật viết dấu câu:
Cách viết dấu câu biểu hiện kĩ năng nắm vững ngôn ngữ của người viết
Có thể tìm thấy trong ví dụ trên các loại dấu câu như dấu phẩy, dấu chấm than,
dấu chấm.
Vì vậy, cách dạy viết dấu câu phải được coi là một trong những nội dung quan
trọng trong việc dậy tập viết ở tiểu học.

* Kĩ thuật viết đều đẹp: Muốn có bài viết đẹp học sinh cần phải viết đúng mẫu
và biết cách viết đều nét. Viết đều là khi viết các con chữ phải rộng bằng nhau, các chữ
có cùng độ cao phải cao bằng nhau. Trong thực tế có rất nhiều học sinh viết khôn đẹp
bởi vì các em viết chữ to chữ bé nguyên nhân là do các em chưa xác định được rộng
chữ. Vì vậy giáo viên cần phải có các ví dụ cụ thể để giúp học sinh xác định được đâu
là rộng chữ đâu là nét móc nét nối. Sau đó sẽ đưa ra những qui định cụ thể: rộng chữ
gần 1 li, nét móc nét nối bằng 1/2 rộng chữ. Rồi cho học sinh luyện tâp theo dõi sửa
chữa kịp thời, những em nào viết chưa đúng chưa đều cần cho lên bảng tự xác định lại
đâu là rộng chữ. Từ đó sẽ giúp học sinh không chỉ viết đúng mà còn viết rất đều và
đẹp.
* Cách trình bày bài:
Hướng dẫn học sinh nhìn và viết đúng theo mẫu trong vở tập viết, viết theo yêu
cầu được giáo viên hướng dẫn tránh viết dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết chòi ra mép
vở không có dòng kẻ li khi viết sai chữ, không được tẩy xóa mà cần để cách ra một
khoảng ngắn rồi viết lại.
* Chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập cho tốt:
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập trước khi
đến lớp như sách, vở, bút chì, bút mực, tẩy, bảng con, phấn, khăn lau bảng đúng quy
định.
b. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực:
15


* Phương pháp trực quan:
Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con đường: kết
hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các em chủ động phân tích hình
dáng, kích thước và cấu tạo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác nhau của chữ cái
đang học với chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm bằng thao tác so sánh
tương đồng.
Mẫu chữ là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều kiện đầu

tiên để các em viết đúng. Có các hình thức mẫu chữ: Chữ mẫu in sẵn, chữ phóng to
trên bảng, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu … Chữ mẫu phải đúng mẫu chữ
quy định, rõ ràng và đẹp.
Chữ mẫu có tác dụng: Giúp học sinh dễ quan sát từ đó tạo điều kiện để các em
phân tích hình dáng, kích thước và các nét cơ bản cấu tạo chữ cần viết trong bài học.
Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng giúp học sinh nắm được thứ tự viết các nét của
từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong một chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền
mạch, viết nhanh, viết đúng. Chữ mẫu trong hộp chữ giúp các em kết hợp mắt nhìn,
tay sờ để phối hợp các thao tác viết chữ một cách đồng bộ.
Chữ viết của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng được học sinh quan sát như
một loại chữ mẫu, vì thế giáo viên cần có ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng.
Ngoài ra để việc dạy chữ viết không đơn điệu giáo viên cần coi trọng việc xử lý
quan hệ giữa âm và chữ, tức là giữa đọc và viết. Do đó, trong tiến trình dạy tập viết
nhất là tập viết những âm mà địa phương dễ lẫn, giáo viên cần đọc mẫu chính xác.
Việc đọc đúng đóng vai trò quan trọng để học sinh viết đúng.
Đồ dùng trực quan có thể sử dụng để giới thiệu bài mới, sử dụng trong khi phân
tích mẫu chữ, sử dụng trong giai đoạn luyện tập hoặc để củng cố bài học. Mẫu chữ
trong khung chữ phóng to cần treo cố định thường xuyên để giáo viên có thể chủ động
khi cần thiết không chỉ ở trong giờ tập viết mà ngay cả ở những giờ học các môn học
khác khi có học sinh viết chưa được đúng mẫu.
Sử dụng bộ chữ cái giáo viên cần đảm bảo thực hiện đúng thao tác so sánh
tương đồng: dạy chữ mới trên cơ sở có những nét tương đồng với chữ đã học. Vì vậy
cần cho học sinh quan sát chữ cái đã học trước đó rồi cho xuất hiện các phần nét cơ
bản ở bìa phụ để ghép thành một chữ cái khác. Giáo viên cần tập trung sự chú ý của
học sinh vào phần nét mới xuất hiện để hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo chữ viết.
16


* Phương pháp đàm thoại, gợi mở:
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. Giáo viên

dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi, từ việc hỏi
về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái cho đến việc so sánh nét giống
nhau và khác biệt giữa các chữ cái đã học với các chữ cái đã phân tích. Chẳng hạn khi
dạy chữ A, giáo viên có thể đặt câu hỏi (chữ A cấu tạo bằng những nét nào ? nét
xiên,nét thẳng ngang và nét móc ngược hay nét cong khép kín và nét móc ngược), chữ
cao mấy ô? Độ rộng của chữ bao nhiêu ? nét nào viết trước,nét nào viết sau? chữ A
giống chữ nào đã học.Với những câu hỏi khó giáo viên cần định hướng câu trả lời cho
các em .Vai trò của người giáo viên ở đây là người tổ chức,hướng dẫn học sinh phân
tích cấu tạo chữ cái chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết chữ ở sau.
* Phương pháp luyện tập:
Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng
dẫn học sinh luyện tập thực hành phải tiến hành từ thấp đến cao để cho học sinh dễ
tiếp thu.Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước các cỡ chữ, sau đó là
viết đúng dòng kẻ và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kĩ năng viết chữ phải được
tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà,ở phân môn tập viết cũng như ở các phân môn
của bộ môn tiếng Việt và các môn học khác.
Khi học sinh luyện tập viết chữ, giáoviên cần luôn luôn chú ý uốn nắn để các
em cầm bút đúng và ngồi đúng tư thế. Bài viết đẹp phải đi liền với tư thế đúng, rèn cho
trẻ viết đẹp mà quên mất việc uốn nắn cách ngồi viết là một thiếu sót lớn của giáo
viên. Cần lưu ý các hình thức luyện tập cơ bản sau:
• Tập viết chữ (chữ hoa, chữ số, từ ngữ, câu ) trên bảng lớp: Hình thức tập
viết chữ trên bảng đen có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết chữ và
bước đầu đánh giá kĩ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này thường
dùng khi kiểm tra bài cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện
tập viết chữ ở lớp. Qua đó, giáo viên phát hiện những chỗ sai của học sinh
(về hình dáng, kích thước,thứ tự viết các nét…) để uốn nắn chung cho cả
lớp hoặc đánh giá cho điểm.
• Tập viết chữ vào bảng con của học sinh: Học sinh luyện tập viết chữ bằng
phấn trên bảng con trước khi tập viết vào vở.Học sinh có thể tập viết chữ
cái, viết các vần, các chữ hoặc từ có 2 hoặc 3 chữ vào bảng con. Khi sử

dụng bảng con, giáo viên cần hướng dẫn các em cả cách lau bảng từ trên
17


xuống,cách sử dụng và bảo quản phấn, cách lau tay sau khi viết để giữ vệ
sinh ( phải có giẻ ướt để lau bảng ). Viết vào bảng xong,học sinh cần giơ
bảng lên để giáo viên kiểm tra. Cần chú ý giữ trật tự trong lớp khi dùng hình
thức luyện tập này và nên tập dùng hai mặt bảng khi viết.
• Luyện tập viết trong vở tập viết : Muốn cho học sinh sử dụng có hiệu quả vở
tập viết giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu kĩ năng viết của
từng bài viết (chữ mẫu,các dấu chỉ khoảng cách chữ,dấu vị trí đặt bút, thứ tự
viết nét …) giúp các em viết đủ, viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài
viết. Việc đảm bảo thực hiện tốt các công việc trên sẽ giúp các em viết tốt
hơn ở những dòng sau.
• Luyện tập viết chữ khi học các môn học khác: Cần tận dụng việc viết các
bài học, bài làm ở các môn học khác để học sinh luyện viết đúng viết đẹp.
Đối với học sinh lớp 3 sự nghiêm khắc của giáo viên về chất lượng chữ viết
ở tất cả các môn học là cần thiết .Có như thế việc rèn luyện chữ viết cho học
sinh mới được củng cố đồng bộ thường xuyên.Việc làm này đòi hỏi ở người
giáo viên ngoài những hiểu biết về chuyên môn, cần có sự kiên trì, cẩn thận
và lòng yêu nghề mến trẻ.
* Rèn nếp viết chữ rõ ràng, sạch đẹp:
Chất lượng về chữ viết của học sinh không chỉ phụ thuộc vào điều kiện chủ
quan (năng lực cá nhân sự luyện tập kiên trì trình độ sư phạm của giáo viên…) mà còn
có tác động của những yếu tố khách quan( điều kiện, phương tiện phục vụ cho việc
dạy và học tập viết). Do vậy, muốn rèn cho học sinh nếp viết rõ ràng, sạch đẹp, giáo
viên cần quan tâm hướng dẫn, nhắc nhở các em thường xuyên về các mặt chủ yếu dưới
đây:
• Chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập: dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học
sinh được thực hành luyện viết thông qua hai hình thức viết trên bảng( bảng cá

nhân- bảng con, bảng lớp) bằng phấn và viết trong vở tập viết( tài liệu học tập
chính thức do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định với lớp 3) bằng bút chì, bút
mực. Do vậy, để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt. học sinh cần có ý thức
chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu sau:
Bảng con, phấn trắng, khăn lau. Bảng con màu đen, bề mặt có độ nhám vừa
phải, dòng kẻ ô rõ ràng, đều đặn( thể hiện được năm dòng kẻ) tạo điều kiện thuận lợi
cho học sinh viết phấn. Phấn trắng có chất liệu tốt làm nổi rõ hình chữ trên bảng. Khăn
18


lau sạch sẽ có độ ẩm vừa phải, giúp cho việc xóa bảng vừa đảm bảo vệ sinh, vừa
không ảnh hưởng đến chữ viết. Thông qua việc thực hành luyện viết của học sinh trên
bảng con giáo viên nhanh chóng nắm được những thông tin phản hồi trong quá trình
dạy học để kịp thời xử lý, uốn nắn, tác động nhằm đạt được mục đích dạy học đề ra.
Để việc sử dụng các đồ dùng học tập nói trên trong giờ tập viết đạt hiệu quả tốt, giáo
viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện những việc sau: chuẩn bị bảng con, phấn, khăn
lau đúng quy định. Bảng có dòng kẻ đồng dạng với dòng kẻ li trong vở tập viết và trên
bảng lớp của giáo viên. Phấn viết có độ dài vừa phải. Khăn lau sạch. Sử dụng bảng con
hợp lý và đảm bảo vệ sinh.
• Ngồi viết đúng tư thế: Việc tập viết không đảm bảo đúng các quy định được xây
dựng trên cơ sở khoa học sẽ đem lại di hại suốt đời cho học sinh như mắc cận
thị do ngồi viết ở nơi thiếu ánh sáng, hoặc cúi đầu sát vở, cột sống bị cong vẹo,
lưng gù, phổi bị ảnh hưởng … Vì vậy, khi hướng dẫn học sinh viết cần coi
trọng việc ngồi đúng tư thế cho học sinh.
• Kiểm tra lại khi viết xong: Học sinh tự nhận xét nếu viết theo mẫu trên bảng thì
cần so sánh chữ mình vừa viết với chữ mẫu trên bảng xem chữ nào đúng, nét
chữ nào chưa đúng để tự bổ sung sửa chữa cho sát với chữ mẫu. Sau khi tự
nhận xét, sửa chữa học sinh giơ bảng ngay ngắn để giáo viên kiểm tra nhận xét.
Học sinh cần đọc lại các chữ vừa viết trước khi xóa bảng.
• Vở tập viết, bút mực: Vở tập viết lớp 3 cũng như vở luyện viết chữ viết của các

em học sinh lớp 3 cần được giữ gìn sạch sẽ, không để vở bị quăn mép hoặc giây
bẩn. Riêng về bút mực, học sinh viết hay giây bẩn, viết sai khó tẩy xóa làm bẩn
vở giáo viên cần nhắc nhở giúp đỡ các em để các em viết sạch viết đúng, viết
đẹp.
• Để vở đúng cách: Muốn viết các em phải nhìn lại mình để đặt vở sao cho đúng
cách. Khi học viết một chữ cái học sinh phải nhớ hình dạng của nó thể hiện trên
dòng kẻ và nhớ di chuyển ngòi bút. Em đó cần nhớ tư thế ngồi thế nào cho hợp
lý, để vở sao cho đúng cách. Khi viết chữ đứng, học sinh cần để vở ngay ngắn
trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng, tự chọn cần để vở hơi nghiêng sao cho
mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc 15 độ. Khi viết độ
nghiêng của nét chữ cùng với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông 90 độ. Như
vậy dù viết theo kiểu chữ đứng hay kiểu chữ nghiêng nét chữ luôn thẳng đứng
trước mặt( chỉ khác nhau về cách để vở).
19


c. Đổi mới phương pháp dạy học:
Muốn cải tiến quy trình dạy tập viết, điều không thể thiếu được là đổi mới
phương pháp dạy học. Chất lượng viết tốt của học sinh lớp 3 phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trong đó có vai trò chỉ đạo của người giáo viên. Nếu giáo viên sử dụng hợp lý các
phương pháp dạy học, tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức( tự quan
sát, nhận xét, ghi nhớ), tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết
dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Các em sẽ ngày một tiến bộ viết đúng, viết đẹp.
* Trong mỗi giờ tập viết:
Mỗi giờ tập viết tôi rèn học sinh các bước như sau:
B1: Giáo viên hướng dẫn quy trình, cấu tạo, độ cao, nét đưa lên thật nhẹ gọi là nét
thanh, nét đưa xuống thật thẳng và hơi ấn bút gọi là nét đậm. Học sinh viết xong, giơ
bảng giáo viên cho học sinh nhận xét những bài đẹp viết đúng của bạn và đồng thanh
đọc lại.
B2: Học sinh nhớ viết những chữ vừa ôn và từ câu ứng dụng trong bài

Khi học sinh viết giáo viên đi từng bàn theo dõi, uốn nắn để kịp thời giúp đỡ
học sinh yếu, học sinh còn lúng túng. Phương pháp này giúp phát huy được trí lực của
học sinh và học sinh bắt chước được chuẩn mực của chữ viết, biết từ bỏ những lỗi sai
mà học sinh đã mắc phải. Cuối buổi học, nếu còn thời gian giáo viên có thể dành 15
phút cho học sinh viết lại vào vở ô li để rèn chữ.
Đối với quyển vở tập viết dành cho học sinh lớp 3 tôi đã kết hợp sử dụng vào
những giờ luyện viết của từng từng tuần để rèn cho học sinh cách cầm bút, tư thế ngồi,
rèn viết chữ ngay thẳng, đúng, chuẩn mực.
Trước khi yêu cầu học sinh viết, tôi vừa hướng dẫn vừa viết mẫu lên bảng cho
học sinh quan sát ,đọc, nhận diện chữ cần viết là chữ gì, nhận xét cấu tạo, độ cao của
chữ đó .
Sau đó giáo viên viết mẫu và nhắc lại quy trình viết rồi yêu cầu học sinh viết
bảng con, viết vở. Nếu có học sinh nào viết sai, sau khi chấm chữa sẽ được rèn viết lại
ra vở ô li vào cuối giờ học khi nào đúng mới thôi.
Khi học sinh viết chữ, yêu cầu học sinh viết đúng quy trình. Giáo viên theo dõi
nhắc nhở, bắt tay cho những học sinh còn lúng túng, động viên, khuyến khích các em
không để các em viết ngược chữ.

20


Tôi nhận thấy muốn cải tiến quy trình dạy tập viết người giáo viên phải tạo điều
kiện để học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức( tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ), tự giác
luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo
viên. Có thể thực hiện những yêu cầu trên theo quy trình tập viết như sau:
- Kiểm tra:
Kiểm tra học sinh viết bảng con( 1- 2 em viết bảng lớp) chữ hoa và từ ứng
dụng ngắn gọn ở bài trước.Giáo viên hướng dẫn chữa bài trên bảng (dùng phấn màu
sửa chữ viết sai hoặc chưa đúng mẫu) sau đó gợi ý để học sinh tự sửa chữ đã viết trên
bảng con và giơ bảng cho giáo viên kiểm tra, uốn nắn thêm( chú ý động viên kịp thời

những học sinh viết đẹp, tiến bộ).
- Bài mới:
Giới thiệu bài:
Nêu nội dung và yêu cầu tiết dạy.
Bài số: …
Chữ mẫu – từ ứng dụng.
- Hướng dẫn học sinh viết chữ:
+ Giáo viên đưa chữ mẫu cho học sinh quan sát, đọc cá nhân, đồng thanh.
+ Giáo viên gợi ý cho học sinh nhận xét, so sánh: Chữ gì? Gồm mấy nét? Nét
nào đã học, giống chữ nào đã học? Phần nào khác? Độ cao, rộng ...( có thể cho học
sinh chỉ vào chữ mẫu trên bảng để nhận xét).
+ Giáo viên hướng dẫn quy trình viết chữ: Sử dụng chữ mẫu để hướng dẫn, viết
mẫu trên khung chữ thật thong thả cho học sinh theo dõi ghi nhớ thứ tự các nét. Sau đó
giáo viên viết mẫu trên dòng kẻ ở bảng lớp.
Chú ý: Giáo viên giảng giải minh họa cách viết như cách đưa ngòi bút như thế
nào, thứ tự viết nét ra sao. Giáo viên cũng cần phân tích cả dấu phụ của từng con chữ
và dấu thanh.
Viết mẫu là thao tác trực quan của giáo viên trên bảng lớp giúp học sinh nắm
bắt được quy trình viết từng nét chữ, từng chữ. Do vậy, giáo viên phải viết chậm, đúng
theo quy tắc viết chữ. Khi viết mẫu trên bảng lớp giáo viên phải tạo điều kiện để học
sinh nhìn thấy tay giáo viên viết từng nét chữ. Đối với những nét chữ khó viết( hoặc
nét nối) giáo viên cần phối hợp giảng giải về cách viết hoặc có thể phân tích và viết
mẫu trích đoạn những nét chữ đó ra bảng phụ. Để học sinh nắm vững quy trình viết
21


chữ cái giáo viên viết mẫu sau đó dùng que chỉ lại để mô tả quy trình nhằm khắc sâu
cách viết cho học sinh.
+ Hướng dẫn học sinh luyện viết trên bảng con( một số học sinh viết trên bảng
lớp) theo từng chữ mà giáo viên yêu cầu. Học sinh giơ bảng để giáo viên kiểm tra, uốn

nắn, nhận xét kết quả( chú ý về hình dáng, quy trình).
-Hướng dẫn học sinh viết ứng dụng:
+ Giáo viên giới thiệu nội dung viết ứng dụng và viết nội dung từ ứng dụng.
Học sinh đọc từ ứng dụng sẽ viết, giáo viên gợi ý học sinh hiểu ý nghĩa từ ứng dụng sẽ
viết.
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét về cách viết từ ứng
dụng( chú ý đến các điểm quan trọng, độ cao các chữ cái, chiều rộng, khoảng cách
giữa các con chữ, cách đặt dấu ghi thanh hợp lý …). Quy trình viết liền mạch- nối chữ,
khoảng cách giữa các tiếng của từ…
+ Giáo viên viết mẫu minh họa cách nối chữ( do giáo viên xác định trọng tâm ở
bài dạy) học sinh theo dõi.
+ Học sinh tập viết theo trọng tâm nối chữ do giáo viên chọn( chữ ghi tiếng- từ
có thao tác nối). Giáo viên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn và nhận xét.
-Học sinh thực hành luyện viết trong giờ tập viết:
+ Giáo viên yêu cầu và nội dung luyện viết trong vở( viết chữ gì? Viết mấy
dòng? Cần lưu ý về điểm đặt bút ra sao? Viết từ ứng dụng mấy dòng? Cần lưu ý về
cách nối chữ, cách đặt dấu thanh, khoảng cách giữa các chữ ra sao?...).
+Học sinh luyện viết trong vở. Giáo viên theo dõi uốn nắn về cả cách viết, tư
thế ngồi viết( chú ý giúp đỡ học sinh yếu kém uốn nắn kịp thời để các em tiến bộ) nếu
cần thiết có thể rút kinh nghiệm chung với cả lớp.
-Chấm bài tập viết của học sinh:
+ Giáo viên chấm bài cho học sinh đã viết xong ở lớp( số còn lại giáo viên thu
về nhà chấm).
+Nhận xét kết quả bài chấm, khen ngợi những bài đạt kết quả tốt. Nếu bài học
dài, giáo viên có thể chọn dạy nội dung tiêu biểu và học sinh luyện tập theo nội dung
tương ứng.
-Củng cố bài viết:

22



+ Để củng cố bài viết của học sinh giáo viên có thể sử dụng bài viết của học
sinh trong vở để cùng học sinh nhận xét rút kinh nghiệm ưu khuyết điểm về kĩ năng
viết chữ, hoặc tổ chức trò chơi viết chữ. Cũng có thể củng cố bằng cách yêu cầu hai
em viết chữ vừa học trên bảng lớp sau đó giáo viên và các học sinh khác cùng sửa
chữa… Với những hình thức củng cố đa dạng, nội dung bài viết sẽ được khắc sâu. Học
sinh ghi nhớ cách viết chữ cái, viết từ, câu ứng dụng trong những hoàn cảnh khác
nhau.
* Đối với môn toán:
Để dạy học sinh viết đẹp, viết đúng thì giáo viên cần chú trọng chữ viết của học
sinh ở tất cả các môn học chữ không chỉ chú ý rèn chữ viết cho các em ở môn chính tả
và tập viết.
Để giúp học sinh viết đẹp, viết đúng ở môn toán cũng cần có chuẩn mực về
cách đọc, viết đúng chữ số, số và các kí hiệu toán học. Học sinh không chỉ đọc đúng
mà phải viết đúng, chính xác các số, chữ số và các kí hiệu Toán học cũng như trong
tiếng Việt và chữ viết ở tất cả các môn học khác.
Do lớp học 2 buổi/ ngày, nên có nhiều thuận lợi trong việc rèn chữ, viết số cho
học sinh. Bộ chữ số được cấu tạo bằng các nét thẳng và nét cong thống nhất có độ 2 li.
Khi các em luyện viết số, làm toán giáo viên cần nhắc nhở để các em viết cho đúng
mẫu, số ngay ngắn. Chữ viết trong môn toán cũng như trong các môn học khác giáo
viên cần phải nghiêm khắc với các em không để các em viết ẩu, viết ngoáy.
* Đối với giờ chính tả( nghe viết):
Chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm, nghĩa là mỗi âm vị được ghi bằng một
con chữ. Nói cách khác giữa cách đọc và cách viết thống nhất với nhau. Đọc như thế
nào sẽ viết như thế ấy. Trong giờ chính tả, học sinh sẽ xác định cách viết đúng bằng
việc tiếp nhận chính xác âm thanh của lời nói. Nếu đọc đúng thì học sinh sẽ viết đúng.
Chính vì vậy mà với giờ chính tả( nghe viết) yêu cầu cơ bản là giáo viên phải
đọc chuẩn, phát âm đúng, rõ ràng để học sinh dễ dàng nghe, nhận biết chính xác và
viết đúng. Nếu học sinh đọc đúng thì sẽ viết đúng. Khi viết tiếng: giữa các con chữ
trong tiếng phải liên kết sát cạnh nhau.

Muốn giúp học sinh viết đúng một số chữ hay nhầm như l/n, s/x, ch/tr giáo viên
cần chú ý phát âm phân biệt để học sinh dễ nhận ra mà viết cho đúng.

23


Để học sinh không mắc nhiều lỗi chính tả tôi cố gắng rèn cho các em nắm chắc
quy tắc chính tả như: cách viết các phụ âm k, c, ng, ngh, g, gh trước các nguyên âm I,
e, ê, iê, ia…
+Âm k viết trước các nguyên âm e, ê, i, iê, ia…
+Viết c trước các âm: o, ô, ơ, a, u, ư…
+Trường hợp có âm đệm ghi bằng chữ cái u, phải viết q. Ví dụ: quân, quả,
quê…
+Âm “gh”, “ngh” trước các nguyên âm: i, e, ê…
+ Âm “ng”, “g” trong các trường hợp còn lại: o, ô, a, u, ư… Ví dụ: ngô, ngà,
gõ…
Khi viết cần chú ý nhắc học sinh đúng cỡ chữ, độ cao, rộng các con chữ.
Ví dụ: Các chữ o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư, i, c, e, ê… đều có độ cao 1 ô li. Các phụ âm h, l, b,
g đều viết cao 2,5 li, còn chữ d, đ, q, p cao 2 li. Chữ t cao 1,5 ô li. Chữ r, s cao 1,25 ô
li. Tất cả các chữ viết hoa cao 2,5 ô li, riêng chữ G cao 4 ô li.
Để viết hoa đúng, không viết hoa tự do, tôi hướng dẫn học sinh nắm chắc quy
tắc viết hoa Tiếng Việt:
Viết hoa chữ cái đầu câu: Khi trình bày bài thơ thì tất cả các chữ cái đầu dòng
đều phải viết hoa, tên người viết hoa họ+ tên đệm+ tên…
Viết câu: Đầu câu viết hoa, cuối câu có dấu chấm, sau dấu chấm nhớ viết hoa
chữ cái đầu câu tiếp theo.
Trước khi viết học sinh phải nhận biết các tiếng khó, từ khó phân tích và viết ra,
giáo viên uốn, sửa tỉ mỉ, giúp học sinh không nhầm lẫn, sai sót khi viết.
Khi đọc cho học sinh viết chính tả, giáo viên phải đứng chỗ trung tâm của lớp
sao cho tất cả học sinh trong lớp đều nghe rõ. Cô đọc to, rõ ràng đọc 3 lần. Sau đó giáo

viên đi quan sát uốn nắn học sinh viết, giúp đỡ học sinh yếu, kịp thời phát hiện những
học sinh viết chậm, viết còn sai lỗi, thiếu dấu, thiếu nét, nhắc nhở, động viên kịp thời
để giờ học đạt kết quả cao. Sau mỗi giờ viết học sinh phai được chấm điểm, giáo viên
chỉ ra những chỗ sai, nhận xét riêng từng học sinh và sửa sai luôn để học sinh đó viết
lại những chữ sai thành đúng xuống dưới bài hoặc ra 1 quyển vở riêng mỗi tiếng 1
dòng. Bằng cách đó giúp học sinh nhớ lâu và lần sau sẽ tránh những lỗi sai đó. Cuối
giờ nhận xét chung cả lớp để các em rút kinh nghiệm, có như vậy giờ học mới đạt hiệu
quả cao.
24


Kết hợp với phong trào thi đua, bài viết chữ đẹp từng tháng của lớp và phong
trào
“Vở sạch chữ đẹp” của trường để chon ra những bộ sách đẹp nhất, có phần
thưởng thích đáng, động viên khuyến khích kịp thời từ đó nâng cao nhận thức giúp các
em thêm tự tin, tự trọng trong việc luyện viết chữ đúng, đẹp. Từ đó thấy được cái hay,
cái đẹp của cuộc sống, thêm yêu thích môn tập viết. Trong lớp tôi đã tổ chức cho các
em thi đua viết chữ sạch, viết đúng, viết đẹp giữa các bạn trong bàn, trong nhóm, trong
lớp với nhau. Treo giải thưởng bằng những bông hoa điểm tốt hàng ngày, và hàng
tháng có thưởng vở, bút và nêu gương người tốt, việc tốt.
Đối với học sinh nào làm chưa tốt, tôi chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở và có biện pháp
khuyến khích động viên, giúp đỡ ân cần để các em không chán học và cố gắng vươn
lên học tập tiến bộ.
Kết hợp với gia đình để rèn chữ viết cho các em. Ngay từ đầu năm học, tôi đã
gặp gỡ trao đổi với các bậc phụ huynh học sinh để cùng có biện pháp giáo dục. Đề
xuất ý kiến, đồ dùng học tập, gia đình phải sắm đầy đủ cho con em.
Mỗi học sinh phải có 1 vở ô li để rèn chữ ở nhà. Sau mỗi ngày học tôi giao bài
cho học sinh về nhà, yêu cầu cha mẹ có trách nhiệm nhắc nhở và theo dõi các em học,
giúp các em có kĩ năng viết, đọc tốt hơn.


3.3. Kết quả thu được:
Sau cả quá trình rèn luyện. Bằng sự nỗ lực nhiệt tình của bản thân, cùng sự cố
gắng của học sinh. Tôi thấy chữ viết của học sinh lớp 3A6 có sự tiến bộ rõ rệt qua từng
ngày, từng tháng. Học sinh trong lớp có nhiều em viết đẹp, sạch sẽ như em: Trang,
Nhi, H.Giang, Lê Huy, Quang Huy, Đức, Hiền, Ngân, N.Anh… và trong đợt thi viết
chữ đẹp cấp trường lớp tôi đã có 5 em được chọn đi thi 1 em đạt giải nhì, 2 em đạt giải
ba, 2 em đạt giải khuyến khích. Trong đó 1 em đạt giải nhì được đi thi viết chữ đẹp cấp
Quận và em đó đã đạt giải nhất đó là em Kiều Thu Trang.

25


×