Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Kỷ yếu hội thảo khoa học: Bản chất cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 167 trang )

MỤC LỤC
STT

TÊN BÀI VIẾT

Trang

PHẦN I: BẢN CHẤT CÁCH MẠNG VÀ KHOA HỌC CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1

BẢN CHẤT KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN
1

ThS Đỗ Thị Thanh Hà

2

Khoa Luật và KHCT, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN – NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ
NAM CHO HÀNH ĐỘNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ThS Nguyễn Hồ Thanh
2

Bộ môn Giáo dục quốc phòng, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM

7

ThS Dương Thị Bích Thủy


Trường Chính trị Tôn Đức Thắng An Giang

CHỦ NGHĨA GIÁO ĐIỀU – BIỂU HIỆN TRÁI NGƯỢC BẢN CHẤT
KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
3

ThS Nguyễn Văn Nòn

16

Khoa Luật và KHCT, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM
TƯƠNG LAI CỦA CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NHÌN TỪ GÓC
ĐỘ CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 (CMCN 4.0)
ThS Hoàng Thị Kim Liên
4

Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng

24

ThS Võ Thị Như Huệ
Trường Đại học Quảng Nam
HỌC THUYẾT MÁC VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN
DIỆN VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC TOÀN DIỆN Ở TRƯỜNG ĐẠI
5

HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY

29
TS Trần Đình Phụng


Khoa Luật và KHCT, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM


QUAN ĐIỂM MÁC - LÊNIN VỀ THỊ HIẾU THẨM MỸ
6

ThS Đỗ Công Hồng Ân

39

Khoa Luật và KHCT, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM
GIÁ TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN TRONG TIẾN
TRÌNH CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1920 ĐẾN NAY)
7

ThS Võ Thị Như Huệ; ThS Hoàng Thị kim Liên

48

Trường Đại học Quảng Nam

8

CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THEO MÔ HÌNH DÂN CHỦ NHÂN DÂN –
THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM

55


ThS Nguyễn Thành Tín
Khoa Luật và KHCT, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM
BẢN CHẤT CÁCH MẠNG VÀ KHOA HỌC CỦA TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH
9

Võ Thị Thu Hiền

61

Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh-Học viện Chính trị khu vực II
ĐẤU TRANH CHỐNG SỰ XUYÊN TẠC VỀ HỒ CHÍ MINH CỦA
CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY
10

Tạ Văn Sang

73

Khoa Luật và KHCT, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM
PHẦN II: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN KHOA
HỌC MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

11

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ BỘ MÔN
CHÍNH TRỊ - PHÁP LUẬT TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
ĐÀ NẴNG

81


82

ThS Lê Đức Thọ
Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng

12

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN KHI HỌC TẬP
CÁC MÔN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Huỳnh Ngọc An
Khoa Luật và KHCT, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM

89


“BỆNH LƯỜI HỌC TẬP CHÍNH TRỊ” Ở SINH VIÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC AN GIANG
13

Trần Bảo Nguyên

94

Bộ môn Giáo dục quốc phòng, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM

14

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC
TẬP CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI VIỆC HỌC CÁC MÔN KHOA

HỌC MÁC - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY

102

Nguyễn Thị Tú Trinh
Trường Đại học Quảng Nam

15

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY CÁC
MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG
NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

110

ThS Nguyễn Thị Thanh Mai
Khoa Các Môn chung - Trường Đại học Quảng Nam

16

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIẢNG DẠY CÁC MÔN KHOA HỌC MÁC - LÊNIN CHO SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG HIỆN NAY

116

Nguyễn Văn Thúc
Bộ môn Giáo dục quốc phòng, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM


17

GIÁO DỤC NIỀM TIN ĐỐI VỚI CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
Huỳnh Ngọc An
Khoa Luật và KHCT, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM

124

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP TRIẾT
HỌC MÁC - LÊNIN Ở ĐẠI HỌC AN GIANG HIỆN NAY
18

ThS Đỗ Công Hồng Ân

131

Khoa Luật và KHCT, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM
KHAI THÁC HIỆU QUẢ CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN VÀO
VIỆC GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
19

Nguyễn Thị Minh Hải
Phòng Thanh tra - Pháp chế, Trường ĐH An Giang, ĐHQG-HCM

137


20


GIÁ TRỊ CỦA TƯ DUY BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG VIỆC
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN KHOA
HỌC MÁC - LÊNIN Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG HIỆN
NAY

143

ThS Từ Thị Thanh Mỵ
Khoa Luật và KHCT, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM

21

CÁCH TIẾP CẬN MỚI MỘT SỐ NỘI DUNG TRONG MÔN HỌC
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN CHƯƠNG TRÌNH KHÔNG
CHUYÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ THEO TINH THẦN ĐỔI MỚI
CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

149

ThS Nguyễn Thị Thanh Mai
Khoa Các Môn chung - Trường Đại học Quảng Nam
NHỮNG YÊU CẦU TRONG QUÁ TRÌNH GIẢNG DẠY MÔN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
22

Bùi Văn Tuyển
Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam

154



LỜI GIỚI THIỆU
Hội thảo khoa học với chủ đề “Bản chất cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” đã nhận được tổng cộng 22 bài viết
có giá trị của các tác giả từ các trường Đại học, Cao đẳng, Học viện trong nước. Nội
dung bài viết rất phong phú, đa dạng xoay quanh chủ đề, gồm 2 phần cụ thể:
Phần I: Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh
Phần II: Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh hiện nay
Trong quá trình biên tập bài viết, Ban biên tập chỉ chỉnh sửa lỗi kỹ thuật,
chính tả và một số lỗi câu cho rõ nghĩa. Còn nội dung của bài viết, Ban biên tập
nhất trí với quan điểm của tác giả. Bản quyền thuộc về Trường Đại học An Giang,
tuy nhiên quan điểm trình bày trong kỷ yếu này là quan điểm của tác giả. Trường
Đại học An Giang không đảm bảo tính chính xác của các dữ liệu trình bày trong kỷ
yếu và không chịu bất cứ trách nhiệm nào do việc sử dụng các dữ liệu này gây ra.
Thay mặt Ban tổ chức Hội thảo khoa học, chúng tôi chân thành cám ơn sự
hợp tác của các tác giả, các nhà khoa học, các giảng viên, sinh viên và sự hợp tác
của các thành viên tổ chức Hội thảo.
Trân trọng!
BAN BIÊN TẬP



PHẦN I
BẢN CHẤT CÁCH MẠNG VÀ KHOA HỌC
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1



BẢN CHẤT KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

ThS Đỗ Thị Thanh Hà

Tóm tắt: Nói tới chủ nghĩa Mác - Lênin là nói tới thế giới quan, hệ tư tưởng, phương
pháp luận của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu và
làm sáng tỏ bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin chẳng những cần
thiết cho việc đổi mới nhận thức lý luận, phát triển lý luận mà còn cung cấp những luận
chứng khoa học góp phần trong cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận trên thế giới hiện nay,
nhằm bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Từ khóa: Cách mạng; chủ nghĩa Mác – Lênin; khoa học

1. Mở đầu
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống quan điểm lý luận và phương pháp luận khoa học
được kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở hiện thực
của thời đại. Đây là “học thuyết duy nhất từ trước đến nay đặt mục tiêu, chỉ rõ con đường
giải phóng triệt để cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên
thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột”1. Học thuyết chủ nghĩa Mác - Lênin có
giá trị bền vững và là di sản vô giá sống mãi trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ chỉ nam cho
hành động của Đảng cùng cách mạng Việt Nam. Bản thân chủ tịch Hồ Chí Minh từng
khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”2. Ở chủ nghĩa Mác - Lênin, tính khoa
học và cách mạng không tách rời nhau, trong tính khoa học đã bao hàm tính cách mạng và
ngược lại. Bởi lẽ, tính khoa học đòi hỏi phải chỉ ra được quy luật vận động, phát triển
khách quan của lịch sử, ngoài ra nó còn đấu tranh chống lại mọi sự lạc hậu, phản động, bảo

thủ. Tính cách mạng đòi hỏi phải xây dựng xã hội để chống lại xã hội cũ nhất thiết phải tôn
trong và hành động theo quy luật khách quan, tức dựa vào khoa học. Thêm nữa, cần nhận
thấy, bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin mang tính mở, không
cứng nhắc, không bất biến mà đòi hỏi luôn được bổ sung, đổi mới theo sự phát triển của
dòng chảy trí tuệ của nhân loại. Tức nó gắn liền với phong trào cách mạng, với thực tiễn
vận động của lịch sử.


Khoa Luật và Khoa học chính trị, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM
Hoàng Chí Bảo (2010), Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr. 5
2
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 268
1

2


2. Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin
2.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận khoa học, thể hiện trong toàn bộ
các nguyên lý cấu thành học thuyết
Ba bộ phận cấu thành nên chủ nghĩa Mác - Lênin là Triết học Mác - Lênin, Kinh tế
chính trị Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học đều là những hệ thống lý luận khoa
học thống nhất về mục tiêu, biện pháp, con đường thực hiện sự nghiệp giải phóng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới thoát khỏi sự áp bức bất công, xây dựng
xã hội mới tốt đẹp hơn. Ba bộ phận này không hoạt động tách rời, riêng lẻ mà nó là một
chỉnh thể thống nhất với đầy đủ nội dung cốt lõi của toàn bộ học thuyết Mác - Lênin.
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin, trước hết với sự sáng lập của C.Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa có phê phán những thành tựu của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các nhà triết học trước Mác nếu họ

tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng thì các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
đã làm cuộc cách mạng triệt để trong lĩnh vực triết học khi sáng lập một nền triết học mới
gắn kết chặt chẽ hai yếu tố đó với nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Phép duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện đầy đủ trong tự nhiên, xã hội và tư duy với
tư cách là phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới, phương pháp này thấm sâu vào từng
bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác - Lênin, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ học thuyết
Mác - Lênin với tư cách là một chỉnh thể nhất quán không thể tách rời.
Ngoài ra, vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu lịch sử xã hội
loài người, chủ nghĩa Mác - Lênin đã mở ra một sự đột phá mang tính cách mạng và ý
nghĩa lịch sử trong toàn bộ quan niệm về xã hội loài người đó chính là chủ nghĩa duy vật
lịch sử, làm cho chủ nghĩa duy vật biện chứng trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ
chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức toàn bộ xã hội loài người. Trong đó học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội được xem là một trong những phát kiến vĩ đại của các
ông. Đây là cơ sở vững chắc để xem xét sự phát triển của xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên với sự phát triển trước hết của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định trong
việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ quan hệ xã hội và chế độ xã
hội cũng như sự thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội
khác.
Thứ hai, trên phương diện kinh tế chính trị, chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm một bước
đột phá về tư duy lý luận khi đưa ra luận điểm về học thuyết giá trị thặng dư trong chủ
nghĩa tư bản. Quan điểm trên đã chỉ ra quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản, vạch
trần bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư do sức lao động của
những người lao động làm thuê tạo ra. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra
rằng bóc lột giá trị thặng dư là bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa tư bản, là đầu mối của mọi
mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Thứ ba, nghiên cứu từ thực tế và điều kiện kinh tế - xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin đã
đưa ra học thuyết về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Các ông chỉ ra rằng:
“Trong tất cả các giai cấp đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai
3



cấp thật sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát
triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”1. Học thuyết Mác - Lênin nhận định giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng có khả
năng giác ngộ về vai trò sứ mệnh lịch sử của mình để giải phóng toàn bộ xã hội khỏi chế
độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
2.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu giải phóng xã
hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người với con đường, lực lượng và phương
thức rõ ràng để đạt được mục tiêu đó
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất đặt ra mục tiêu, chỉ rõ con đường giải
phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới
thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột. Đồng thời cũng chỉ ra lực lượng cách mạng thực
hiện sự nghiệp giải phóng trên là giai cấp công nhân cùng với sự liên minh với toàn thể
nhân dân lao động để đem lại thắng lợi cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Mặt khác, các ông chỉ ra quy luật của sự giải phóng và phát
triển xã hội, đó là quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, về sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội
khác không phải diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp.
Từ quá trình nghiên cứu mâu thuẫn nội tại trong lòng xã hội tư bản, chủ nghĩa Mác Lênin đưa ra những quan điểm về cách mạng vô sản, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản
trong cuộc chiến giành chính quyền để xây dựng xã hội mới. Lý luận về chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản đã nghiên cứu những điều kiện lịch sử và những quy luật lật đổ xã hội tư
sản, xây dựng xã hội cộng sản. Nó làm sáng tỏ vai trò của giai cấp vô sản và quần chúng lao
động do Đảng Cộng sản lãnh đạo trong quá trình đấu tranh nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản,
xây dựng hình thái kinh tế - xã hội mới: chủ nghĩa cộng sản. Đặc biệt, khi nghiên cứu chủ
nghĩa tư bản trong giai đoạn độc quyền và chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin đã phát hiện ra quy
luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản. Từ đó, người đưa ra dự báo rằng “cách mạng
vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở một nước (có thể vài nước), nơi tập trung những mâu
thuẫn gay gắt nhất của nhân loại và cũng là nơi có lực lượng cách mạng to lớn, phong trào
cách mạng phát triển mạnh mẽ”2. Quan trọng hơn là dự báo đó của V.I.Lênin đã trở thành
hiện thực với thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại 1917.
Bên cạnh đó, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin còn chỉ ra rằng để chủ

nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản được xây dựng thành công còn tùy thuộc vào điều kiện,
đặc điểm riêng của từng quốc gia, dân tộc và cần trải qua nhiều giai đoạn khác nhau,
những giai đoạn đó đều khó khăn và phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân giai cấp công
nhân, toàn thể nhân dân cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng tiên phong. Về vấn đề này,
vận dụng vào Việt Nam, Đảng ta cũng từng nhận định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự

1

C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 610
Nguyễn Thế Nghĩa & Thái Thị Thu Hương (đồng chủ biên, 2014), Những vấn đề cơ bản và cấp bách của
Triết học Mácxít, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 296
2

4


nghiệp khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.”1
Như vậy, có thể thấy, chủ nghĩa Mác - Lênin đã dựa trên điều kiện thực tiễn cùng
quá trình nghiên cứu trực tiếp sự vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa để
tìm ra quy luật mang tính khoa học và cách mạng về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản
cũng như thắng lợi của chủ nghĩa xã hội như một tất yếu khách quan thông qua cuộc cách
mạng xã hội.
2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mở không ngừng đổi mới, phát triển
trong điều kiện thực tiễn của thế giới
Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin còn được thể hiện bởi
sự đổi mới và phát triển của một hệ thống mở gắn liền với tri thức của nhân loại. C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin từng khẳng định học thuyết của các ông không phải là cái đã
xong xuôi. Ph.Ăngghen đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, lý luận của chúng tôi không phải

giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động, về phía V.I.Lênin, ông cũng nêu quan điểm:
“Tuyệt đối không coi lý luận của C.Mác là một cái gì đó nhất thành bất biến và thần thánh
hóa không thể xâm phạm, hoàn toàn trái lại, chúng ta tin rằng nó chỉ đặt cơ sở cho một
khoa học, những người xã hội chủ nghĩa nếu không muốn lạc hậu với đời sống thực tế, cần
đẩy môn khoa học này tiến lên phía trước trên mọi phương diện”2. Chủ nghĩa Mác - Lênin
thật chất không phải “là liều thuốc vạn năng được bốc sẵn để chữa trị mọi căn bệnh trong
đời sống xã hội, cũng không phải là cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm”3. Do
đó, học thuyết Mác - Lênin là học thuyết mở, theo nghĩa là nó “luôn được nạp năng lượng
mới từ cuộc sống và luôn động, luôn luôn phát triển”4.
Hiện nay, công việc phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin là trách nhiệm của thế
hệ kế tiếp. Mặt khác, khi vận dụng các nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác - Lênin, nhất
thiết phải dựa vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng nước trong từng thời kỳ cách mạng để
vận dụng một cách sáng tạo và phát triển không ngừng.
Tuy nhiên, cần nhận thấy, dù là học thuyết mở và cần có sự thay đổi, bổ sung cho
phù hợp với tình hình mới nhưng thế giới quan, phương pháp luận, nội dung mang tính
khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn luôn là chân lý bền vững, đã, đang và
sẽ là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động đối với tất cả các cuộc cách mạng lấy
con người làm mục đích cuối cùng từ khi ra đời đến nay.
3. Thay lời kết
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin tạo nên những biến chuyển có ý nghĩa cách
mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Lần đầu tiên giai cấp vô sản trên thế giới có một
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr. 85
2
Nguyễn Thế Nghĩa & Thái Thị Thu Hương, sđd, tr. 17.
3
Nguyên Bá Dương (2018), Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác, Nxb Chính trị quốc gia
Sự Thật, Hà Nội, tr.285

4
Mạch Quang Thắng (2015), “Một số điểm nhận thức trên tư duy mới về chủ nghĩa Mác”, Tạp chí Đại học
Thủ Dầu Một, số 3, tr. 6 (tr.3-11)

5


lý luận tiên phong mang bản chất khoa học, cách mạng, soi sáng, dẫn đường. Chủ nghĩa
Mác - Lênin trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng để
giai cấp công nhân nhận thức, cải tạo thế giới, đưa nhân dân lao động từ địa vị nô lệ trở
thành chủ nhân của chế độ xã hội mới. Toàn bộ học thuyết Mác - Lênin có giá trị bền vững
trong sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính đảng và tính khoa học, sự thống
nhất giữa triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của điều kiện kinh tế - xã hội, học thuyết
Mác - Lênin đang đứng trước thời cơ và thách thức. Do vậy, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung,
bảo vệ tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã hội hiện đại không
chỉ là sự phát triển tự thân của chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn là đòi hỏi cấp bách đối với
những người Mác- xít chân chính trong thời đại ngày nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hoàng Chí Bảo, Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, (2010).
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, (1995)
[3] Nguyên Bá Dương Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác, Nxb
Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, (2018).
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, (2001).
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, (2002).
[6] Nguyễn Thế Nghĩa & Thái Thị Thu Hương, Những vấn đề cơ bản và cấp bách
của Triết học Mácxít, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, (2014).
[7] Mạch Quang Thắng, “Một số điểm nhận thức trên tư duy mới về chủ nghĩa Mác”,

Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, 2015, số 3, 3-11.

6


CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN – NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ NAM
CHO HÀNH ĐỘNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ThS Nguyễn Hồ Thanh
ThS Dương Thị Bích Thủy

Tóm tắt: Bài viết phân tích cơ sở và những giá trị bền vững khẳng định chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng Cộng sản Việt Nam, là nguyên tắc của Đảng, là nguyên nhân mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Qua đó, đề xuất một số nguyên tắc cần quán triệt khi vận dụng, bổ sung,
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin hiện nay.
Từ khóa: Chủ nghĩa Mác - Lênin, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam, Đảng Cộng sản
Việt Nam.

1. Đặt vấn đề
Thực tiễn và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta nói chung cũng như sự
trưởng thành, lớn mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam hơn 90 năm qua nói riêng là kết quả
tổng hợp của rất nhiều yếu tố. Nhưng có một thực tế không thể phủ nhận, đó là nhờ Đảng
ta đã được vũ trang bằng lý luận cách mạng và khoa học: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ cách mạng mới, việc tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam
vẫn là một tất yếu khách quan, là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết. Đảng Cộng sản
Việt Nam “là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của toàn dân tộc Việt Nam”1. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đây là vấn đề có

tính nguyên tắc, thể hiện bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của
Đảng, thể hiện lập trường kiên định của Đảng trước những diễn biến nhanh chóng, phức
tạp của tình hình, đồng thời là tiêu chuẩn cơ bản phân biệt Đảng Cộng sản với các đảng
phái khác.
2. Cơ sở khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến rất nhiều nơi, từ
Pháp, Người đã đến nhiều nước khác ở Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ. Và Người đã đến
quê hương của Cách mạng Tháng Mười Nga, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với bản


Bộ môn Giáo dục quốc phòng, Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM.
Trường Chính trị Tôn Đức Thắng An Giang.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 4.


7


Luận cương của Lênin và như Người đã nói: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái
cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng của chúng ta”1.
Trong quá trình vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam và tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Người tiếp tục khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và
nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ
nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”2.
Tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch sử hoạt động lãnh đạo của Đảng và của quá trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội XI (1/2011) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp
tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”3. Khẳng định trên được xây dựng trên những cơ sở:
2.1. Xuất phát từ tính khoa học, tính cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin
2.1.1. Cơ sở của tính cách mạng và tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin có căn cứ cơ sở khoa học, là một hệ thống các quan điểm lý
luận và phương pháp khoa học, khách quan được kết tinh và là đỉnh cao thành tựu trí tuệ
của loài người, của tinh hoa văn hóa nhân loại.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu, chỉ rõ
con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp
bức trên thế giới khỏi nô dịch và bóc lột, khỏi đói nghèo và tha hóa về nhiều mặt. Đồng
thời, học thuyết đó chỉ ra lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển
xã hội là giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng
và sức mạnh của chính mình.
Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin còn thể hiện đây là học
thuyết mở không cứng nhắc, bất biến, mà đòi hỏi luôn được bổ sung, đổi mới, phát triển
trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại. Toàn bộ học thuyết Mác - Lênin có giá trị bền
vững xét trong tinh thần biện chứng của nó, với bản chất cách mạng, khoa học và nhân
đạo. Chủ nghĩa Mác - Lênin sống mãi trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động trên thế giới và là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.1.2. Sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học trong chủ nghĩa Mác - Lênin
Tính khoa học - khách quan; tính cách mạng - chống cái cũ, bảo thủ, xây dựng cái mới.
Thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học trong chủ nghĩa Mác-Lênin là
thống nhất biện chứng. Tính khoa học đã bao hàm và đòi hỏi trong nó tính cách mạng, bởi
1

Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 562.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.563.
3

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr. 88.
2

8


lẽ khoa học phải bảo vệ cái mới hợp quy luật; ngược lại tính cách mạng cũng đòi hỏi và
bao hàm trong nó tính khoa học, bởi lẽ có khách quan, khoa học mới xây dựng được cái
mới hợp quy luật.
2.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một nhân tố quyết định sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin là bộ
phận cấu thành, giữ vai trò then chốt, quyết định sự ra đời của Đảng.
Chỉ từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng sáng tạo,
truyền bá vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước mới làm cho giai cấp công
nhân và nhân dân lao động nhận thức được bản chất bóc lột, thối nát của chế độ thực dân,
phong kiến và nhận thức được vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình. Từ đó, làm chuyển biến
phong trào công nhân từ tự phát lên tự giác, phong trào yêu nước từ lập trường dân tộc
sang lập trường giai cấp. Chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa giai cấp công nhân Việt
Nam lên vũ đài chính trị và trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng thông qua lãnh tụ
chính trị, đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.3. Thực tiễn hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam và các đảng cộng sản khác
trên thế giới
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành
và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
của nước ta, coi đây là cơ sở lý luận, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam trong xây dựng và
hoạt động của Đảng. Vì vậy, Đảng luôn có cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược….
đúng đắn, lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Lịch sử chứng minh, nếu mơ hồ, dao động về hệ tư tưởng thì sẽ lúng túng trong
hoạch định chủ trương, đường lối, rối loạn trong tổ chức và tất yếu dẫn đến thất bại trong
hành động. Thực tiễn cách mạng nước ta cũng chứng minh trong mỗi giai đoạn cách mạng,
mỗi lĩnh vực công tác, mỗi địa phương nếu xa rời hay vận dụng một cách giáo điều, máy
móc chủ nghĩa Mác - Lênin thì kết quả lãnh đạo của Đảng ở giai đoạn đó, lĩnh vực đó, nơi
đó bị hạn chế, cách mạng sẽ khó khăn, thậm chí thất bại.
Kinh nghiệm ở Liên Xô, Đông Âu đã chứng minh quan điểm đúng đắn của Đảng ta:
mọi thành công hay thất bại của cách mạng đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng, bất cứ
nơi nào và lúc nào, đảng nào xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách giáo điều, duy ý chí, vi phạm những nguyên lý
về đảng của giai cấp công nhân, thì nhất định trước sau đảng đó sẽ phạm sai lầm, đội ngũ
đảng chia rẽ, mất uy tín trước quần chúng và có thể đưa cách mạng đến thất bại. Trung
thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng, phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã trải

9


qua nhiều thử thách, trở thành một đảng mácxít kiên cường, vững vàng trước những biến
cố vô cùng khó khăn của lịch sử ở trong nước và trên thế giới1.
Hiện nay bọn cơ hội xét lại và giai cấp tư sản đang tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận
các giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có học thuyết về chính đảng cách
mạng của giai cấp công nhân, thì việc nghiên cứu nắm vững thực chất những nguyên lý
của học thuyết Mác - Lênin càng có ý nghĩa to lớn, giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
nắm vững những cơ sở lý luận để quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới, chính
sách, góp phần xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh.
3. Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin - cơ sở, nền tảng tư tưởng
lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng đối với lịch sử phát triển của cách
mạng thế giới và cách mạng Việt Nam
3.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết phát triển

Về bản chất, chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết phát triển, là hệ thống mở với
bản chất vốn có là luôn luôn được bổ sung, phát triển. Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Lý luận của
chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải
học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”2.
V. I. Lênin bổ sung, phát triển nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác cho phù hợp với
điều kiện thực tiễn cũng như sự phát triển của khoa học cùng với cuộc đấu tranh chống lại
các loại hình kẻ thù của chủ nghĩa Mác. V.I. Lênin khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý
luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta
tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa
cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc
sống”3. Một số điểm cơ bản V.I. Lênin phát triển so với C. Mác:
C. Mác

V.I. Lênin

Cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể Cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể thắng ở
thắng đồng thời ở một loạt nước tư bản chủ một số nước, thậm chí một nước tư bản chủ
nghĩa.
nghĩa.
Quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội.

Quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ
những nước kinh tế lạc hậu.

Sớm xóa bỏ kinh tế thị trường; kinh tế kế Kinh tế nhiều thành phần; kết hợp kế hoạch
hoạch hóa tập trung; một hình thức sở hữu với thị trường; chấp nhận đa dạng hóa hình
công cộng (nhà nước).
thức sở hữu trên cơ sở công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu.


1

Hội đồng Lý luận Trung ương (2015), Phê phán các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng cương
lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 42-43.
2
C. Mác và Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, t.36, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 776.
3
V. I. Lênin (1974), Toàn tập, t.4, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva-Sự thật, tr. 232.

10


Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!

Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp
bức đoàn kết lại.

Nhà nước kiểu Công xã Pari.

Nhà nước kiểu Xô viết - mới.

Và khi khẳng định lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận phát triển không có nghĩa
là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin không ổn định. Có những luận điểm
cụ thể nào đó do thực tiễn chính trị - xã hội, cũng như do sự phát triển của kinh tế, của
khoa học,... đã đổi thay mà cần phải được bổ sung, phát triển, thậm chí loại bỏ.
3.2. Chủ nghĩa nhân văn vì con người
Chủ nghĩa Mác - Lênin xuất phát từ con người và cũng nhằm mục đích giải phóng
con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin không có mục tiêu nào khác là giải phóng con người
khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột. Nhưng để giải phóng con người, trước hết phải
giải phóng giai cấp công nhân. Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng tỏ ý

nghĩa to lớn của chủ nghĩa nhân văn vì con người của chủ nghĩa Mác - Lênin.
3.3. Phương pháp biện chứng duy vật
Cho đến nay nhân loại đã biết tới nhiều phương pháp nhận thức khác nhau nhưng
hiện tại chưa có phương pháp nào có thể thay thế được phương pháp biện chứng duy vật
của triết học Mác - Lênin. Phương pháp biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin là sự
kết tinh toàn bộ tinh hoa trong lịch sử phát triển của phương pháp biện chứng từ thời cổ đại
đến thời đại của Mác.
Phương pháp biện chứng duy vật còn được bổ sung bởi những thành tựu vĩ đại của
khoa học tự nhiên đương thời cũng như cơ sở thực tiễn là phong trào đấu tranh cách mạng
của phong trào công nhân thế giới. Các nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát triển, lịch
sử - cụ thể và thực tiễn của Phương pháp biện chứng duy vật vẫn còn nguyên giá trị
phương pháp luận khoa học. Cụ thể:
Một là, nguyên tắc khách quan
Nguyên tắc này yêu cầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ
thực tế khách quan; tôn trọng quy luật khách quan, hành động theo quy luật khách quan;
nhìn thẳng vào sự thật; xem xét sự vật một cách trung thực như nó vốn có, không tô hồng,
không bôi đen. Chống chủ quan duy ý chí. Không lấy mong muốn chủ quan thay cho hiện
thực khách quan.
Hai là, nguyên tắc phát triển
Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật trong sự vận động, biến đổi, phát triển.
Chống bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, yêu cầu phải tin tưởng tương lai; Trong thực tiễn phải
có tầm nhìn chiến lược, dự báo được các tình huống có thể xảy ra để có các phương án dự
phòng tối ưu; nếu có khó khăn thất bại tạm thời phải bình tĩnh, tự tin tin vào tương lai vì
quy luật chung là phát triển đi lên.
11


Ba là, nguyên tắc toàn diện
Nguyên tắc này đòi hỏi xem xét sự vật phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ
của sự vật. Tuy nhiên, cần phải có trọng tâm, trọng điểm. Trong hoạt động thực tiễn muốn

giải quyết vấn đề gì phải thực hiện đồng bộ các giải pháp. Chống bệnh phiến diện cực
đoan, một chiều. Chống chiết trung, ngụy biện dàn đều bình quân chủ nghĩa.
Bốn là, nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật phải vừa cụ thể (trong không gian, thời gian
xác định, mối liên hệ cụ thể) vừa lịch sử (trong hoàn cảnh lịch sử, tính lịch sử, điều kiện
lịch sử cụ thể). Chống giáo điều, rập khuôn, máy móc, chung chung đại thể.
Năm là, nguyên tắc thực tiễn
Xem xét sự vật gắn với nhu cầu thực tiễn. Lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự
đúng sai của lý luận, chủ trương, đường lối. Coi trọng tổng kết thực tiễn, để bổ sung, hoàn
thiện, phát triển lý luận. Chống bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí.
3.4. Quan niệm duy vật về lịch sử
Quan niệm duy vật về lịch sử này đã chấm dứt sự lộn xộn và tùy tiện vẫn thống trị từ
trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị. Quan niệm duy vật về lịch sử
của C. Mác lần đầu tiên trong lịch sử đã thấy được căn nguyên của những động cơ vật chất,
đặc biệt là động cơ lợi ích kinh tế trong hoạt động lịch sử của con người.
Quan niệm duy vật về lịch sử cũng xuất phát từ trình độ phát triển của nền sản xuất
vật chất xã hội để lý giải những quan niệm tư tưởng cũng như những điều kiện xã hội của
của đời sống của quần chúng nhân dân cùng vai trò của họ trong lịch sử. Quan niệm duy
vật về lịch sử đã xem xét xã hội một cách chỉnh thể, toàn diện quá trình phát sinh, phát
triển và suy tàn của các hình thái kinh tế - xã hội.
Quan niệm duy vật về lịch sử xuất phát từ đời sống vật chất để lý giải đời sống tinh
thần của xã hội. Quan niệm duy vật về lịch sử trong khi khẳng định vai trò quyết định của
đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, kinh tế đối với chính trị,… đã không hề hạ
thấp mà còn nhấn mạnh sự tác động trở lại của đời sống tinh thần đến đời sống vật chất,
của chính trị đối với kinh tế,... Do vậy, chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác về bản chất
cũng là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
3.5. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội mà điểm cốt lõi của nó là quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. C. Mác đã vận dụng quy luật này để phân tích về sự vận động và phát triển của hình

thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa; đồng thời chỉ ra xu hướng phát triển tất yếu của hình
thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa (giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa).
Học thuyết C. Mác về hình thái kinh tế - xã hội đã được thực tiễn khắc nghiệt kiểm
nghiệm. Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu cùng những thiếu
12


sót nghiêm trọng về mọi mặt của các nước tuyên bố theo con đường xã hội chủ nghĩa cũng
không thể coi là bằng chứng bác bỏ tính khoa học của học thuyết C. Mác. Tất cả những gì
đã diễn ra chỉ chứng tỏ rằng, chưa có ở đâu trên trái đất này có đủ những điều kiện cần
thiết cho sự ra đời của xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Những lý
tưởng cao đẹp của chủ nghĩa cộng sản: dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, không có áp bức
bóc lột, thế giới đại đồng... vẫn là những mơ ước ngàn năm và vẫn là mục đích đấu tranh
của thế giới văn minh ngày nay.
Với những ý nghĩa đó, có thể nói rằng, không phải thời đại chúng ta đã bỏ qua học
thuyết C. Mác mà chính học thuyết C. Mác đã vượt qua ngay cả thời đại chúng ta. Điều đó
không có nghĩa là mọi luận điểm mà học thuyết C. Mác nêu ra đều đúng. Nếu chỉ xét học
thuyết C. Mác trong phạm trù hình thái kinh tế - xã hội ta đã thấy rằng: cho đến nay chưa
ai có thể phủ nhận sự phân tích mác xít về tiến trình lịch sử. Nhưng do những hạn chế thời
đại của mình, C. Mác và những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác chưa bao giờ luận chứng
được rõ ràng, cụ thể lực lượng sản xuất mà xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa cần phải thiết lập.
3.6. Học thuyết giá trị thặng dư
C.Mác là nhà kinh tế học đầu tiên phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư trong phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ông đã thành công trong việc chỉ ra nguồn gốc của giá trị
thặng dư. Các học giả tư sản dù muốn cũng chưa một ai đưa ra được một lý thuyết nào khả
dĩ có thể bác bỏ được học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác.
G. Sôrốt là nhà tỷ phú đầu cơ chứng khoán, một người chống chủ nghĩa Mác nhưng
cũng phải thừa nhận: “C. Mác và Ph. Ăngghen đã cho một phân tích rất tốt về hệ thống tư

bản từ cách đây 150 năm”1.
Trong giai đoạn hiện nay, cần bổ sung (sở hữu trí tuệ, bản quyền; quảng cáo; quản lý
phí của chính nhà tư bản,...) nhưng về bản chất học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn nguyên
giá trị khoa học.
3.7. Về vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân
C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, trong tất cả các giai cấp đang đối lập với giai cấp
tư sản chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng có vai trò, sứ mệnh lịch sử lật
đổ giai cấp tư sản thiết lập một chế độ xã hội mới không còn người bóc lột người. Mặc dù
cuộc sống có tiến bộ hơn, nhưng bản thân người công nhân hiện đại vẫn là người làm thuê
hiện đại, vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư.
Xét về nội dung kinh tế giai cấp công nhân vẫn là chủ thể chủ yếu của quá trình sản
xuất vật chất trong nền công nghiệp hiện đại, vẫn là người gắn với lực lượng sản xuất hiện
đại, có những phẩm chất như tinh thần đồng đội, tập thể, có tầm nhìn xa trông rộng, có tính
kỷ luật cao, có khả năng quy tụ, lãnh đạo các giai cấp khác. Xét về nội dung chính trị - xã
hội cho thấy chỉ có giai cấp công nhân mới có thể liên minh với nhân dân lao động khác do
1

Hội đồng Lý luận Trung ương (2015), Phê phán các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng cương
lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 51.

13


đảng cộng sản lãnh đạo để xây dựng xã hội mới; mới giải quyết được các vấn đề chính trị xã hội trong quá trình xây dựng xã hội mới. Xét về nội dung văn hóa, tư tưởng, chỉ có giai
cấp công nhân mới là lực lượng xác lập được các hệ giá trị mới như lao động, công bằng,
dân chủ, bình đẳng, tự do để thay thế cho hệ giá trị tư sản cũ.
3.8. Học thuyết về chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một lý tưởng vẫn sống mãi, sự sụp đổ của chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô, Đông Âu là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội giáo điều, cứng
nhắc, không phải sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung.

Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một phong trào hiện thực vẫn tồn tại, với tư cách là
một chế độ chính trị - xã hội vẫn tồn tại, phát triển ở Việt nam, Trung Quốc, Cu Ba,...
Mặc dù quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen về chủ nghĩa xã hội mới chỉ mang tính
phác thảo về những nguyên tắc chung nhất cơ bản nhất: có sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản; nền đại công nghiệp với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, phân phối theo
lao động; Nhà nước của dân, do dân, vì dân; dân chủ xã hội chủ nghĩa,.. vẫn giữ nguyên
giá trị lý luận và thực tiễn.
Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là do tất yếu
kinh tế quy định và đều tất yếu như nhau; cách thức khác nhau của các quốc gia, dân tộc đi
lên chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội là kết quả phát triển tổng hợp của tinh hoa mọi thời
đại, mọi dân tộc.
4. Vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin góp phần bảo
vệ nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
4.1. Tính tất yếu phải vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
Thứ nhất, chỉ có phát triển, thông qua phát triển và bằng phát triển chủ nghĩa MácLênin mới thể hiện được sức sống của mình đối với thời đại.
Thứ hai, thời đại ngày nay đang có nhiều biến động sâu sắc đòi hỏi chủ nghĩa Mác Lênin phải luôn không ngừng được vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển để phù hợp với
tình hình biến đổi của thực tiễn.
Thứ ba, bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin hàm chứa những luận điểm mà để giải quyết
chúng, chúng ta phải tìm ở chính thực tiễn ngày hôm nay, chứ không có tiền lệ trong lịch
sử, nghĩa là chúng ta phải luôn luôn tìm tòi, vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam qua tổng kết thực tiễn Việt
Nam và thế giới đã có những nhận thức đúng đắn hơn, đầy đủ hơn về chủ nghĩa Mác-Lênin,
và đã có những bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về một loạt vấn đề lý luận.
4.2. Một số nguyên tắc cần quán triệt khi vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin
Một là, vận dụng sáng tạo góp phần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin không
phải là phủ định mà tiếp tục làm sáng tỏ, làm giàu thêm và khẳng định bản chất, cách
mạng, khoa học vốn có của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thực tiễn mới.
14



Hai là, vận dụng sáng tạo góp phần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phải
đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, vận dụng sáng tạo góp phần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phải
kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, thù địch, những quan điểm nhân
danh phát triển để chống lại chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bốn là, vận dụng sáng tạo góp phần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phải
trên cơ sở tổng kết một cách khoa học thực tiễn đổi mới đất nước và thực tiễn khu vực
cũng như thế giới.
5. Thay lời kết
Học thuyết Mác - Lênin có sức sống mãnh liệt và có giá trị thời đại, bởi vì đây là học
thuyết khoa học và cách mạng. Học thuyết đó là cơ sở thế giới quan, cơ sở phương pháp
luận khoa học của nhân loại và gợi mở cho sự nghiên cứu tiếp tục trong tương lai của loài
người. Học thuyết Mác - Lênin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự trở thành nền
tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng ta trong lãnh đạo
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đây là học thuyết khoa học và đúng đắn, nhưng học thuyết Mác - Lênin cũng là sản
phẩm của thời đại, của hoàn cảnh lịch sử nhất định, nên không thể đưa ra những giải pháp
đầy đủ, chi tiết, cặn kẽ đối với mọi vấn đề, ở mọi thời đại, của mọi quốc gia. Do vậy, cần
phải xem học thuyết Mác - Lênin là học thuyết mở, cần được bổ sung, phát triển không
ngừng cùng với tiến trình phát triển tri thức, khoa học, thực tiễn của nhân loại. Khi vận dụng
các nguyên lý cơ bản của học thuyết đó, nhất thiết phải dựa vào điều kiện lịch sử cụ thể của
từng nước để vận dụng một cách sáng tạo. Những thắng lợi mang tính lịch sử của cách mạng
Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo là minh chứng thuyết phục nhất về sự vận dụng
sáng tạo và sự đóng góp của Đảng ta, của nhân dân ta cho sự phát triển học thuyết Mác Lênin. Vận dụng lý luận vào thực tiễn là con đường cam go, khúc khuỷu, phải có cơ chế
thích hợp và đòi hỏi thái độ khách quan, khoa học, trung thực thì mới thành công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3] Hội đồng Lý luận Trung ương (2015), Phê phán các quan điểm sai trái, bảo vệ
nền tảng tư tưởng cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
[4] C. Mác và Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, t.36, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6] V. I. Lênin (1974), Toàn tập, t.4, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva-Sự thật.

15


CHỦ NGHĨA GIÁO ĐIỀU – BIỂU HIỆN TRÁI NGƯỢC BẢN CHẤT KHOA
HỌC VÀ CÁCH MẠNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

ThS Nguyễn Văn Nòn

Tóm tắt: Chủ nghĩa Mác ra đời từ giữa thế kỷ XIX đã tạo nên một bước ngoặt cách
mạng trong lịch sử triết học. Với bản chất khoa học, cách mạng của mình nó đã trang bị
cho loài người và nhất là giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức công cụ vĩ đại để nhận
thức và cải tạo thế giới. Với tư cách là một hệ thống mở cần được bổ sung và phát triển ở
không - thời gian khác nhau với tinh thần biện chứng. Tuy nhiên thực tiễn chủ nghĩa xã hội
hiện thực khi vận dụng lại rơi vào máy móc, giáo điều đã dẫn đến những cơn địa chấn
chính trị làm tan rã hệ thống. Vì vậy, nhìn nhận thực chất chủ nghĩa giáo điều từ những
thành công và thất bại của chủ nghĩa xã hội để có sự linh hoạt, sáng tạo trong việc tìm ra
mô hình phát triển phù hợp với thực tiễn để đưa đất nước phát triển là một vấn đề thật sự
cần thiết để hướng đến mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Từ khóa: Chủ nghĩa giáo điều; bước ngoặt cách mạng; bản chất khoa học

1. Mở đầu

Sự nghiệp đổi mới, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập đặt ra hàng loạt vấn đề về nhận thức, trong đó có cả việc đánh giá
các sai lầm lý luận trong quá khứ, rút ra những bài học cho hiện tại và tương lai. Nhìn lại
chủ nghĩa giáo điều - một trong những tác nhân đưa đến sự khủng hoảng lý luận của chủ
nghĩa xã hội tại Liên Xô và Việt Nam những năm 80 của thế kỷ XX - có thể thấy rằng khi
nào giá trị khoa học của một học thuyết bị biến thành tín điều, thành thứ chân lý tuyệt đỉnh,
không cần đến sự thẩm định và sự phản biện của cuộc sống, không cần tiếp tục được bổ
sung, phát triển sáng tạo, cụ thể hóa trên mảnh đất trần tục, hiện thực, thì khi ấy tính định
hướng, tính gợi mở của nó biến thành tính giáo huấn thuần túy, một chiều, và nếu học
thuyết - tín điều đó trở thành lý luận nền tảng, chính thống, thì sự tác động của nó đến sinh
mệnh chính trị của cả một dân tộc, một chế độ xã hội là khó tránh khỏi, để lại hậu quả cho
nhiều thế hệ, nhất là khi nó đi vào lối sống, tác phong công việc, đóng vai trò những chuẩn
mực, những giá trị không thể bác bỏ. Vậy thực chất chủ nghĩa giáo điều là gì? Đâu là cội
nguồn lịch sử của nó? Có hay không hiện tượng “chủ nghĩa giáo điều mới”, hay những
biến tướng của chủ nghĩa giáo điều trong nhận thức và hoạt động thực tiễn hiện nay?

16


2. Nội dung
2. 1. Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin
Một là, triết học mácxít là sự thống nhất hữu cơ chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
Trước Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng về cơ bản là tách biệt nhau. Chủ
nghĩa duy vật tuy có ẩn giấu một số tư tưởng biện chứng nhất định, song về cơ bản là
phương pháp siêu hình giữ vai trò thống trị, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII –
XVII. Công lao lịch sử của Hêghen là đã phát triển phép biện chứng từ trình độ tự phát trở
thành một khoa học, từ tản mạn thành hệ thống, đem đến cách hiểu hiện đại về phép biện
chứng như học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, vượt qua cách hiểu mang
nặng tính chủ quan về phép biện chứng như “nghệ thuật đối thoại”, xuất phát từ người Hy
Lạp. Phép biện chứng, với tính cách như trên, được Hêghen trình bày trong “Khoa học

lôgíc”, hay “Lôgíc học” theo nghĩa rộng, hàm chứa sự thống nhất phép biện chứng, lý luận
nhận thức và lôgíc học. Tuy nhiên phép biện chứng Hêghen lại được hình thành trên cơ sở
thế giới quan duy tâm, do đó tỏ ra không triệt để và đầy mâu thuẫn. Phoiơbắc phê phán chủ
nghĩa duy tâm tư biện Hêghen, khôi phục truyền thống duy vật, kết hợp với thuyết nhân
bản đặc trưng của mình. Song thứ chủ nghĩa duy vật ấy lại chịu sự chi phối của phương
pháp tư duy siêu hình. Để xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã cải tạo cả chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng duy tâm. Giải phóng chủ
nghĩa duy vật siêu hình và giải thoát phép biện chứng ra khỏi chủ nghĩa duy tâm. Hai ông
đã thống nhất thế giới quan duy vật với phép biện chứng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện
chứng và phép biện chứng duy vật. Cơ sở của sự thống nhất nằm ở sự thống nhất vật chất
của thế giới. Ở đây, chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ
nghĩa duy vật, còn phép biện chứng duy vật là khoa học về sự phát triển.
Hai là, triết học mácxít là sự thống nhất giữa triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử
Các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể hiện một cách sinh
động và sáng tạo trong việc phân tích tiến trình lịch sử - xã hội, làm sáng tỏ các quy luật
vận động và phát triển của nó. Khắc phục quan niệm duy tâm và siêu hình về lịch sử, triết
học mácxít thực sự trở thành chủ nghĩa duy vật triệt để trong quan niệm về tự nhiên, xã hội
và tư duy. Chủ nghĩa duy vật lịch sử không phải đơn thuần là sự vận dụng chủ nghĩa duy
vật biện chứng vào tìm ra bản chất vận động của đời sống xã hội, mà nó còn là sự tổng kết
sâu sắc lịch sử nhân loại, kế thừa có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội trên cơ sở khái quát
thực tiễn của thời đại mới.
Ba là, triết học mácxít là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Thế giới quan duy vật biện chứng nổi bật và khác biệt với các loại thế giới quan khác
ở chỗ nó không chỉ là lý luận khoa học phản ánh đúng đắn bản chất, quy luật vận động và
phát triển của thế giới mà còn là học thuyết khoa học cải tạo thế giới. “Các nhà triết học đã
chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”1. Trong
1

Bộ Giáo Dục và Đào Tạo: Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 157.


17


“Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu” và “Gia đình thần
thánh” Mác không dưới một lần nhấn mạnh “thủ tiêu”, “xoá bỏ”, “phủ định” triết học theo
nghĩa cũ, thứ triết học tư biện, “bay lượn cao” trên biển cả cuộc sống đầy bão táp. Đối với
Mác không phải cuộc sống diễn ra theo những đồ thức luận tư duy, mà ngược lại, đồ thức
luận tư duy cần thường xuyên được điều chỉnh theo những diễn biến của cuộc sống. Vì thế
quan điểm thực tiễn đã trở thành quan điểm xuất phát, nền tảng trong triết học Mác. Nhờ
hiểu thực tiễn từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng mà nguyên tắc thống nhất lý
luận và thực tiễn mang thông điệp mới. Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan
điểm thực tiễn nghĩa là phải xem thực tiễn như nguồn gốc, cơ sở, động lực, mục tiêu của
nhận thức, tiêu chụẩn kiểm tra chân lý. Hơn thế nữa, chỉ xuất phát từ thực tiễn mới khắc
phục được quan điểm siêu hình trong nhận thức và hành động, bởi lẽ thực tiễn biến đổi sẽ
thực hiện quá trình sàng lọc, đào thải đối với lý luận; những quan điểm nào tỏ ra lỗi thời,
không đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội, sẽ phải nhường chỗ cho cái mới, cái hợp lý.
Bốn là, triết học mácxít thống nhất giữa tính cách mạng với tính khách quan khoa
học; vũ khí lý luận của giai cấp vô sản
Với tư cách là thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật triết học
mácxít đã mang trong mình bản chất khoa học và cách mạng. Bản chất của triết học mácxít
thể hiện ở chỗ nó không chỉ giải thích đúng đắn thế giới mà còn cải tạo thế giới. Ở đây, triết
học mácxít trở thành vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp vô sản cách mạng, còn giai cấp vô
sản cách mạng là vũ khí vật chất của triết học mácxít trong cuộc đấu tranh giải phóng con
người và loài người. C. Mác viết: “Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự
giận dữ và sự kinh hoàng cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giáo điều của chúng mà
thôi, vì trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng
bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của
nó; vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xem xét trong sự vận động, tức
là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái

gì cả, và về thực chất thì nó có tính phê phán và tính cách mạng”1
Năm là, triết học mácxít xác định đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với các khoa học
cụ thể
Trong lịch sử triết học trước Mác, các trường phái và các nhà triết học đều có quan
niệm chung rằng: “Triết học là khoa học của mọi khoa học”. Triết học mácxít ra đời đã
chấm dứt quan niệm trên, đồng thời xác định đúng đối tượng của triết học và giải quyết
vấn đề cơ bản của triết học và nghiên cứu các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và
tư duy. Vì vậy, triết học vừa có tính độc lập vừa có mối liên hệ thống nhất với các khoa
học cụ thể. Thực tiễn phát triển khoa học của nhân loại đã xác nhận rằng những thành tựu
nghiên cứu của khoa học là có cơ sở, tiền đề cho những khát quát phổ biến của triết học,
còn những kết luận của triết học trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận
định hướng cho sự phát triển của các khoa học cụ thể. Trong thời đại ngày nay sự tác động
này trở nên rõ ràng hơn nhờ sự phát triển mạnh mẽ của tri thức khoa học, rất cần sự định
1

PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa: Những nguyên lý triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr. 101.

18


hướng ở tầm mức của lý luận triết học, vượt ra khỏi ranh giới hẹp tương đối của khoa học
chuyên biệt.
2.2. Tính giáo điều trái với bản chất của chủ nghĩa Mác – Lênin
Triết học Mác - Lênin là một hệ thống mở, cần được tiếp tục bổ sung, phát triển theo
tinh thần kế thừa và cả “lọc bỏ” biện chứng. Mọi ý đồ tầm thường hóa triết học Mác Lênin bằng sự phân tích một chiều, mang nặng tính giáo huấn, là trái với con đường biện
chứng vốn có của nó. Ngay trong hai tác phẩm viết chung đầu tiên của Mác và Ăngghen là
“Gia đình thần thánh” và “Hệ tư tưởng Đức” hai ông đã đưa ra tuyên ngôn về triết học
mới thay cho thứ triết học “bay lượn cao trên cuộc sống”, tức triết học tư biện của Hêghen
và phái Hêghen trẻ. Phê phán đồ thức luận lôgíc của Hêghen, Mác và Ăngghen nhấn mạnh
rằng không phải cuộc sống diễn ra theo những đồ thức luận sẵn có của tư duy, mà ngược

lại những đồ luận ấy cần thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn luôn biến đổi.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ăngghen đề cập đến sự vận dụng sáng tạo
các nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản vào điều kiện cụ thể của mỗi nước với những chiến
lược và sách lược thích. Như vậy ở bình diện nhận thức và hoạt động thực tiễn những
người sáng lập chủ nghĩa Mác luôn nhấn mạnh sự cần thiết đổi mới thường xuyên phương
thức tiến hành cách mạng vô sản, không chấp nhận sự khuôn mẫu, giáo điều. Phép biện
chứng duy vật, được vận dụng vào việc phân tích tiến trình lịch sử - xã hội và hiện thực
hoá các lý tưởng dân chủ, nhân văn, đã là minh chứng sống động cho tính mở và tính sáng
tạo của chủ nghĩa Mác.
V. I. Lênin và Hồ Chí Minh là mẫu mực của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. Chống lại những toan tính tầm thường hóa
chủ nghĩa Mác, Lênin chỉ ra hiểm họa của việc biến chủ nghĩa Mác thành thứ tôn giáo đặc
biệt, mà ở đó những người cộng sản đóng vai những linh mục đỏ, còn học thuyết mácxít thì
được soạn lại thành những mệnh đề mang tính giáo huấn, như những lời thiêng trong Kinh
Thánh. Lênin nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong
xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho
môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu
họ không muốn trở thành lạc hậu so với cuộc sống… Lý luận của C. Mác chỉ đề ra những
nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh
không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”1
Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản của Nguyễn Ái
Quốc để đưa dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và đấu tranh chống đế
quốc Mỹ thống nhất nước nhà cũng là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào
thực tiễn cách mạng ở các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng, đó là sự nhận
thức đúng đắn biện chứng lý luận chung vào cái riêng và cái đặc thù. Chỉ bốn năm sau khi
tìm thấy con đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra và phê phán những biểu hiện
của sự rập khuôn máy móc, của tính hình thức trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác vào các
nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Người đòi hỏi “bổ sung cơ sở lịch sử của chủ
1


PGS,TS Đinh Ngọc Thạch: Lịch sử triết học Phương Tây, 2014, tr. 218.

19


×