Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Các phương pháp đo thứ đánh giá chất lượng đường dây thuê bao số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 30 trang )

Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

170
5.8 Các phương pháp đo thử đánh giá chất lượng đường dây thuê bao số


5.8.1 Đo thử một đầu

Đối với đo thử một đầu (single-ended testing) thì đôi dây thuê bao được đo thử từ
tổng đài mà không cần gởi nhân viên kỹ thuật đến vò trí của thuê bao và có thể xét chất
lượng đường dây có thể dung nạp được hay không tốc độ truyền dẫn của tín hiệu DSL.
Đo thử một đầu cho phép đo thử từ tổng đài và cung cấp các thông tin về các bất
lợi trên đường dây như cuộn tải, ngắn mạch, nối đất, ... Đo thử một đầu cho kết quả tin
cậy về khả năng dung nạp dòch vụ DSL của đường dây thuê bao. Đo thử một đầu có thể
tương hợp với các phép đo dựa trên thiết bò đo thử tự động vốn cần thiết cho việc lập hồ
sơ thuê bao hàng loạt phục vụ triển khai dòch vụ DSL. Với các ILEC thì có thể thực hiện
đo thử DSL một đầu bằng các hệ thống đo thử và bộ hồ sơ đường dây thuê bao sẵn có.
Hệ thống đo thử dùng để đo độ dài đường dây và kiểm tra các trở ngại trên đường dây.
Hồ sơ đường dây được sử dụng để kiểm tra sự hiện diện của các nhánh rẽ và các cuộn
tải trên đường dây. Tuy nhiên, nhìn chung sử dụng các kỹ thuật đo hiện thời và hồ sơ
đường dây không đủ để đánh giá ban đầu chất lượng đường dây thuê bao dành cho dòch
vụ DSL.
Các nhà cung cấp dòch vụ cần sử dụng hai chế độ đo khi sử dụng phương pháp
đo một đầu: chế độ đo hàng loạt (batch mode) và chế độ đo theo yêu cầu (on-demand
mode). Chế độ đo hàng loạt dùng để lập hồ sơ dòch vụ để xác đònh đường dây nào có thể
dung nạp dòch vụ DSL và đường dây nào không dung nạp được và cũng đánh giá lượng
công việc cần thiết phải thực hiện để đưa các đường dây thuê bao khác vào phục vụ dòch
vụ DSL. Khả năng đo theo nhu cầu được dùng để xác đònh khả năng triển khai dòch vụ
DSL trên một đường dây thuê bao cụ thể.
Ưu điểm của việc đo thử một đầu là:
- đo đạc tập trung và đồng bộ,


- giải thuật đánh giá chất lượng có thể được điều chỉnh theo từng vùng cho
các yêu cầu trong tương lai,
- đo thử hàng loạt,
- đo thử theo nhu cầu tức thời,
- lập được hồ sơ đo thử cho từng đường dây thuê bao,
- đònh vò được và xử lý được các sự cố trên đường dây thuê bao cáp kim loại,
- giảm được giá thành do không phải cử nhân viên kỹ thuật đi xa.
Nhược điểm của đo thử một đầu là:
- không đánh giá được các tốc độ theo hai chiều upstream và downstream,
- không đánh giá được mức nhiễu từ phía khách hàng và năng lượng tín
hiệu.

5.8.2 Đo thử hai đầu

Phương pháp đo thử hai đầu (double-ended testing) cần phải cử nhân viên kỹ
thuật tới tận nhà thuê bao sử dụng các dụng cụ đo thử cầm tay để liên lạc với các thiết bò
đo thử ở tổng đài. Vì phải gửi nhân viên kỹ thuật đến tận nhà thuê bao vốn rất tốn kém
nên với phương pháp đo thử hai đầu các nhà cung cấp dòch vụ khó có thể điều chỉnh chi
phí phù hợp giá cả trong môi trường cạnh tranh. Trong môi trường cạnh tranh có cả các
Triển khai ADSL Đặng Quốc Anh

171
ILEC lẫn các CLEC thì các kỹ thuật viên của ILEC có thể không có được đầy đủ các
dụng cụ đo thử cầm tay cần thiết để đo thử dòch vụ DSL. Kết quả là cần phải có một lần
gởi nhân viên kỹ thuật của ILEC để lắp đặt đường dây và một lần nữa gởi nhân viên kỹ
thuật của CLEC để đo thử đường dây vừa lắp đặt.
Các ưu điểm của đo thử hai đầu có thể kể ra là:
- có thể đo được tốc độ khả năng truyền dữ liệu theo từng chiều upstream và
downstream,
- các kỹ thuật viên đang tiến hành đo thử tại nhà thuê bao có thể khắc phục

ngay một số vấn đề,
- có thể thực hiện được các phép đo năng lượng tín hiệu phát và năng lượng
nhiễu.
Các nhược điểm của phương pháp đo hai đầu là:
- tăng chi phí triển khai dòch vụ DSL do các lần cử nhân viên kỹ thuật đến
tận vò trí thuê bao,
- với mỗi phiên bản kỹ thuật mới của DSL phải trang bò cho các nhân viên kỹ
thuật các dụng cụ cầm tay mới,
- không thể đo thử số nhiều đường dây được,
- mỗi lần thử đều phải cử nhân viên kỹ thuật đến nhà thuê bao,
- khó ghi lại hồ sơ,
- xử lý các sự cố không đồng bộ,
- không thể xử lý kòp nhu cầu đo thử.

5.8.3 Các yêu cầu đo thử DSL

Các phép đo thử để đánh giá chất lượng đường dây chuẩn bò cho dòch vụ DSL
phải bao gồm:

- kiểm tra cáp kim loại,
- xác đònh độ dài vòng dây,
- dò sự hiện diện của cuộn tải trên đường dây đang khảo sát,
- dò sự hiện diện của nhánh rẽ trên đường dây đang khảo sát,
- đo nhiễu dải rộng.
Kết quả đo thử dùng để đánh giá xem có triển khai được dòch vụ DSL nào trong
các dòch vụ sau: IDSL, MDSL, SDSL, HDSL, ADSL CAP hay ADSL DMT.

5.8.4 Đo thử cáp kim loại

Việc đo thử cáp kim loại để đánh giá chất lượng đường dây thuê bao thực hiện

kiểm các trường hợp lỗi sau:
- hở mạch,
- ngắn mạch (dây tip và dây ring chạm điện nhau),
- nối đất: dây tip hay dây ring chạm điện với đất.
- chạm dây khác,
- cảm ứng điện xoay chiều do nhiễu điện lực,
- không cân bằng vòng thuê bao (dây tip dài hơn dây ring hay ngược lại),
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

172
- dò các thiết bò đặc biệt trên đường dây như bộ cung cấp đường dây thuê bao
số (DLC: digital loop carrier), bộ cung cấp đường dây thuê bao số tích hợp
(IDLC: integrated digital line carrier), ...
Các phép đo cáp kim loại tiêu chuẩn đo các tham số tip-to-ring (T-R), tip-to-
ground (T-G) và ring-to-ground (R-G) bao gồm điện áp AC, DC, điện trở và điện dung.
Các đường dây không cân bằng sẽ gây ra nhiễu xuyên kênh, sai bit làm chậm tốc độ tín
hiệu DSL.

5.8.5 Độ dài vòng thuê bao

Tất cả các dòch vụ DSL đều rất nhạy với độ dài vòng thuê bao giữa tổng đài và vò
trí thuê bao. Tốc độ tín hiệu DSL mà đường dây thuê bao dung nạp được tỷ lệ nghòch với
độ dài vòng thuê bao: vòng thuê bao càng dài thì tốc độ của tín hiệu DSL cho phép càng
nhỏ đi. Do vậy, việc đo thử đánh giá một đường dây thuê bao phải có khả năng xác đònh
chính xác độ dài đường dây thuê bao. Một phép đo điện trở hai đầu đơn giản sẽ không
thực hiện được do nó phụ thuộc quá nhiều vào nhiệt độ và sự thay đổi cỡ đường dây và
không tính được ảnh hưởng của các nhánh rẽ (bridged tap). Việc đo điện dung chính xác
hơn nhiều do đo được cả ảnh hưởng của các nhánh rẽ.




Hình 5.23 Đo độ dài đường dây thuê bao
bằng phương pháp đo hai đầu: đo điện trở

Các hệ thống đo một đầu đo độ dài đường dây thuê bao bằng các phép đo điện
dung tip-to-ground, ring-to-ground và tip-to-ring. Độ dài đường dây thuê bao được tính
toán từ giá trò điện dung chuẩn 0,083 µF cho mỗi dặm. Điện dung của vòng thuê bao là
một tham số được kiểm soát chặt chẽ và phụ thuộc cơ bản bởi độ xoắn của dây, có giá trò
danh đònh là 0,083 µF và dao động từ 0,078 µF đến 0,086 µF. Độ dài đường dây thuê bao
ảnh hưởng tới mức tín hiệu thu. Vòng thuê bao càng dài thì các tín hiệu tần số cao càng
bò suy hao. Nếu vòng thuê bao quá dài thì CPE không nhận được bất cứ tín hiệu tần số
cao nào. Các báo cáo ở thò trường Bắc Mỹ cho thấy có 88% số đường dây thuê bao có độ
dài nhỏ hơn 18000 bộ và 65% số đường dây thuê bao có độ dài nhỏ hơn 12000 bộ với cỡ
dây 24 AWG và nhỏ hơn 9000 bộ với cỡ dây 26 AWG.
Triển khai ADSL Đặng Quốc Anh

173
Nếu nhà cung cấp dòch vụ chỉ cung cấp dòch vụ DSL tốc độ cố đònh hay dùng dòch
vụ DSL để cung cấp dòch vụ thoại thì việc biết được độ dài đường dây thuê bao rất quan
trọng.
Việc đem lại dòch vụ ADSL thích ứng tốc độ (rate-adaptive ADSL) hay RDSL đã
tăng khả năng dung nạp các đường dây dài của dòch vụ DSL. Cỡ dây cũng rất quan
trọng. Điển hình, khoảng cách chấp nhận được cho cỡ dây 26AWG chỉ bằng hai phần ba
so với khoảng cách chấp nhận được cho cỡ dây 24AWG. Thường các vòng thuê bao có
khoảng 60% cỡ dây 24AWG hay lớn hơn và 40% có cỡ dây 26AWG.

5.8.6 Cuộn tải

Cuộn tải là các cuộn dây nhỏ, các mạch lọc thông thấp đặt trên vòng thuê bao.
Cuộn tải ban đầu được lắp đặt vào các vòng thuê bao có độ dài hơn 18000 bộ để cải

thiện chất lượng thoại và loại trừ nhiễu tần số cao tích lũy trên đường dây. Theo thực tế
kỹ thuật, các đường dây thuê bao dài hơn 18000 bộ phải được lắp thêm cuộn tải. Cuộn
tải đầu tiên được đặt cách 3000 bộ kể từ tổng đài và sau đó đặt các cuộn kế tiếp cách
nhau 6000 bộ.



Hình 5.24 Cuộn tải

Ở Bắc Mỹ có khoảng 24% số đường dây thuê bao có mắc cuộn tải nhưng chỉ có
12% số đường dây thuê bao dài quá 18000 bộ. Sự khác biệt này là do việc cấu hình lại
mạng thuê bao với nhiều bộ cung cấp đường dây thuê bao xa tổng đài. Các cuộn tải
không còn cần thiết nữa vẫn bò bỏ lại trên đường dây. Như vậy, độ dài đường dây thuê
bao sẽ không đủ dữ kiện để xác đònh đường dây có cuộn tải hay không.
Vì truyền dẫn tín hiệu DSL dựa vào tần số cao hơn dải tần thoại nên không thể
truyền dẫn bất cứ một loại tín hiệu DSL nào trên đường dây thuê bao có cuộn tải. Vì lý do
này việc đánh giá đường dây thuê bao phải dò được sự hiện diện của cuộn tải và tốt hơn
là xác đònh được khoảng cách tương đối giữa cuộn tải và tổng đài.

5.8.7 Nhánh rẽ

Nhánh rẽ là các nhánh cáp không nối với thuê bao trên vòng thuê bao nối với
khách hàng. Trong các mạng nội hạt do hồ sơ về các nhánh rẽ mất mát nhiều nên việc
gỡ bỏ các nhánh rẽ là một thách thức tốn kém nhiều thời gian và tiền bạc.
Độ dài nhánh rẽ và vò trí của chúng ảnh hưởng khác nhau đối với từng phiên bản
DSL. Nhánh rẽ có tác dụng như một nhánh ngắn mạch làm sóng phản xạ ở một số tần
số triệt tiêu sóng truyền dẫn. Truyền dẫn HDSL, MDSL, ISDN cho phép các nhánh rẽ
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

174

đến 6000 bộ. Các nhánh rẽ cũng không ngăn được tín hiệu ADSL nhưng chúng có thể
làm giảm dải thông và tốc độ của dòch vụ DSL. Nhánh rẽ càng ở gần phía khách hàng thì
càng ảnh hưởng nặng đến tốc độ dòch vụ ADSL. Việc đánh giá chất lượng đường dây
thuê bao phải xác đònh cho được độ dài và vò trí các nhánh rẽ ảnh hưởng tới dòch vụ DSL.
Phương pháp đo phản xạ thời gian (time-domain reflectometry: TDR) thường được sử
dụng để đo vò trí và độ dài của nhánh rẽ. Việc sử dụng bộ dòch tự động thông số kết quả
của TDR cho phép đánh giá hàng loạt các đường dây và giảm thiểu việc sử dụng các
nhân viên có kỹ thuật cao.

5.8.8 Nhiễu dải rộng

Sự hiện diện của nhiễu bất lợi cho tốc độ tín hiệu của DSL: nhiễu càng nhiều thì
tốc độ càng chậm. Ví dụ, tác động của sóng vô tuyến AM lên đường dây thuê bao (khi nó
nhiễu vào dải tần tín hiệu chiều downstream) làm cho kênh truyền downstream không sử
dụng được. Có ba nguồn sinh ra nhiễu tần số cao chính đối với tín hiệu DSL:
- nhiễu xung ngẫu nhiên: là đặc tính của các thiết bò điện,
- nguồn nhiễu bên ngoài như sóng vô tuyến AM (từ 550 kHz đến 1720 kHz
trong các dải tần 10 kHz),
- xuyên kênh bao gồm cả nhiễu từ truyền dẫn trên các đôi dây khác.
Nhiễu ngẫu nhiên sinh ra từ tất cả các thiết bò điện. Việc chắn từ, dùng dây xoắn,
tiếp đất đúng đắn sẽ giảm nhiều ảnh hưởng của nhiễu ngẫu nhiên. Các vò trí ghép dây
thường là các nguồn gây ra nhiễu.
Giống như nhiễu ngẫu nhiên, có thể giảm thiểu ảnh hưởng của nhiễu cảm ứng
bên ngoài bằng cách chắn từ, dùng dây xoắn, tiếp đất đúng đắn. Sóng vô tuyến AM
thường được các vòng dây dài trên cột thu được.



Hình 5.25 Nhiễu tác động lên đường truyền DSL


Nhiễu cảm ứng xuyên kênh gây ra bởi các hệ thống kế cận trong cùng một chão
cáp (cable binder) phát hay thu dữ liệu trong cùng một dải tần. Nhiễu xuyên kênh có thể
sinh ra do che chắn từ không đầy đủ, mức tín hiệu của các đường dây kế cận nhau
không tương xứng, các đường dây không cân bằng, các hệ thống quá tải. Thông thường,
các đường dây T1 với các trạm tiếp vận của nó và các đường dây truyền dẫn tín hiệu
Triển khai ADSL Đặng Quốc Anh

175
ADSL không thể cùng tồn tại trong cùng một chão cáp hay trên các chão cáp gần nhau
nhưng một vài phiên bản truyền dẫn DSL có thể cùng tồn tại trong cùng một chão cáp
mà không gây ra xuyên kênh như ADSL, DSL/MDSL và ISDN. Tuy nhiên, khhi triển khai
các dòch vụ DSL khác khi chão cáp đã có đầy đủ các dải tần thì phải thực hiện quản lý
phổ tần để tránh xuyên kênh. Đo đạc nhiễu tần số cao có thể cách ly được các vấn đề
truyền dẫn DSL. Khả năng nhận diện tầm tần số cho các nhà cung cấp dòch vụ thông tin
để hỗ trợ việc kiểm tra đường dây thuê bao. Để xác đònh một đường dây thuê bao có thể
dung nạp được tín hiệu DSL hay không phải thực hiện đo đạc nhiễu tần số cao đến 2
MHz và cần phải xem xét sự hiện diện của đường tryền T1 cũng như các phiên bản DSL
khác.

5.9 Quy trình đo thử và lắp đặt DSL

Khi việc đo thử đã được thực hiện thì kết quả được chuyển cho chương trình máy
tính để xác đònh tốc độ chiều upstream và chiều downstream cho dòch vụ DSL cụ thể như
ADSL chẳng hạn. Chương trình máy tính có khả năng cung cấp các hoạt động sau:
- thực hiện dự báo cho các dòch vụ DSL khác nhau như ADSL, G-Lite,
MODEM 1Meg, ...
- thực hiện nghiên cứu dữ liệu cho thông tin cáp,
- tạo ra các mô hình vòng thuê bao bao gồm cả các thay đổi cỡ dây,
- xử lý các môi trường bất đồng nhất,
- xử lý các phiên bản DSL khác nhau,

- cung cấp các quy trình mô hình hoá như cải thiện chất lượng truyền dẫn
dựa trên việc gỡ bỏ nhánh rẽ chẳng hạn.
Chương trình máy tính phải có khả năng xử lý các môi trường không đồng nhất khi
có nhiều nhà cung cấp dòch vụ DSL khác nhau và nhiều kiểu mạng cùng tồn tại. Để dự
báo chính xác, cần phải tính toán đến việc sử dụng kênh của mỗi nhà cung cấp và đặc
tính mật độ phổ năng lượng. Nếu một nhà cung cấp thiết bò DSL không tuân thủ hướng
dẫn ANSI T1.413 cho một phiên bản DSL nào đó thì chương trình phải khuyên khách
hàng thay đổi để phù hợp với thiết bò của nhà cung cấp đó.

5.9.1 Đánh giá chất lượng đường dây

Ở bước này trung tâm điều hành mạng phải thực hiện một loạt các phép đo thử để
đánh giá khả năng bảo đảm xử lý tốt dòch vụ ADSL của đường dây trước khi gởi nhân
viên đến tận nhà thuê bao. Ở đây phải thực hiện các phép đo thử một đầu.

5.9.2 Tiến hành đo thử tại NID

Bước 1: Kiểm tra tại hộp đấu dây
Thực hiện kiểm tra tại hộp đấu dây để xác đònh xem đôi dây xoắn được cung cấp
có đúng hay không. Khi đã tìm được đôi dây để cung cấp dòch vụ thì phải dùng các dụng
cụ đo thử và dò cuộn tải để xác nhận đường dây là không có cuộn tải và cân bằng. Tại
thời điểm này phải dùng máy đo thực hiện kiểm tra các thông số cơ bản của đường dây.
Dùng một butt set để kiểm tra sự hiện diện của âm hiệu mời quay số.
Bước 2: Đồng bộ với bộ DSLAM và xác đònh tốc độ dữ liệu ở hộp đấu dây

Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

176



Hình 5.26 Quy trình lắp đặt DSL

Bảng 5.1 Các dụng cụ cầm tay phục vụ đo thử DSL


Bộ modem ADSL
cầm tay
Dụng cụ để kiểm tra đường dây đã được cung cấp dòch
vụ ADSL chưa

Bộ microfilter hay
bộ tách dòch vụ
Bộ tách dòch vụ đặt cố đònh gần NID trong cấu hình
G.DMT ADSL còn các bộ lọc được gắn trên đường dây ở
mỗi nơi có lắp đặt thiết bò POTS

Bộ tách dòch vụ
cầm tay
Dụng cụ để xử lý các bộ tách dòch vụ hay các bộ
microfilter có sự cố

Máy đo thử cầm tay Dụng cụ để kiểm tra chất lượng và sửa chữa đường dây
trong nhà

Máy dò cuộn tải Dụng cụ để dò sự hiện diện của các cuộn tải hay tìm vò
trí các cuộn tải

Data-safe butt set Dụng cụ để kiểm tra xem dòch vụ thoại có hoạt động tốt
trên đường dây ADSL hay không


Máy đo TDR tầm
ngắn
Dụng cụ để xác đònh khoảng cách trên các đường dây
hở mạch, ngắn mạch hay không cân bằng với khoảng
cách ngắn

Triển khai ADSL Đặng Quốc Anh

177


Hình 5.27 Vò trí của NID và bộ tách dòch vụ ADSL/POTS ở CPE

NID (Network Interface Device) là ranh giới của mạng và CPE. NID đôi khi còn
được gọi là NIU (Network Interface Unit) hay NT (Network Termination). Trong ADSL có
hai loại NID: Wet wire NID và Dry wire NID.
- Wet wire NID: là NID tích cực dùng trong môi trường chưa có cạnh tranh.
Wet wire NID được triển khai tại các nước ngoài Bắc Mỹ. Với đường dây
Wet wire NID thì cả NID và ATU-R đều là sở hữu của nhà điều hành mạng
và thường thì hai thiết bò này được ghép chung.
- Dry wire NID: là NID thụ động dùng trong môi trường có cạnh tranh.
Dry wire NID không cung cấp nguồn trên đường dây DSL. Dry wire NID
được triển khai tại Bắc Mỹ. Với Dry wire NID khách hàng được tự do mua
sắm ATU-R với giá cả cạnh tranh.



Hình 5.28 Wet wire DSL




Hình 5.29 Dry wire DSL

Kết thúc đường dây dòch vụ bằng một dụng cụ đo thử ADSL, bật nguồn và cố
gắng thiết lập đồng bộ với bộ DSLAM. Nếu thiết lập được đồng bộ thì dụng cụ đo thử sẽ
hiển thò tốc độ dữ liệu tối đa theo chiều upstream và downstream. Khi đó bộ DSLAM hoạt
động đúng đắn và đường dây đã sẵn sàng cho dòch vụ số DSL. Nếu dụng cụ đo thử
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

178
ADSL cho kết quả thiết lập đồng bộ với bộ DSLAM thất bại thì gọi hỗ trợ ở vò trí đặt
DSLAM để xác nhận lại là bộ DSLAM đã được thiết lập đúng đắn. Nếu bộ DSLAM đã
hoạt động đúng đắn mà tốc độ dữ liệu theo các chiều downstream hay upstream cao hơn
hoặc thấp hơn tốc độ dữ liệu cần thiết thì phải liên hệ lại hỗ trợ ở vò trí đặt DSLAM để xác
nhận một lần nữa sự hoạt động đúng đắn của bộ DSLAM. Kiểm tra một lần nữa các tham
số cơ bản của đường dây rồi thực hiện đấu dây cho NID.


Hình 5.30 An toàn tónh điện cho thiết bò

Bước 3: Lắp đặt bộ tách dòch vụ ADSL/POTS cho G.DMT
Đặt hộp NID ở phía tài sản khách hàng và lắp đặt bộ tách dòch vụ ADSL/POTS ở
một vò trí thuận tiện như minh hoạ ở hình vẽ. Cài jumper ở port Network rồi nối đường dây
đôi dây cho dòch vụ thoại ở port thoại (voice port) và kết nối đôi dây cho dòch vụ ADSL ở
port số liệu (data port).
Bước 4: Kiểm tra các thông số cơ bản, giám sát và chất lượng thoại



Hình 5.31 Nối dây tại NID


Ở NID phải thực hiện một lần nữa việc đo thử các thông số cơ bản một lần nữa.
Hơn nữa, các phép đo thử phải được thực hiện để chắc chắn rằng đường dây sẽ được sử
Triển khai ADSL Đặng Quốc Anh

179
dụng để hỗ trợ dòch vụ dữ liệu tốc độ cao ADSL. Cuối cùng, dòch vụ thoại được xem lại
một lần nữa bằng cách nối đường dây với butt set qua cổng thoại (voice port), chuyển
sang chế độ nói chuyện (talk mode) và nghe âm hiệu mời quay số (dial-tone).
Bước 5: Đồng bộ với DSLAM và xác nhận tốc độ bit ở NID
- Với ADSL G.DMT: Kết nối cổng số liệu trên bộ tách dòch vụ POTS bằng
máy đo thử ADSL, mở nguồn máy đo và kiểm tra một lần nữa sự đồng bộ
với DSLAM và tốc độ bit cần thiết theo các chiều upstream và downstream.
- Với ADSL G.Lite: Trước tiên, kiểm tra âm hiệu mời quay số bằng butt set
tại NID. Gỡ butt set ra khỏi đường dây, nối máy đo thử ADSL vào đường
dây, mở nguồn máy đo và kiểm tra một lần nữa sự đồng bộ với DSLAM và
tốc độ bit cần thiết theo các chiều upstream và downstream.
Nếu khách hàng không yêu cầu dòch vụ thoại trên jack điện thoại này thì nối dây
nhảy cùng một đôi dây gán cho cổng số liệu ở NID. Nếu khách hàng yêu cầu cả dòch vụ
thoại và ADSL ở trên jack điện thoại này thì lắp đặt bộ jack đôi gắn tường nếu chưa có.
Phải chắc rằng đôi dây dành cho dòch vụ thoại gắn vào cổng thứ nhất (port 1) và đôi dây
dùng cho dòch vụ số liệu được gắn với cổng thứ hai (port 2). Tiêu chuẩn quy đònh ngõ ra
của bộ modem phải nối vào đôi dây thứ hai.



Hình 5.32 Thiết bò POTS splitter của BT

Nếu khách hàng không yêu cầu dòch vụ thoại trên jack điện thoại này thì nối dây
nhảy cùng một đôi dây gán cho cổng số liệu ở NID. Nếu khách hàng yêu cầu cả dòch vụ

thoại và ADSL ở trên jack điện thoại này thì lắp đặt bộ jack đôi gắn tường nếu chưa có.
Phải chắc rằng đôi dây dành cho dòch vụ thoại gắn vào cổng thứ nhất (port 1) và đôi dây
dùng cho dòch vụ số liệu được gắn với cổng thứ hai (port 2). Tiêu chuẩn quy đònh ngõ ra
của bộ modem phải nối vào đôi dây thứ hai.

5.9.3 Lắp đặt tại nhà thuê bao

Xác đònh chỗ khách hàng cần nối máy tính cá nhân với ADSL. Tìm vò trí gần jack
điện thoại nhất trong phòng và xem thử đường dây tại đó có dùng được hay không.

Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai

180
a. Trường hợp G.DMT



Hình 5.33 Sơ đồ nối dây dòch vụ ADSL
và dòch vụ thoại trên jack đôi gắn tường ADSL G.DMT

Nếu khách hàng không yêu cầu dòch vụ thoại trên jack điện thoại này thì nối dây
nhảy cùng một đôi dây gán cho cổng số liệu ở NID. Nếu khách hàng yêu cầu cả dòch vụ
thoại và ADSL ở trên jack điện thoại này thì lắp đặt bộ jack đôi gắn tường nếu chưa có.
Phải chắc rằng đôi dây dành cho dòch vụ thoại gắn vào cổng thứ nhất (port 1) và đôi dây
dùng cho dòch vụ số liệu được gắn với cổng thứ hai (port 2). Tiêu chuẩn quy đònh ngõ ra
của bộ modem phải nối vào đôi dây thứ hai.



Hình 5.34 Đi dây cho cấu hình G.DMT


b. Trường hợp G.Lite

Với cấu hình này, cả dòch vụ ADSL lẫn dòch vụ thoại đều được nối vào đường dây
điện thoại. Nếu cần thiết thì nối lại jack để tương thích với đầu ra của modem ADSL hay
dùng một đoạn dây thừa để chuyển đổi dây.
Triển khai ADSL Đặng Quốc Anh

181
5.9.4 Lắp đặt modem ADSL

Hiện nay, có ba loại cấu hình modem ADSL thông dụng. Ba loại này bao gồm hai
loại lắp rời (External) với giao tiếp với máy tính cá nhân là Ethernet hay USB và một loại
lắp bên trong máy tính cá nhân (Internal) với giao tiếp chuẩn PCI. Nếu CPE là modem
lắp bên trong máy tính cá nhân thì kỹ thuật viên cần phải có một vài kỹ năng, kinh
nghiệm và hiểu biết về máy tính cá nhân để hoàn tất lắp đặt.Lưu ý rằng một vài loại dây
trong nhà (ví dụ như dây phẳng IW) không cho phép kết nối với hơn một dòch vụ và phải
thay bằng dây xoắn đôi CAT3.

a. Modem ADSL loại rời, giao tiếp Ethernet

Nếu CPE sử dụng modem loại rời (External) có giao tiếp Ethernet thì trên máy
tính cá nhân phải có card giao tiếp mạng Ethernet (Internal hoặc onboard) thì mới có thể
hoàn tất việc lắp đặt được. Nếu không có thì phải đề nghò khách hàng trang bò thêm card
giao tiếp mạng Ethernet (NIC: Network Interface Card) cho máy tính cá nhân. Khi máy
tính cá nhân đã có khả năng giao tiếp được mạng Ethernet thì kiểm tra xem đầu nối
Ethernet trên máy tính cá nhân phải tương thích. Lưu ý rằng trong lúc các đầu nối RJ-45
là phổ biến thì cũng có một số giao tiếp Ethernet cũ có dạng đầu nối khác. Trong trường
hợp đó thì phải sử dụng bộ chuyển đổi đầu nối. Khi đã kiểm tra xong sự tương thích đầu
nối hãy lắp dây nối giữa modem ADSL và cổng Ethernet của máy tính cá nhân. Sau đó

nối dây giữa modem ADSL và cổng dữ liệu trên jack gắn tường rồi cài đặt bộ điều khiển
phần mềm cho máy tính cá nhân.



Hình 5.35 Nối dây modem ADSL

b. Modem ADSL loại rời, giao tiếp USB

Nếu CPE là modem ADSL dạng rời có giao tiếp USB thì máy tính cá nhân phải có
sẵn cổng USB và đã sẵn sàng hoạt động. Nối cáp USB giữa modem ADSL và máy tính
cá nhân, nối dây giữa modem ADSL và cổng dữ liệu trên jack gắn tường rồi cài đặt bộ
điều khiển phần mềm cho máy tính cá nhân.

×