ĐẢNG CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
THÀNH TỰU VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM
2.1. Đảng chỉ đạo, thành tựu hạn chế và nguyên nhân phát triển giáo
dục và đào tạo từ năm 1996 đến 2005
2.1.1. Đảng chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) đã quyết định đưa đất nước chuyển
sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Hội nghị lần
thứ 2 BCH TW Đảng (khóa VIII) (12/1996) mở ra thời kỳ mới cho phát triển giáo
dục và đào tạo. Tại hội nghị lần này, Đảng ra nghị quyết chuyên đề về giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ. Đảng xác định đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
phát triển. Do đó, không chỉ tăng ngân sách mà là đầu tư về mọi mặt. Sự ưu tiên
cho giáo dục phải thể hiện ở ưu tiên về chính sách, ưu tiên về đội ngũ cán bộ, ưu
tiên về quản lý. Thực hiện được những ưu tiên đó làm cho giáo dục thực sự là quốc
sách hàng đầu và quốc sách đó mới được thực hiện.
- Nắm vững mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục đào tạo, Đảng đã xác định bốn
nhóm giải pháp chủ yếu: Tăng cường nguồn lực; tăng cường động lực; tiếp tục đổi
mới nội dung, phương pháp, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị nhà trường; chấn
chỉnh quản lý giáo dục.
Về tăng cường nguồn lực: Quan điểm đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát
triển, đầu tư cơ bản quan trọng nhất. Đầu tư này phải lấy từ nguồn chi thường
xuyên và nguồn chi phát triển. Về đầu tư Đảng chỉ đạo đến năm 2000 giáo dục
phải đạt 15% tổng chi ngân sách. Các nguồn thu ngoài ngân sách cũng được huy
động để đầu tư cho giáo dục. Chính phủ quy định chế độ thu học phí, và chính sách
đóng học phí đào tạo đối với các cơ sở sử dụng lao động. Các đoàn thể xã hội được
khuyến khích xây dựng quỹ khuyến học. Các trường dậy nghề, trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng… được phép lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học. Chính phủ
đồng ý vay vốn của ngân hàng thế giới, nhận vốn từ quỹ viện trợ không hoàn lại cho
giáo dục mà không khấu trừ vào ngân sách. Tất cả những việc làm đó để tăng cường
nguồn lực cho giáo dục.
Về tăng cường động lực cho giáo dục, trong đó lương của giáo viên được
xếp cao nhất trong nhóm ngành lương hành chính sự nghiệp. Giáo viên được
hưởng phụ cấp theo tính chất công việc hoặc theo vùng do chính phủ quy định (từ
1998 giáo viên đã được phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp: Đại học và cao đẳng 30%,
THPT và các trường sư phạm 50%, tiểu học 70% lương chính). Đội ngũ người
thầy được xã hội tôn vinh, đây là động lực tinh thần lớn với giáo dục. Hệ thống
truờng sư phạm được củng cố và xây dựng, một số trường sư phạm trọng điểm vừa
đào tạo giáo viên có chất lượng vừa làm công tác nghiên cứu khoa học, giáo dục
đạt trình độ tiên tiến, giáo sinh sư phạm không phải đóng góp học phí và được cấp
học bổng.
Về đổi mới nội dung, phương pháp và tăng cường cơ sở vật chất thiết bị
trường học. Những môn học khoa học xã hội và nhân văn và giáo dục tư tưởng
chính trị được coi trọng. Tư tưởng Hồ Chí Minh được giảng dậy chính thức trong
nhà trường. Phương pháp giáo dục phải được thay đổi nhiều.
Tiến hành đổi mới công tác quản lý, chiến lược giáo dục sẽ được xây dựng;
phải có kế hoạch dự báo để xây dựng lại cơ cấu đào tạo. Đào tạo phải gắn với sử
dụng. Về tổ chức, thành lập hội đồng giáo dục quốc gia. Những tiêu cực trong giáo
dục phải được sử lý nghiêm.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Thực tế cho thấy, ở nơi nào cấp ủy Đảng
trong giáo dục và đào tạo quan tâm chăm lo đến giáo dục thì giáo dục ở đó phát
triển tốt. Các cấp ủy Đảng kiểm tra công tác tư tưởng chính trị trong trường học,
phát hiện và khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong giáo dục. Thành tích giáo dục
được xem là một tiêu chuẩn quan trọng trong việc công nhận tổ chức Đảng trong
sạch vững mạnh.
Những tư tưởng chiến lược cùng với những giải pháp tích cực và thiết thực mà
Đảng chỉ đạo làm cho giáo dục và đào tạo nước ta phát triển, đáp ứng những đòi hỏi của
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và nguyện vọng của nhân dân.
- Đảng chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, dân chủ hóa, đa dạng hóa
Bước sang thế kỷ XXI cùng với sự đổi mới trên các lĩnh vực, sự nghiệp giáo
dục và đào tạo được Đảng và nhà nước tiếp tục có sự chỉ đạo mới đáp ứng được
đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tư duy giáo dục là quá trình nhận thức quy luật vận động, phát triển của
giáo dục. Giáo dục có sự thống nhất giữa nói và làm theo khoa học. Đảng đã tiến
hành xem xét lại mục tiêu giáo dục, trên cơ sở đó biên soạn lại chương trình sách
giáo khoa cho phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học và công nghệ, phù
hợp với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong các nhà trường cần đặc
biệt chú trọng việc giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức cách mạng và lối sống
lành mạnh, kết hợp giữa giáo dục hiện đại với giáo dục giá trị truyền thống dân tộc.
Để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chúng ta phải có chiến
lược giáo dục và đào tạo con người phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu của cả ba
nền kinh tế: Kinh tế lao động, kinh tế tài nguyên và kinh tế tri thức. Một xã hội vẫn
còn đan xen cả ba nền kinh tế đòi hỏi phải có một cơ cấu giáo dục hợp lý nhằm
phát triển con người một cách toàn diện. Giáo dục cần phải gắn với mục tiêu phát
triển kinh tế, xã hội, phát triển thị trường lao động, phát triển sản xuất, vì con
người và phục vụ con người phù hợp với hoàn cảnh kinh tế nước ta.
Giáo dục mầm non: Bảo đảm hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo
dục, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em; giúp trẻ em phát triển cơ thể
cân đối, khỏe mạnh, nhanh nhẹn; biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông bà, cha
mẹ, thầy giáo, cô giáo và người trên; yêu quý anh chị em, bạn bè; thật thà, mạnh
dạn, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp; ham hiểu biết, thích đi học.
Giáo dục tiểu học đi vào bảo đảm cho học sinh có hiểu biết đơn giảm, cần
thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và
tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về
hát, múa, âm nhạc, thẩm mỹ.
Giáo dục THCS bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và
hệ thống gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm lý lứa tuổi của học sinh, đáp
ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi bậc học, cấp học.
Giáo dục THPT về thế giới quan, tư tưởng, chính trị, pháp luật, đạo đức và
cư sử có văn hóa…
Đối với trường trung học chuyên nghiệp là đào tạo những cán bộ thực hành
có trình độ trung học về kỹ thuật, nghiệp vụ kinh tế, giáo dục, văn hóa, y tế và
nghệ thuật…
Đối với các loại hình đại học và cao đẳng là đào tạo nhân lực có trình độ
cao, các chuyên gia cho tất cả các lĩnh vực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Giáo dục đại học đã tập trung vào đào tạo nhân lực, trong đó có nhân tài là
nhân lực có năng lực đặc biệt, phục vụ công cuộc CNH, HĐH đất nước.
Đối với bậc học sau đại học là đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ những chuyên gia
giỏi có khả năng độc lập sáng tạo trong hoạt động chuyên môn, nghiên cứu khoa
học, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân theo mục tiêu chiến lược mà hội nghị
BCH TW lần 2 (khóa VIII) và nghị quyết Đại hội IX của Đảng trong thời gian này.
Đảng đã tập trung chỉ đạo thực hiện một số lĩnh vực chủ yếu:
Về thực hiện chuẩn hóa chúng ta đã hoàn thành mục tiêu chống nạn mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học, dân trí ngày một cao, nhân lực ngày càng được đào
tạo có tay nghề. Đất nước đã có một hệ thống giáo dục tương đối hoàn chỉnh – một
nền quốc học nhân dân, đủ sức để chuẩn hóa các trường, các cấp học và bậc học,
hoạt động dạy và học, các phương tiện giáo dục và đào tạo nhằm thực hiện tốt mục
tiêu giáo dục. Thực hiện chuẩn hóa được thể hiện từng bước, từng phần – từ giáo
viên, chương trình, sách giáo khoa đến lớp học, trường học… đều phải đạt tiêu
chuẩn quốc gia.
Về hiện đại hóa được thực hiện trong nội dung giáo dục, chương trình, sách
giáo khoa cùng với nó là vật chất, thiết bị dậy học. Phương pháp dậy học ở các
trường học đưa Intenets vào sử dụng. Nhịp độ đổi mới công nghệ diễn ra nhanh
chóng và tính linh hoạt của thị trường lao động đã và đang làm cho tri thức nhanh
chóng bị lỗi thời. Do vậy, giáo dục phải làm cho con người tính nghi ngờ, tính
tương đối của tri thức để nhanh chóng thích ứng với tri thức mới. Giáo dục và đào
tạo sẽ là nhân tố chính để duy trì và phát trển các giá trị văn hóa dân tộc, phát triển
xã hội và phát triển con người.
Về thực hiện dân chủ hóa; trong giáo dục trước hết thực hiện chủ chương
giáo dục cho mọi người, xóa mù chữ, từng bước phổ cập giáo dục từ thấp lên cao,
đem lại tri thức, trí tuệ cho mọi người dân. Mọi người dân có quyền bình đẳng
trong việc hưởng thụ giáo dục. Mọi người được đi học - đó là quyền cơ bản của
con người. Dân chủ hóa giáo dục đi liền với công bằng xã hội trong giáo dục, làm
cho trường học thực sự là của dân. Dân chủ hóa quản lý giáo dục trước hết là
chống quan liêu, phiền hà, tham nhũng, là công minh, công khai, công bằng trong
thực hiện các chính sách… Dân chủ hóa là tinh thần cốt yếu đang được Đảng và
nhà nước ta hết sức quan tâm.
Về thực hiện đa dạng hóa các hình thức trường lớp; phương thức đa dạng
hóa trong giáo dục gắn liền với xã hội hóa, nó cũng gắn liền với dân chủ hóa giáo
dục. Các trường, các lớp, các trung tâm giáo dục không chỉ dưới dạng công lập, mà
còn có trường, trung tâm, lớp dân lập và tư thục. Đa dạng hóa các loại hình trường
lớp, trên cơ sở mục tiêu đào tạo, nội dung giáo dục, chuẩn kiến thức đều thống nhất
cho tất cả các loại. Đa dạng hóa giáo dục phải đi đôi với việc thống nhất quản lý
chặt chẽ về quy mô, chất lượng và cơ cấu trong giáo dục.
- Đảng chỉ đạo giáo dục con người phát triển toàn diện.
Những chủ chương, chính sách đúng đắn của Đảng và chính phủ cùng những
thắng lợi to lớn mà nhân dân ta đạt được sau 20 năm đổi mới đã tạo ra những tiền
đề rất quan trọng để đưa nước ta đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH.
Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH Đảng luôn coi trọng giáo dục và đào
tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, coi con người là vốn
quý nhất, đầu tư cho con người là đầu tư cho phát triển, lấy việc phát huy nguồn
lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Hội
nghị lần 2 BCH TW Đảng (khóa VIII) đã khẳng định: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ
bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng ý chí kiên
cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn
và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng
và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện
đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có
tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe, là người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa “Hồng” vừa “Chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ [3, 28,29]. Đó là mục tiêu
phát triển con người toàn diện.
Thực hiện nghị quyết của Đảng 12/1998 Quốc hội thông qua Luật Giáo dục,
trong đó nghi rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ, nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất, năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [12, 8].
Để khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên phục vụ CNH, HĐH phải có những
người được đào tạo cơ bản thông qua giáo dục mới đáp ứng được yêu cầu hiện nay.
Sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi các thiết bị máy móc hiện đại để sản xuất ra của cải
vật chất. Để làm chủ khoa học, công nghệ kỹ thuật hiện đại phải đào tạo giáo dục
nguồn nhân lực của đất nước. Phát triển toàn diện trên các mặt “Đức, trí, thể, mỹ”
và những năng lực kỹ năng, kỹ sảo, chuyên môn nghề nghiệp... Trong những năm
qua Đảng và nhà nước ta rất quan tâm tới đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, tạo mọi điều kiện để con người phát triển mọi mặt. Yếu tố quan trọng nhất để
phát triển con người toàn diện là phát triển giáo dục, bởi vì giáo dục là quá trình
nâng cao tri thức và kỹ năng. Giáo dục là phương tiện đặc biệt mang lại sự phát
triển cá thể người. Mặt khác, phát triển giáo dục là cơ sở để chúng ta phát huy tốt
nhất “của cải nội sinh” tạo nên sự phát triển đất nước một cách bền vững. Công
việc tiếp theo của chúng ta còn rất nặng nề và vô cùng khó khăn, đòi hỏi toàn
Đảng, toàn dân và toàn xã hội phải cố gắng hơn nữa thì mới có thể thực hiện được
tốt mục tiêu đã đề ra trong nghị quyết của Đảng và Luật Giáo dục.
Chúng ta đang sống trong hoàn cảnh quốc tế hóa kinh tế trở thành một tất
yếu khách quan, kinh tế tri thức đang trở thành một hiện thực ở một số nước trên
thế giới, khoa học – công nghệ đang phát triển nhanh chóng, làm thay đổi một số
quan niệm truyền thống, ưu thế về trí tuệ sẽ thay thế ưu thế về vốn, tài nguyên và
nhân công rẻ mạt; ưu thế về trí tuệ đang dần dần thay thế về sở hữu vật chất; cạnh
tranh trong tương lai chủ yếu là cạnh tranh trí tuệ và thông tin. Các nước phát triển
nắm được khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang vươn lên làm chủ thế giới;
khoảng cách giầu nghèo ngày càng cách xa. Các nước đang phát triển nếu không cố
gắng vươn lên làm chủ khoa học công nghệ hiện đại sẽ có nguy cơ thành “thuộc địa
kiểu mới” của các nước phát triển.
Đảng và nhà nước ta đã có những lỗ lực lớn lao và thực hiện nhiều chủ
chương, biện pháp mạnh dạn để đào tạo nên đội ngũ tri thức mà nhiều nước phát
triển chưa thể có được. Đội ngũ ấy đã có những đóng góp nhất định vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước. Khi sự giúp đỡ của nước ngoài đối với việc đào tạo
cán bộ khoa học công nghệ nước ta giảm hẳn gần như không đáng kể so với trước
đây, thì sự lỗ lực của ta lại tăng lên gấp bội. Đảng ta sớm nhận ra, Bộ chính trị,
BCHTW (khóa VII) đã thảo luận ra nghị quyết về giáo dục và đào tạo, Hội nghị
TW 2 (khóa VIII) đã dần khắc phục được những hạn chế trong giáo dục, đào tạo
phát huy những thành tựu đã đạt được.
Chiến lược phát triển con người toàn diện phải được ưu tiên hơn tất cả các
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Trong những năm qua chúng ta có được đội
ngũ nhân lực đông đảo có chất lượng cao với cơ cấu ngày càng hợp lý, thích ứng
với tính chất và nội dung của thời kỳ CNH, HĐH “Hiện nay, cả nước có khoảng
100 khu công nghiệp, khu chế xuất, thu hút tối đa 500.000 lao động, mỗi năm các
trường đại học, cao đẳng đã đào tạo được trên 200.000 người” [20, 1]. Từ kinh
nghiệm thành công của các nước thực hiện tốt tiến trình CNH, HĐH trên thế giới
và của nước ta, việc thực hiện chiến lược phát triển con người toàn diện chính là
xây dựng mô hình con người mới có lòng yêu nước nồng nàn; có đạo đức cách
mạng trong sáng; có trí tuệ thông minh, chủ động và sáng tạo, thích nghi nhanh với
mọi hoàn cảnh xã hội; có cơ thể cường tráng, có năng lực thể chất toàn diện đáp ứng
mọi điều kiện làm việc và các hoạt động xã hội; có khă năng thẩm mỹ cao, biết phân
biệt và hưởng thụ cái đẹp của dân tộc và nhân loại; có tay nghề giỏi và thành thạo
trong nghề nghiệp.
Trong hoàn cảnh nước ta có nhiều khó khăn, yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH đối với chúng ta rất cấp bách. Muốn đi tắt đón đầu, muốn nhanh chóng đuổi
kịp các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, thì con đường tốt nhất để
chúng ta có thể thực hiện là “Phát triển giáo dục – phát triển toàn diện con người”.
2.1.2. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân đạt được trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo
- Những thành tựu và hạn chế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Về quy mô giáo dục: Tất cả 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều đã
được công nhận đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học;
94% dân số trong độ tuổi từ 15 – 35 biết chữ; bảo đảm tỷ lệ 90% trể em 14 tuổi tốt
nghiệp tiểu học. Trình độ dân trí của nước ta có bước tiến đáng kể. (1996 – 2000)
quy mô giáo dục tiếp tục tăng ở tất cả các cấp học, ngành học, đáp ứng nhu cầu học
tập ngày càng lớn của nhân dân (xem phụ lục 1). So với năm học 1996 –1997, tổng
số người đi học tăng từ hơn 20 triệu người lên hơn 23 triệu người vào năm học
2001 – 2002, trong đó số trẻ em ở các cơ sở giáo dục mầm non tăng 1,3 lần; số học
sinh phổ thông tăng 1,15 lần; số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 1,15 lần;
số học sinh ở các trường và trung học dạy nghề (Chính quy dài hạn và ngắn hạn)
tăng 2 lần; số sinh viên cao đảng, đại học tăng 2,22 lần. Nhìn chung, quy mô giáo
dục tiểu học và trung học cơ sở phát triển phù hợp yêu cầu phổ cập giáo dục, nâng
cao dân trí. Số học sinh trung học phổ thông ở tất cả các vùng đều tăng, kể cả
những vùng khó khăn. Mạng lưới trường phổ thông nước ta phát triển khá tốt; trừ
một số rất ít địa phương, trường tiểu học đã về đến thôn, ấp; trường THCS về đến xã
hoặc liên xã; trường THPT về đến quận, huyện hoặc cụm xã, phường. Mạng lưới các
trường dậy nghề được khôi phục; các trường THCN được củng cố, các trường cao
đẳng, đại học phát triển mạnh, số lượng các trường ngoài công lập đã tăng đáng kể,
nhất là THPT và đại học (xem phụ lục 2). Đến hết năm 2005 có 30 tỉnh đạt chuẩn phổ
cập THCS. Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học bậc tiểu học đạt 97%; trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề tăng 10% năm; sinh viên đại học, cao đẳng 7,6% năm.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, về quy mô giáo dục còn những yếu
kém: Chưa đat chỉ tiêu phải thu hút hầu hết trẻ 5 tuổi vào lớp mẫu giáo. Ngành
mầm non gặp rất nhiều khó khăn, ở nhiều nơi còn bị thả nổi. Kết quả xóa mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học còn chưa vững chắc, chất lượng hiệu quả đào tạo còn
thấp, chưa có giải pháp khắc phục sự chênh lệch còn quá lớn giữa các vùng, miền
về quy mô phát triển giáo dục, chưa gắn chặt với quy hoach phát triển kinh tế – xã
hội của cả nước của từng địa phương.