Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

KHU VỰC PHÒNG THỦ TỈNH HÀ TÂY DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA ĐẨY MẠNH PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG CÔNG NGHIỆPTIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP Ở ĐỊA PHƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.02 KB, 46 trang )

KHU VỰC PHÒNG THỦ TỈNH HÀ TÂY DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA ĐẨY
MẠNH PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG CÔNG NGHIỆPTIỂU THỦ
CÔNG NGHIỆP Ở ĐỊA PHƯƠNG

1.1 phân công lao động trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và khu
vực phòng thủ tỉnh Hà Tây - một số vấn đề lý luận cơ bản
1.1.1. Mấy vấn đề lý luận về phân công lao động trong công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp ở Hà Tây
* Phân công lao động trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở Hà Tây
CN,TTCN là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền kinh tế.
Phát triển sản xuất và đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN sẽ góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Để có quan niêm đúng về phân công lao động trong
CN,TTCN ở Hà Tây cần làm rõ một số quan niệm có liên quan.
Phân công lao động xã hội là quá trình phân bố lực lượng lao động xã hội
vào các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội …Trong đó các ngành kinh tế là trọng tâm.
Phân công lao động xã hội chính là sự chuyên môn hoá sản xuất thành những
ngành nghề khác nhau, là sự tách biệt các loại lao động khác nhau trong xã hội,
trong đó người sản xuất tiến hành những hoạt động sản xuất khác loại. Nền kinh tế
quốc dân chia ra thành các ngành, cũng như các ngành đó lại chia ra thành các loại
và thứ khác nhau. Theo C.Mác “trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một
dân tộc biểu lộ ra rõ nhất ở trình độ phát triển của sự phân công lao động xã hội”
[ 1.tr 30].
Phân công lao động là tất yếu khách quan bắt nguồn từ nhu cầu cuộc sống xã
hội. Quá trình phân công lao động diễn ra từng bước theo trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Ngược lại phân công lao động lại có tác dụng thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển. Đặc biệt, phân công lao động có ý nghĩa to lớn là đòn
bẩy mạnh mẽ của sản xuất trước ngày xuất hiện của sản xuất lớn. V.I. Lê nin viết :
“ trong nền sản xuất dựa trên cơ sở lao động thủ công, kỹ thuật chỉ có thể tiến bộ
được dưới hình thức của sự phân công thôi” [2.tr.535].
Sự phân công lao động trong xã hội thể hiện sự phân công chung theo loại
sản xuất như công nghiệp, nông nghiệp… và sự phân công riêng phân chia các loại


sản xuất thành những ngành và những phân ngành : công nghiệp nặng, công
nghiệp nhẹ, trồng trọt và ngành chăn nuôi …. Ngoài ra còn có sự phân công theo
lãnh thổ, theo các vùng kinh tế. Như vậy, phân công lao động chính là sự chuyên
môn hoá sản xuất trong phạm vi toàn xã hội, phân công lao động xã hội trong lịch
sử diễn ra theo hai kiểu phân công tự phát và phân công tự giác. Dưới chế độ
nguyên thuỷ với đặc điểm là có hình thức phân công lao động giản đơn nhất, tức là
sự phân công tự nhiên, tự phát theo nam và nữ, theo tuổi tác. Đàn ông thì săn bắt,
đàn bà thì hái lượm hoa quả, trong nom việc nhà, người già thì chế tạo công cụ lao
động. Ăng Ghen viết: “lúc đầu chỉ là sự phân công lao động trong hành vi theo giới
tình và về sau là phân công lao động tự hình thành hoặc (hình thành một cách tự
nhiên), do những thiên tính bẩm sinh (như thể lực chẳng hạn), do những nhu cầu,
do những sự ngẫu nhiên” [3.tr.30]. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong
kiến, lực lượng sản xuất có sự phát triển nhất định, phân công lao động cũng từng
bước phát triển. Giai đoạn này có sự phân chia thành lao động vật chất và lao động
tinh thần, sự phân công lao động thể hiện đúng tính chất của nó. ăng ghen đã chỉ ra
: “phân công lao động chỉ trở thành sự phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện
sự phân chia lao động vật chất và lao động tinh thần” [4.tr.45]. Tuy nhiên thời kỳ
này phân công lao động chủ yếu vẫn diễn ra hoàn toàn tự phát.
Đến giai đoạn phát triển của CNTB do kết quả của nền sản xuất cơ khí hoá,
nên sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, công nghiệp thực sự đã
tách khỏi nông nghiệp. Giai đoạn tự do cạnh tranh của CNTB, sự phân công lao
động xã hội đã có một bước phát triển rất lớn, nhưng sự phân công đó diễn ra cơ
bản vẫn là tự phát. Giai đoạn CNTB độc quyền và độc quyền nhà nước, do sự phát
triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế, nhất là khi nó đã mang tính chất quốc tế
cho nên tính chất xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất luôn mâu thuẫn gay gắt
với quan hệ sản xuất TBCN. Nhà nước tư sản đã can thiệp và ngày càng can thiệp
sâu hơn vào quá trình kinh tế nói chung và sự phân công lao động xã hội nói riêng.
Trong thời kỳ này phân công lao động một mặt diễn ra tự phát theo yêu cầu của
các quy luật thị trường, mặt khác được tác động tự giác bởi các kế hoạch của nhà
nước tư sản trong phát triển kinh tế và sử dụng nguồn lao động.

Trong nền kinh tế XHCN sự phân công lao động giữa hai ngành công nghiệp
và nông nghiệp cũng như trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân được diễn ra một
cách tự giác, có tổ chức, có kế hoạch, con người thực sự làm chủ quá trình sản
xuất. Dưới CNXH sự phân công lao động xã hội được kết hợp chặt chẽ vàthống
nhất giữa các cơ sở sản xuất, các địa phương, các ngành và toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Chính vì vậy, sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, để phát
triển kinh tế xây dựng CNXH bắt buộc phải tiến hành phân công lại lao động xã
hội.
Thực tiễn đã chứng minh, điều kiện của sự phân công lao động xã hội là sự
phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội phản ánh trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Đến lượt nó, sự phân công lao động lại là
nhân tố phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi lẽ, phân công lao động dẫn đến sự
tách biệt các loại lao động khác nhau, tạo điều kiện cho người lao động tích luỹ
kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn và kiến thức của họ, từ đó tiếp tục
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Phân công lao động xã hội phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất xã hội đồng thời mỗi bước tiến của sự phân công lao động xã hội lại có tác
dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Phân công lao động xã hội vừa là kết
quả, vừa là tiền đề của sự phát triển lực lượng sản xuất mà trước hết là sự phát triển
của công cụ lao động. Phân công lao động xã hội thường bắt đầu từ trong nông
nghiệp rồi sau đó mới lan sang các ngành khác. Quá trình mở rộng phân công lao
động xã hội đồng thời là quá trình phát triển của sản xuất hàng hoá, phá vỡ dần
tính chất tự cấp, tự túc, khép kín của nền sản xuất nhỏ, mở rộng quan hệ trao đổi,
hợp tác ra phạm vi quốc tế. Có hai loại phân công lao động chủ yếu là trong xã hội
và trong xí nghiệp. Phân công lao động xã hội và phân công lao động trong nội bộ
xí nghiệp có liên hệ chặt chẽ với việc chuyên môn hoá nghề nghiệp của từng
người.
Từ sự khái quát lý luận về phân công lao động xã hội nói chung ta thấy sự
phân công lao động trong nội bộ xí nghiệp được gọi là phân công lao động cá biệt.
C. Mác viết : “nếu người ta chỉ xét riêng bản thân lao động thôi thì người ta có thể

gọi sự phân chia nền sản xuất xã hội thành những ngành lớn công nghiệp, nông
nghiệp … là sự phân công chung, gọi sự phân chia những ngành sản xuất ấy thành
loại và thứ là phân công đặc thù và cuối cùng gọi sự phân công trong xưởng thợ là
phân công cá biệt” [ . tr510]. Vì vậy, phân công lao động trong CN,TTCN chính là
sự chuyên môn hoá sản xuất trong phạm vi ngành CN,TTCN nằm trong phạm vi
của phân công lao động xã hội nói chung. Trong lịch sử, từ khi CNTB ra đời đã
thúc đẩy mạnh mẽ sự phân công lao động xã hội nói chung và phân công lao động
trong CN,TTCN nói riêng. Quá trình đó, sản xuất cơ khí phát triển làm cho công
nghiệp hoàn toàn tách khỏi nông nghiệp và quyết định sự phân công hơn nữa trong
nội bộ những ngành ấy.
Cùng với sự phát triển chung của lực lượng sản xuất xã hội, công nghiệp
được chia ra thành nhiều ngành khác nhau, số lượng các ngành cũng tăng lên.
V.I.Lênin đã khái quát : “sự chuyên môn hoá lao động xã hội do bản chất của nó là
vô cùng tận, cũng giống như sự phát triển của kỹ thuật vậy. Muốn nâng cao được
năng suất lao động của cong người, ví dụ nhằm làm ra một bộ phận nào đó được
chuyên môn hoá, trở thành một ngành sản xuất riêng biệt, sản xuất được hàng loạt
sản phẩm và vì lẽ đó có thể và cần phải sử dụng máy móc.” [ .tr.115].
Như vậy, về mặt lý luận đã chỉ ra khá rõ vấn đề phân công lao động trong
CN,TTCN gắn liền với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, tăng thêm tính
chất xã hội hoá của sản xuất. Ngày nay, quá trình phát triển của lực lượng sản xuất
ở nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh CNH,HĐH, nhằm đưa tới sự thay đổi kỹ
thuật, công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế theo hướng hiện đại. Đồng thời, xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng trong nước và quốc
tế, nhờ đó mà đẩy mạnh phân công lao động xã hội và củng cố, hoàn thiện quan hệ sản
xuất mới giữ vững định hướng XHCN. Việc đẩy mạnh phân công lao động trong
CN,TTCN không chỉ là kết quả của quá trình phân công lao động xã hội mà còn là của
quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Đó là hoạt động nỗ lực, chủ động của nhà nước
và nhân dân lao động để thúc đẩy quá trình CNH,HĐH và phát triển kinh tế xã hội đất
nước.
Phân công lao động trong CN,TTCN là quá trình phân bố lực lượng lao động

xã hội vào các ngành sản xuất CN,TTCN, trong đó lấy công nghiệp làm trọng tâm.
Trên thực tế các ngành kinh tế nói chung, ngành CN,TTCN nói riêng luôn phát
triển và biến đổi, cơ cấu ngành CN,TTCN cũng biến đổi không ngừng. Do đó quá
trình phân công lao động trong CN,TTCN cũng không kết thúc mà là quá trình liên
tục. Trong điều kiện nước ta hiện nay, cùng với quá trình đẩy mạnh phân công lao
động xã hội, và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH, việc
đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN là một tất yếu khách quan. Điều đó
không chỉ xuất phát từ yêu cầu phát triển các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội mà còn
để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế, chủ động tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới nhằm xây dựng thành
công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Là một nước nông nghiệp với gần 80 % dân số và hơn 70% lực lượng lao
động sống ở nông thôn và làm nông nghiệp, vấn đề đặt ra cho nước ta là phải đẩy
nhanh quá trình phân công lao động xã hội trước hết là trong nông nghiệp, nông
thôn theo hướng CNH,HĐH, đồng thời đẩy mạnh việc phân công lao động trong
CN,TTCN. Song, việc đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN cũng như
phân công lao động trong nông nghiệp, nông thôn đều chịu sự tác động của môi
trường tự nhiên, xã hội và vị trí địa lý của mỗi vùng, miền trong nước. Ở những vị
trí địa lý khác nhau việc đẩy mạnh phân công lao động nói chung và phân công lao
động trong CN,TTCN theo hướng CNH,HĐH cũng có sự khác nhau. Khi đẩy
mạnh phân công lao động trong CN,TTCN phải chú ý đến tất cả các nhân tố về
nguồn lực bao gồm : đất đai, tài nguyên, lao động, trình độ tư liệu lao động …,
trong đó nhân tố con người có ý nghĩa quyết định. Bên cạnh đó, các yếu tố phong
tục, tập quán, tâm lý, truyền thống của một dân tộc, một địa phương cũng gây ảnh
hưởng không ít đến quá trình phân công lao động xã hội và trong lĩnh vực
CN,TTCN.
Trong những năm qua, đặc biệt từ khi đổi mới kinh tế đất nước, nhờ có
đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn và có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của
Đảng và Nhà nước, nhân dân ta đã phát huy cao độ các nhân tố chủ quan, tận dụng
mọi điều kiện khách quan thuận lợi, đẩy mạnh công cuộc xây dựng, phát triển kinh

tế xã hội và đã thu được những thành tựu rất to lớn và toàn diện. Cùng với việc đẩy
mạnh phân công lao động xã hội, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành kinh tế nhất
là sự phát triển vượt bậc của sản xuất CN,TTCN, cơ cấu lao động công nghiệp và
lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp nước ta cũng có những biến đổi lớn. Việc phát triển
các ngành công nghiệp dệt may, da, giày, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các
công trình xây dựng công nghiệp và giao thông, thuỷ lợi … đã thu hút một lượng
lớn lao động, cả lao động mới và lao động đang làm việc trong nông nghiệp, nông
thôn vào làm việc trong những cơ sở CN,TTCN, đặc biệt và phổ biến là ở các làng
nghề thủ công truyền thống, các cụm, điểm, khu công nghiệp xây dựng mới. Bên
cạnh đó, những năm qua đã diễn ra một hoạt động có tác động rất lớn đến cơ cấu tổ
chức ngành công nghiệp và lao động ngành công nghiệp đó là việc tổ chức, sắp
xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Qua đó, làm cho lực lượng, cơ cấu và trình độ
lao động trong công nghiệp cũng có sự biến đổi và Hà Tây không nằm ngoài xu
hướng đó. Một nhân tố có tác động lớn đến cơ cấu và chất lượng lao động
CN,TTCN là công tác đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật. Những năm qua quy
mô đào tạo lao động của nhà nước ta ngày càng tăng, cung cấp ngày càng nhiều
những cán bộ, công nhân có trình độ cho các ngành kinh tế xã hội và ngành
CN,TTCN. Nhưngg do cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, đào tạo đại học, cao đẳng tăng
quá nhanh (từ năm 1998 – 2003 số cơ sở đào tạo tăng 14,8%, số học sinh tăng
139%), so với đào tạo trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật, nên số công
nhân, lao động kỹ thuật bổ sung cho các ngành CN,TTCN không nhiều. Tuy vậy,
từ năm 2000 công tác đào tạo công nhân kỹ thuật đã được chú ý hơn, nên số công
nhân kỹ thuật được đào tạo năm 2003 đã bằng 163,5% so với năm 2000 và số học
sinh tốt nghiệp vào làm trong các ngành CN,TTCN cũng tăng nên. Đặc biệt là ở
các địa phương xây dựng các khu, cụm, điểm công nghiệp và phát triển kinh tế
làng nghề đã thu hút một lực lượng lao động lớn ở địa bàn nông nghiệp nông thôn.
Qua 20 năm đổi mới, cơ cấu lao động xã hội và cơ cấu kinh tế nước ta đã có
những thay đổi bước đầu theo hướng tích cực. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự
nghiệp CNH,HĐH đất nước trong giai đoạn mới, quá trình đẩy mạnh phân công
lao động trong CN,TTCN đang đứng trước những khó khăn thử thách lớn đó là:

dân số, lao động phân bố không đều giữa các vùng, lãnh thổ, tỷ lệ tăng dân số cao
nhất là ở các vùng nông thôn đã và đang ảnh hưởng lớn, lâu dài đến đẩy mạnh
phân công lao động trong CN,TTCN. Trình độ dân trí của nước ta nhìn chung còn
thấp, đặc biệt là ở vùng trung du và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Trình độ văn hoá
và chuyên môn kỹ thuật của người lao động cũng còn hạn chế, lao động phổ thông
chưa qua đào tạo chuyên môn còn chiếm tỷ lệ rất cao, chưa đáp ứng được yêu cầu
đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN. Trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước, tình trạng di dân tự do, chuyển dịch lao động tự phát từ nông
thôn ra thành thị, từ vùng này sang vùng khác trong những năm gần đây đã gây ảnh
hưởng lớn đến việc phân công lao động xã hội cũng như phân công lao động trong
lĩnh vực CN,TTCN và làm đảo lộn quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
của địa phương và vùng kinh tế. Hơn nữa, quá trình toàn cầu hoá kinh tế đang diễn
ra mạnh mẽ trên thế giới, yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
những năm tới đang đặt ra đòi hỏi lớn đối với việc phân công lao động xã hội và
đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở nước ta.
Cùng với những khó khăn, thử thách trên. đẩy mạnh phân công lao động
trong CN,TTCN ở nước ta đang diễn ra trong điều kiện nền kinh tế có nhiều mâu
thuẫn gay gắt : mâu thuẫn giữa yêu cầu cấp bách phải cải thiện đời sống nhân dân
với yêu cầu tăng tích luỹ để đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước; giữa yêu cầu mở rộng
sản xuất, tạo việc làm, thu hút lao động mới tăng lên với khả năng tích luỹ đầu tư
trong nước còn hạn chế; giữa yêu cầu đẩy mạnh cơ giới hoá, tự động hoá sản xuất,
hiện đại hoá ngành công nghiệp với yêu cầu giải quyết việc làm, chống thất nghiệp
cho đội ngũ lao động đông đảo mà phần lớn chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ
thuật; giữa trình độ, năng lực có hạn của đội ngũ cán bộ làm công tác lao động xã
hội với tính chất, yêu cầu công tác quản lý lao động trong điều kiện kinh tế thị
trường, mở cửa và hội nhập với thế giới…đó là đòi hỏi có tính cấp thiết và là một
tất yếu kinh tế của quá trình đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN nói
riêng và đẩy mạnh phân công lao động xã hội nói chung.
Phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây không nằm ngoài xu hướng
phân công lao động trong CN,TTCN của cả nước như đề cập ở trên đó là quá trình

phân bố lại lực lượng lao động xã hội trên địa bàn tỉnh vào các ngành sản xuất
CN,TTCN, về cơ bản lâu dài lấy phân công lao động trong lĩnh vực công nghiệp
làm trọng tâm. Việc đẩy mạnh phân công lao động xã hội trên địa bàn tỉnh nói
chung và đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN nói riêng theo hướng
CNH,HĐH để khai thác tối đa nguồn lực lao động cho sự phát triển kinh tế. Thực
hiện đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN trên cơ sở đẩy mạnh phân
công lao động xã hội trên địa bàn tỉnh và phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp,
các khu, cụm, điểm tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề thủ công truyền thống
phù hợp với điều kiện tự nhiên, vùng lãnh thổ trên địa bàn tỉnh Hà Tây sẽ góp phần
thực hiện mục tiêu dân giàu, tỉnh mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để
đạt được mục tiêu đó Hà Tây cùng với cả nước phải thực hiện từng bước việc đổi
mới nâng cao kỹ thuật, công nghệ cho nền kinh tế, đồng thời thực hiện phân công
lại lao động xã hội, tập trung đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN. Quá
trình đó phụ thuộc vào các điều kiện về tự nhiên, kinh tế và xã hội.
Về đặc điểm kinh tế, Hà Tây là một tỉnh có địa hình đa dạng, vừa có đồi núi
vừa có đồng bằng với diện tích tự nhiên là 2192,96 km
2
; phía Đông giáp Hà Nội,
Hưng Yên; phía Tây giáp Hoà Binh; Phía Bắc giáp tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc; Phía
Nam giáp Hà Nam và nằm cạnh khu tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng
Ninh, hạt nhân kinh tế của miền Bắc. Hà Tây là một tỉnh thuộc đồng bằng sông
Hồng, nằm trên khu vực chuyển tiếp từ Tây Bắc và Trung du miền Bắc với đồng
bằng sông Hồng qua một mạng lưới giao thông về đường thuỷ, đường bộ, đường
sắt và các bến cảng tương đối phát triển [ .tr15]. Với đặc điểm địa hình và vị trí địa
lý như trên, Hà Tây có nhiều điều kiện thuận lợi để hình thành cơ cấu kinh tế đa
dạng, phát triển mạnh kinh tế công nghiệp và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp
nói chung, đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN nói riêng. Đồng thời có
điều kiện mở rộng trao đổi hàng hoá với các tỉnh đồng bằng sông Hồng, các tỉnh
trung du miền núi phía Bắc và các tỉnh phía Nam.
Về tài nguyên thiên nhiên:

Tài nguyên đất của Hà Tây tương đối đa dạng với nhiều loại đất có độ phì
cao, khí hậu ở đây mang sắc thái nhiệt đới gió mùa; có mùa hè nóng, mưa nhiều và
mùa đông lạnh mưa ít. Với điều kiện đất đai và khí hậu nêu trên Hà Tây có điều
kiện thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp đa dạng, với nhiều loại cây trồng ngắn
ngày, dài ngày, cây lương thực, cây công nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi, cây rừng đa
tác dụng với hệ thống canh tác cây công nghiệp và cây nông nghiệp. Đây là điều
kiện thuận lợi để phát triển CN,TTCN phục vụ cho nông nghiệp.
Về tài nguyên khoáng sản :
Hà Tây có một số khoáng sản chính như đá vôi, đá Granit, sét cao lanh, vàng
gốc và sa khoáng, đồng than bùn, nước khoáng…. với chất lượng và trữ lượng cho
phép khai thác và chế biến ở quy mô công nghiệp vừa [ Phụ lục 1]. Tuy nhiên,
nguồn tài nguyên khoáng sản có trữ lượng lớn của Hà Tây không nhiều, chủ yếu là
loại khóng sản phục vụ cho công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng.
Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển CN,TTCN, trong đó có đẩy mạnh phân
công lao động trong hai ngành này.
Về dân số và lao động :
Dân số của Hà Tây tại thời điểm ngày 1 tháng 4 năm 2004 là 2,5 triệu người,
với tốc độ tăng bình quân 1,8%/ năm, mật độ dân số trung bình khoảng 1141
người/km
2
. Hà Tây là tỉnh đông dân thứ 5 trong 64 tỉnh, thành phố của cả nước.
Nhưng chỉ có gần 10% dân số sống ở thành thị và có hơn 90% dân số sống ở nông
thôn. Có 9 xã đồng bào dân tốc ít người trong đó có 7 xã ở vùng núi Ba Vì với số
dân trên 29000 người chủ yếu là dân tộc Mường.
Số dân trong độ tuổi lao động của Hà Tây trên 1,2 triệu người (1268000),
trong đó lao động ở khu vực nông thông chiếm gần 90% , riêng lao động nông
nghiệp gần 70 %. Hàng năm có thêm 3,3 vạn đến 3,7 vạn người vào độ tuổi lao
động, trừ số người vào độ tuổi lao động tiếp tục đi học phổ thông trung học thì còn
khoảng trên 2 vạn người cần được giải quyết việc làm mới hoặc cần có thêm việc
làm [ tr 38]. Có thể thấy ràng nguồn nhân lực của Hà Tây tương đối dồi dào, lại

chụi ảnh hưởng lan toả của văn minh đô thị và tốc độ phát triển các khu, cụm, điểm
công nghiệp, các làng nghề thủ công truyền thống, do đó có khả năng nhanh nhạy
tiếp thu phát triển sản xuất hàng hoá đây là một thế mạnh. Tuy nhiên, Hà Tây là
tỉnh đất hẹp, người đông, tốc độ tăng dân số và theo đó là tốc độ tăng lao động
nhanh đang là sức ép lớn về việc làm, thu nhập và các vấn đề xã hội. Lao động ở
nông thôn hiện nay đang thiếu việc làm và phổ biến là thuần nông. Lao động ở
thành thị chưa có việc làm chiếm tới trên 5% số người hoạt động kinh tế. Nhìn
chung, tiềm năng về lao động của Hà Tây là rất lớn, nếu đẩy mạnh phân công lao
động xã hội và phân công lao động trong CN,TTCN hợp lý sẽ cho phép giải quyết
được vấn đề việc làm cho người lao động. Song việc đẩy mạnh phân công lao động
ở Hà Tây đặc biệt là trong lĩnh vực CN,TTCN còn hạn chế nên phần nào chưa phát
huy có hiệu quả tiềm năng đó.
Về CN,TTCN:
Nhìn chung công nghiệp của Hà Tây vẫn còn nhỏ bé, chiếm tỷ trọng thấp
trong GDP và đang đứng trước nhiều khó khăn. Giá trị sản xuất công nghiệp năm
2004 đạt 7225,7 tỷ đồng, đứng thứ 12/64 tỉnh thành ph, tỷ trọng công nghiệp – xây
dựng đạt 37,1% GDP của tỉnh. Hiện nay gần 80 doanh nghiệp có công nghệ trung
bình và lạc hậu, phần lớn thiết bị đã sử dụng trên 10 năm. Năng suất lao động xã
hội và hiệu quả kinh tế còn thấp. Tiểu thủ công nghiệp với nhiều nghề truyền
thống, tiềm năng lớn nhưng chưa được phát triển mạnh, kỹ thuật còn lạc hậu, vốn
ít, còn mang tính tự phát, chưa được định hướng phát triển gắn với nông nghiệp,
nông thôn một cách mạnh mẽ. Công nghiệp chế biến nông – lâm sản, thực phẩm,
công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng là một thế mạnh của tỉnh
nhưng cũng chưa được phát triển mạnh do chưa tìm được thị trường tiêu thụ ổn
định với khối lượng lớn, giá trị xuất khẩu còn thấp [tr 19]
Xuất phát từ những đặc điểm kinh tế xã hội nói chung, đặc điểm CN,TTCN
ở Hà Tây như đã nêu ở trên cho thấy đẩy mạnh phân công lao động trong
CN,TTCN trên địa bàn tỉnh là vấn đề rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc
thúc đẩy kinh tế phát triển, giải quyết việc làm, đẩy nhanh quá trình CNH,HĐH
của địa phương.

Phân công lại lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây hiểu theo nghĩa chung
nhất được hình thành bở mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành lực lượng
lao động trong lĩnh vực CN,TTCN nằm trong tổng thể lực lượng lao động xã hội
của địa bàn tỉnh. Nó phản ánh mối quan hệ, tỷ lệ số lượng và chất lượng giữa các
bộ phận cấu thành bên trong của lực lượng lao động CN,TTCN, các làng nghề thủ
công truyền thống và có quan hệ chặt chẽ với lực lượng lao động xã hội trên địa
bàn cũng như cơ cấu lao động trong tỉnh. Sự thay đổi cấu trúc và mối quan hệ tỷ lệ
giữa các bộ phận lao động trong quá trình phân công lao động nhằm tạo ra sự cân
đối mới, chất lượng mới gọi là quá trình phân công lại lao động trong CN,TTCN ở
địa bàn Hà Tây. Phân công lại lao động trong CN,TTCN trước hết phải do quá
trình phân công lao động lao động trên địa bàn tỉnh quyết định. Hiệu quả của phân
công lại lao động trong CN,TTCN, cách thức tiến hành như thế nào phụ thuộc rất
nhiều ở hoạt động nỗ lực chủ quan. đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN
ở Hà Tây chính là hoạt động có chủ đích của con người, nhằm tạo ra cơ cấu lao
động mới chất lượng mới của quá trình phân công lại lao động của hai ngành này,
nhằm tạo ra năng suất lao động cao hơn trong sản xuất và thúc đẩy CN,TTCN phát
triển nhanh, bền vững.Đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, trong đó nó vừa là nguyên nhân và vừa là kết quả của tốc độ phát
triển của chính CN,TTCN. Để đẩy nhanh tốc độ phát triển CN,TTCN, giải quyết
việc làm cần phải kết hợp được những yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan
nhằm hình thành, phân bô lực lượng lao động trong ngành CN,TTCN và các ngành
kinh tế khác trên địa bàn tỉnh. Mọi sự tách rời, tuyệt đối hoá nhân tố khách quan
hoặc nhân tố chủ quan đều đưa đến sự trì trệ cho quá trình phát triển CN,TTCN ở
địa phương.
Thực tiễn nghiên cứu quá trình phân công lại lao động trong CN,TTCN ở Hà
Tây với những góc độ tiếp cận khác nhau đã đưa đến những quan niệm khác nhau.
Có quan niệm cho rằng phân công lại lao động trong CN,TTCN là quá trình phân
bố lực lượng lao động xã hội trong lĩnh vực CN,TTCN, làm thay đổi cấu trúc của
kết cấu lực lượng lao động CN,TTCN theo yêu cầu của phân công lao động xã hội
và phân bố lực lượng lao động ở các ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh [ tr 9]. Đó là

một quan niệm đúng, vì nó chỉ ra đặc trưng cốt lõi của quá trình phân công lại lao
động trong CN,TTCN, là quá trình tác động mạnh mẽ vào sự phân bố lực lượng lao
động trên địa bàn tỉnh trong lĩnh vực CN,TTCN, làm thay đổi cấu trúc và mối liên
hệ của kết cấu lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây. Đồng thời thấy được mối quan
hệ giứa phân công lại lao động trong CN,TTCN với phân công lao động xã hội.
Song quan niệm trên còn chưa đầy đủ vì nó chưa bao quát toàn diện nội hàm của
quá trình phân công lại lao động trong CN,TTCN ở một địa phương có nhiều nét
đặc thù như Hà Tây. Với quan niệm trên sẽ đưa đến cách hiểu cho rằng phân công
lại lao động trong CN,TTCN là nội dung của chuyển dịch cơ cấu lao động trong
CN,TTCN. Vì vậy nó phụ thuộc vào chuyển dịch cơ cấu lao động và sự phân công
lao động xã hội, chưa thấy được tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của
quá trình đó đối với chuyển dịch cơ cấu lao động và phân công lao động lao động
xã hội. Vì quá trình phân công lao động xã hội là sự phân bố lực lượng lao động xã
hội vào các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội … trong đó các ngành kinh tế là trọng
tâm, bởi vậy trong thực tế có khi phân công lao động xã hội nói chung trên địa bàn
tỉnh phát triển mạnh mẽ, nhưng chưa có sự thay đổi đáng kể về sự phân bố và di
chuyển lao động sang lĩnh vực CN,TTCN ở các địa phương trong tỉnh. Do đó, quá
trình phân công lại lao động trong CN,TTCN diễn ra không rõ nét. Mặt khác, quan
niệm trên chưa nêu rõ nội dung, yêu cầu của việc phân công lại lao động trong
CN,TTCN ở Hà Tây trong điều kiện đẩy mạnh phân công lao động xã hội và quá
trình CNH,HĐH trên địa bàn tỉnh. Bởi lẽ, quá trình phân công lao động xã hội
trong điều kiện CNH,HĐH với phân công lại lao động xã hội trong lĩnh vực
CN,TTCN không chỉ có quan hệ chặt chẽ với phân công lao động xã hội trên địa
bàn mà còn có quan hệ chặt chẽ với quá trình đổi mới kỹ thuật công nghệ ở các
ngành kinh tế của địa phương nhất là trong CN,TTCN. Bởi vậy, quan niệm trên
mới chỉ thấy được sự phân bố, thay đổi cấu trúc về mặt lượng lao động, mà chưa
thấy rõ sự thay đổi về chất lượng, trình độ của lao động trong CN,TTCN. Cũng cần
thấy rằng đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN bao giờ cũng nhằm một
mục đích nhất định và thông qua hoạt động có ý thức, tự giác của con người. Do
đó, để quá trình đó đạt hiệu quả đòi hỏi phải có sự kết hợp nỗ lực chủ quan của con

người trên cơ sở nhận thức được quy luật khách quan.
Với cách tiếp cận đó, nội hàm của quá trình đẩy mạnh phân công lao động
trong CN,TTCN ở Hà Tây phải là quá trình thúc đẩy sự phân công lại, phân bố lại
lao động trong lĩnh vực CN,TTCN, đó là quá trình phân công lại lao động trong nội
bộ ngành CN,TTCN. Cho nên, nó vừa thay đổi cấu trúc, sắp xếp lại lao động trong
nội bộ ngành CN,TTCN, vừa thu hút thêm lao động xã hội vào phát triển
CN,TTCN. Quá trình đó nhằm chuyển dịch, bố trí lao động từ trạng thái lạc hậu,
mất cân đối, chủ yếu dựa vào lao động thủ công giản đơn, ít sáng tạo, năng suật
hiệu quả thấp, sang lao động có tay nghề cao, được đào tạo, có năng lực trí tuệ, sức
sáng tạo ngày càng tăng. Nhờ đó đem lại năng suất, hiệu quả lao động ngày càng
cao trong lĩnh vực CN,TTCN. Từ đó có thể thấy rằng: Đẩy mạnh phân công lao
động trong CN,TTCN ở Hà Tây là quá trình hoạt động nỗ lực, tự giác, có tổ chức,
có kế hoạch của bộ máy chính quyền địa phương, của ngành CN,TTCN và nhân dân
lao động nhằm toàn dụng các điều kiện thuận lợi về phát triển CN,TTCN và vị trí
địa lý của tỉnh để phân bố lại lực lượng lao động trong lĩnh vực CN,TTCN làm thay
đổi cấu trúc kết cấu lực lượng lao động và mối quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phần cấu
thành cơ cấu lao động CN,TTCN theo hướng tăng tỷ trong lao động CN,TTCN, trên
cơ sở ứng dụng công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, tạo năng
suất lao động cao, bảo đảm cho ngành CN,TTCN trong tỉnh phát triển nhanh, bền
vững.
Với quan niệm trên thì việc đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN
ở địa bàn Hà Tây không phải là quá trình tự phát, vô tổ chức, mà là quá trình tự
giác, có tổ chức, có kế hoạch của các cấp uỷ đảng, chính quyền, ngành công nghiệp
và nhân dân lao động. Điều này khác với quá trình phân công lao động theo kiểu tự
phát, tự do di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị, hoặc từ lao động nông
nghiệp sang lao động công nghiệp. Đó cũng là quá trình kết hợp giữa nhân tố
khách quan với nhân tố chủ quan, trong đó nhân tố khách quan quyết định nội
dung, nhân tốt chủ quan quyết định kết quả thực hiện.
Đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở địa bàn Hà Tây thực chất
là tạo sự cân đối mới về số lượng, chất lượng lao động, giữa các bộ phận cấu thành

cơ cấu lao động trong lĩnh vực CN,TTCN. Do đó, nội dung, đặc điểm của quá trình
đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN trên địa bàn cũng mang đậm nét
tính đặc thù về kinh tế nói chung, về lĩnh vực CN,TTCN của Hà Tây nói riêng.
Hà Tây là tỉnh liền kề với thủ đô Hà Nội nên có nhiều thế mạnh về vị trí địa
lý, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực và tài nguyên để phát triển CN,TTCN. Tuy
nhiên, với tính đặc thù của một tỉnh có gần 80% lực lượng lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp thì quá trình đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN có một số
thuận lợi nhất định đó là: trong thời kỳ đổi mới các chính sách của Đảng và Nhà
nước thực sự tạo điều kiện cho CN,TTCN phát triển tốt cùng với đó quá trình này
được sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân tỉnh. Sở công nghiệp Hà Tây đã tham mưu cho Tỉnh uỷ,Uỷ ban nhân dân
kịp thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển cho ngành. Năm 1999 Tỉnh uỷ
đã hoàn thành quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn đến năm 2010. Giá trị
sản xuất công nghiệp hàng năm tăng khá và bằng mức tăng trưởng bình quân của
cả nước. Các ngành sản phẩm chiếm tỷ trọng khá là công nghiệp chế biến nông,
lâm sản, thực phẩm, đồ uống, khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng và đang có xu
thế phát triển nhanh. Sản xuất CN,TTCN phát triển nhanh cả về số lượng, quy mô,
trình độ công nghệ và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bước đầu phát huy được thế
mạnh “đất trăm nghề”, củng cố, phát triển các làng nghề, ngành nghề truyền thống,
làm tăng lao động có việc làm ở nông thôn. Công tác quy hoạch đã đi dần vào nề
nếp, bước đầu triển khai thực hiện và thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp như
Phú Cát, Khu công nghệ cao Hoà Lạc và trên 20 cụm, điểm công nghiệp đã và
đang được quy hoạch, tiếp nhận dự án đầu tư. Công tác quản lý nhà nước về
CN,TTCN được tăng cường, việc tổ chức chỉ đạo, sử dụng quỹ khuyến công và
phát triển làng nghề đạt hiệu quả.
Bên cạnh đó, quá trình đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở địa
phương cũng còn những đặc điểm hạn chế đó là Hà Tây là địa bàn nằm trong vùng
phân lũ, chặn lũ sông Hồng. Ngoài ra, do nằm sát Hà Nội nên Hà Tây cũng chịu
nhiều ảnh hưởng bất lợi như : giá thị trường đất cao, bị thu hút chất xám ra bên
ngoài. Giá trị sản xuất CN,TTCN đạt khá nhưng không đều ở các địa phương, số

lượng doanh nghiệp tăng nhanh nhưng quy mô chủ yếu là nhỏ (chiếm 84%). Gần
50 % số doanh nghiệp vẫn đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản và sản xuất thử.
Việc tiếp thu thông tin, áp dụng công nghệ mới, phát triển thị trường, chuẩn bị hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế còn hạn chế. Tiến hành cổ phần hoá, sắp xếp lại
doanh nghiệp nhà nước còn chậm, các lĩnh vực có tiềm năng chưa thu hút được các
doanh nghiệp có vốn lớn và công nghệ cao. Việc triển khai cụ thể hoá chương trình
hợp tác công nghiệp với Hà Nội chòn chậm, nhất là công tác thu hút khuyến khích
đầu tư vào các vùng xa, các khu, cụm điểm công nghiệp còn hạn chế, đặc biệt là
khâu giải phóng mặt bằng. Kết cấu hạ tầng ở các làng nghề còn yếu, lao động có
trình độ chuyên môn và tay nghề cao trong nội bộ ngành CN,TTCN còn thiếu. Lực
lượng lao động xã hội mới có gần 20 % được đào tạo nghề. Tỷ lệ chưa có việc làm
ở khu vực thành thị trên 5% và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn dưới
80%. Nhận thức của các cấp các ngành về đầu tư còn hạn chế nên việc đền bù, giải
phóng mặt bằng nhìn chung còn khó khăn, thời gian kéo dài. Vì vậy, trong thời
gian gần đây tỉnh luôn xếp cuối trong số 64 tỉnh thành cả nước về khả năng cạnh
tranh và môi trường thu hút đầu tư. Điều đó có ảnh hưởng xấu đến việc đẩy mạnh
phân công lao động trong CN,TTCN của Hà Tây.
Từ những đặc điểm nêu trên cho thấy quá trình đẩy mạnh phân công lao
động trong CN,TTCN phải trên cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế của tỉnh nhằm
thúc đẩy cơ cấu lao động trong lĩnh vực CN,TTCN, tăng tỷ trong lao động công
nghiệp, dịch vụ. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất
lao động, làm cho lĩnh vực kinh tế CN,TTCN phát triển bền vững và năng động
hơn.
Đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây phải tạo ra sự cân
đối lao động giữa các ngành, các thành phần kinh tế nâng cao mức sống người lao
động. Đồng thời một mặt phát triển các ngành nghề CN,TTCN làm cơ cấu ngành
nghề thêm đa dạng, mặt khác lại thúc đẩy việc áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa học
công nghệ mới vào sản xuất. Theo đó người lao động có điều kiện tiếp thu khoa
học kỹ thuật, công nghệ, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để nâng cao năng
suất, cải thiện đời sống nhân dân, trên cơ sở đó thúc đẩy CN,TTCN phát triển vững

chắc.
Quá trình đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN phải gắn với sản
xuất hàng hoá. Một mặt thúc đẩy việc ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản
xuất, mặt khác làm thay đổi bộ mặt người lao động từ cách sống, lối suy nghĩ, cách
tổ chức và quản lý sản xuất theo hướng tiến bộ hơn, nâng cao tính năng động, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây phải bảo đảm việc
toàn dụng lao động, nâng cao chất lượng, hiệu quả lao động, làm tăng lao động có
việc làm, tăng thời gian sử dụng lao động, giảm tỉnh hình thất nghiệp trên địa bàn.
Đồng thời kết hợp chặt chẽ việc sử dụng lao động với công tác đào tạo cán bộ,
công nhân kỹ thuật, tăng số lượng lao động đã qua đào tạo, trong lĩnh vực tiểu thủ
công nghiệp cần thực hiện thường xuyên công tác truyền nghề, nhân cấy nghề
nhằm giải quyết việc làm cho nhiều người, nhiều hộ gia đình tham gia vào sản xuất
tiểu thủ công nghiệp để có thêm nhiều làng nghề, làm chuyền dịch cơ cấu lao động
nông nghiệp, nông thôn.
Đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây không chỉ đơn
thuần là làm tăng tỷ trọng, số lượng lao động trong lĩnh vực CN,TTCN, mà điều
quan trọng là còn thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân bố lại lao động xã hội trên địa
bàn theo hướng CNH,HĐH. Điều đó góp phần xây dựng một cơ cấu lao động đa
dạng, nhiều tầng, năng động theo hướng mở, phù hợp với mô hình phát triển
CN,TTCN địa phương trên địa bàn tỉnh, làm tăng lao động trong các ngành công
nghiệp, dịch vụ, giảm lao động nông nghiệp. Đồng thời tạo sự thay đổi về chất
trong cơ cấu và trình độ lao động công nghiệp, góp phần đẩy nhanh quá trình thay
thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, kỹ thuật công nghệ hiện
đại. Thực hiện vừa tuần tự, vừa nhảy vọt các bước cơ giới hoã, tự động hoá ngành
công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Hơn nữa, quá trình đẩy mạnh phân công
lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây còn có vai trò quan trọng, tạo việc làm, giảm
thất nghiệp, tham gia thực hiện xoá đói giảm nghèo, đẩy lùi tệ nạn xã hội, tăng
cường tiềm lực quốc phòng – an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội ở các địa phương trên địa bàn Hà Tây.

Phát triển CN,TTCN nói chung, đẩy mạnh phân công lao động trong
CN,TTCN ở Hà Tây nói riêng bị ràng buộc bởi một số điều kiện nhất định
* Một số nhân tố chi phối đến đẩy mạnh phân công lao động trong
CN,TTCN ở Hà Tây
Đẩy mạnh phân công lao động trong CN,TTCN ở Hà Tây bị chi phối bởi
nhiều nhân tố, nổi lên một số nhân tố cơ bản sau:
Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Hà Tây đến năm 2010
Từ điểm xuất phát thấp, từ lợi thế so sánh về phát triển kinh tế, xã hội của
tỉnh. Trong giai đoạn tới đảng bộ và nhân dân Hà Tây xác định là:

×