Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ 1945-1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.25 KB, 23 trang )

Chơng III
Đảnh lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống thực dân pháp và can thiệp mỹ
(1945 - 1954)
I. Lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền, chuẩn bị
kháng chiến trong cả nớc (1945 - 1946)
1. Tình thế ngàn cân treo sợi tóc của chính quyền cách mạng và chủ
trơng kháng chiến, kiến quốc của Đảng
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới đợc thành lập đã
phải đơng đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nớc bị các thế lực
đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt.
Cuối tháng 8-1945, theo thỏa thuận của Đồng minh ở Hội nghị Pốtxđam
(Posdam), gần 20 vạn quân của chính phủ Tởng Giới Thạch ờ ạt kéo vào nớc ta từ vĩ
tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực lợng tay sai
phản động trong hai tổ chức Việt quốc (Việt Nam quốc dân Đảng) và Việt cách
(Việt Nam cách mạng đồng minh hội). Vào Việt Nam, quân Tởng Giới Thạch còn ráo
riết thực hiện âm mu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, đánh đổ chính quyền cách
mạng, lập chính quyền phản động tay sai của chúng. Đằng sau quân tởng là đối quốc
Mỹ đang nuôi dã tâm đặt Đông Dơng dới chế độ ủy trị, một trá hình của chế độ
thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp
quân đội Nhật đã đồng lõa và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông Dơng. Ngày
23-9-1945, đợc quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở
đầu cuộc xâm lợc nớc ta lần thứ hai.
Trên đất nớc ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Một
số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh dọn đ-
ờng cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.
Lúc này, các tổ chức phản động Việt quốc, Việt cách, Đại Việt ráo riết
hoạt động. Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng. Chúng quấy
nhiễu, phá rối, cớp của, giết ngời, tuyên truyền, kích động một số ngời đi theo chúng
chống lại chính quyền cách mạng và đòi cải tổ Chính phủ lâm thời và các bộ trởng là


đảng viên cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền phản động ở Móng Cái, Yên
Bái, Vĩnh Yên. Cha bao giờ trên đất nớc ta có mặt nhiều thù trong giặc ngoài nh lúc
này.
Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh
tế, xã hội. Nạn đối ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra cha đợc khắc phục. Ruộng đất bị
bỏ hoang. Công nghiệp đình đốn. Hoàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thơng
đình trệ. Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá
nửa là tiền rách. Ngân hàng Đông Dơng còn nằm trong tay t bản Pháp. Quân Tởng
tung tiền quốc tệ và quan kim gây rối loạn thị trờng. 95% số dân không biết chữ, các
tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa cha có nớc nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Đất
nớc bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc nh ngàn cân treo sợi tóc. Tổ quốc đứng
trớc lâm nguy!.
Trớc tình hình đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tỉnh táo và
sáng suốt phân tích tình thế, chiều hớng phát triển của các trào lu cách mạng trên thế
giới và sức mạnh mới của dân tộc làm cơ sở để vạch ra chủ trơng và giải pháp đấu
tranh giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín và địa vị của Liên Xô đợc nâng cao trên
trờng quốc tế. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở
thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vơn lên
mạnh mẽ. ở trong nớc, chính quyền nhân dân của nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã đợc kiến lập có hệ thống từ Trung ơng đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ
vận mệnh của dân tộc. Lực lợng vũ trang nhân dân đang phát triển. Toàn dân tin tởng
và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dới sự lãnh đạo khéo léo của
Đảng, của Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, toàn dân, toàn quân đoàn kết
một lòng trong mặt trận dân tộc thống nhất, quyết tâm giữ vững nền độc lập tự do của
dân tộc.
Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc cấp bách
nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ơng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ
thị nhận định tình hình thế giới và trong nớc, chỉ rõ những thuận lợi cơ bản và những
thử thách lớn lao của cách mạng nớc ta. Trung ơng Đảng xác định: Tính chất của
cuộc cách mạng Đông Dơng lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng
1
.
Cuộc cách mạng ấy cha hoàn thành vì nớc ta cha hoàn toàn độc lập. Khẩu hiệu của ta
lúc này vẫn là Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết . Phân tích âm mu của các đế
quốc đối với Đông Dơng, Trung ơng nêu rõ kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân
Pháp xâm lợc, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng
2
. Vì vậy phải lập Mặt
trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lợc
3
; mở rộng Mặt trận Việt
Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào;
liên quyết giành độc lập - tự do - hạnh phúc cho dân tộc.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc nêu ra nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cả nớc
ta lúc này là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lợc, bài trừ nội phản,
cải thiện đời sống cho nhân dân
4
. Để thực hiện các nhiệm vụ đó Trung ơng đề ra các
công tác cụ thể:
Về nội chính: xúc tiến việc bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức,
lập Hiến Pháp, củng cố chính quyền nhân dân.
Về quân sự: động viên lực lợng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh
đạo cuộc kháng chiến lâu dài.
Về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc bình đẳng tơng trợ, thêm bạn bớt thù,
thực hiện khẩu hiệu hoa - Việt thân thiện đối với quân đội Tởng Giới Thạch và chủ
trơng độc lập về chính trị, nhân nhợng về kinh tế đối với Pháp.

Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đã giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng
về chỉ đạo chiến lợc và sách lợc cách mạng khôn khéo trong tình thế vô cùng hiểm
nghèo của nớc nhà.
2. Xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa và tổ chức kháng chiến ở miền Nam
Để sự nghiệp kháng chiến kiến quốc giành đợc thắng lợi, nhiệm vụ trung tâm
là củng cố chính quyền nhân dân. Ngay từ những ngày đầu, Đảng đã chú trọng lãnh
đạo, xây dựng nền móng của chế độ dân chủ mới, xóa bỏ toàn bộ tổ chức bộ máy
chính quyền thuộc địa, giải tán các đảng phái phản động
Trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp, bọn đế quốc phản động ra sức ngăn trở,
quấy phá, Đảng kiên quyết lãnh đạo, tổ chức cuộc tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 để
nhân dân tự mình chọn lựa bầu những đại biểu chân chính của mình vào Quốc hội, cơ
quan quyền lực nhà nớc cao nhất của nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 2-3-
1946, Quốc hội họp kỳ thứ nhất đã bầu Hồ Chí Minh giữ chức Chủ tịch Chính phủ và
trao quyền cho Ngời lập chính phủ chính thức - Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Tại
kỳ họp thứ hai (tháng 11-1946), Quốc hội đã thông qua Hiến pháp của nớc Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Quyền làm chủ nớc nhà, quyền và nghĩa vụ của mọi công dân đợc
ghi nhận trong Hiến pháp. Nhân dân cũng đã khẩn trơng bầu Hội đồng nhân dân và
Hội đồng nhân dân đã bầu ủy ban hành chính các cấp.
Đảng chỉ đạo tích cực phát triển các đoàn thể yêu nớc. Mặt trận dân tộc thống
nhất đợc mở rộng, đa đến sự ra đời của Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam
1,2,3,4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2000, t.8, tr.26-27.
(tháng 5-1946) gọi tắt là Liên Việt. Các tổ chức quần chúng đợc củng cố, mở rộng
thêm: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lần lợt
ra đời. Đảng Xã hội Việt Nam đợc thành lập nhằm đoàn kết những trí thức yêu nớc
Việt Nam.
Đảng ta coi trọng việc xây dựng và phát triển công cụ bảo vệ chính quyền cách
mạng nh quân đội, công an. Lực lợng vũ trang tập trung đợc phát triển về mọi mặt.
Cuối năm 1946, lực lợng quân đội thờng trực mang tên Quân đội quốc gia Việt Nam
có 8 vạn ngời. Việc vũ trang quần chúng cách mạng, quân sự hóa toàn dân đợc thực
hiện rộng khắp.

Cùng với việc xây dựng chính quyền nhân dân, Đảng và Chính phủ phát động
thi đua sản xuất; động viên nhân dân tiết kiệm giúp nhau chống giặc đói; thực hiện
bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác của chế độ thực dân; tiến hành tịch thu
ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất công
một cách công bằng, hợp lý; giảm tô 25%, giảm thuế, miễn thuế cho nông dân vùng
bị thiên tai; chủ trơng cho mở lại các nhà máy do Nhật để lại, tiến hành khai thác mỏ,
khuyến khích kinh doanh Đảng đã động viên nhân dân tự nguyện đóng góp cho
công quỹ hàng chục triệu đồng và hàng trăm kilôgam vàng, nền tài chính độc lập
từng bớc đợc xây dựng.
Đảng đã vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ mọi tệ nạn văn
hóa nô dịch của thực dân, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, phát triển phong trào bình dân
học vụ để chống nạn mù chữ, diệt giặc dốt. Một năm sau Cách mạng Tháng Tám
đã có 2,5 triệu ngời biết độc, biết viết.
Các trờng học từ cấp tiểu học trở lên lần lợt đợc khai giảng. Đảng và Chính phủ
rất coi trọng khai giảng các trờng Đại học đã có mở thêm trờng Đại học mới. Ngày
10-10-1945 Hồ Chí Minh tịch ký Sắc lệnh số 45/S thành lập trờng Đại học Văn khoa
Hà Nội nhằm đào tạo giáo viên văn khoa trung học và để nâng cao nền văn học Việt
Nam cho xứng đáng một nớc độc lập và theo kịp các nớc tiên tiến trên thế giới.
Tháng lợi bớc đầu trong cuộc đấu tranh xây dựng nền móng chế độ mới, ổn
định và cải thiện đời sống nhân dân có ý nghĩa chính trị hết sức to lớn. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu rõ rằng, nếu nớc độc lập mà dân không hởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì
1
. Nhân dân đợc hởng quyền tự do dân chủ, dân
sinh càng thêm tin tởng, gắn bó và quyết tâm bảo vệ chế độ mới. Đó là sức mạnh để
bảo vệ chính quyền cách mạng, giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng, là sức mạnh để
chiến đấu và chiến thắng thù trong giặc ngoài.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, 2002, t.4, tr.56.
Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng tiến công
ra các tỉnh Nam Bộ, Thờng vụ Trung ơng Đảng đã nhất trí với quyết tâm kháng chiến

của Xứ ủy Nam Bộ và kịp thời lãnh đạo nhân dân đứng lên kháng chiến. Trung ơng
Đảng đã cử một phái đoàn do Hoàng Quốc Việt, ủy viên Thờng vụ Trung ơng Đảng
và nhiều cán bộ tăng cờng cho Nam Bộ để cùng Đảng bộ Nam Bộ chỉ đạo kháng
chiến. Đảng bộ Nam Bộ đã có những quyết định quan trọng, nắm chắc lực lợng vũ
trang, tăng cờng công tác trừ gian, xây dựng cơ sở, phát triển chiến tranh nhân dân.
Đảng đã phát động phong trào cả nớc hớng về Nam Bộ. Hàng vạn thanh niên
nô nức lên đờng Nam tiến. Nhân dân miền Nam thành đồng Tổ quốc chiến đấu với
sức mạnh của chiến tranh nhân dân, sức mạnh của cả dân tộc đã làm thất bại âm mu
đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp. Trong th gửi đồng bào Nam Bộ ngày 26-
9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta
có lực lợng đoàn kết của cả quốc dân. Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc tranh đấu
của chúng ta là chính đáng
1
.
3. Thực hiện sách lợc hòa hoãn, tranh thủ thời gian chuẩn bị toàn quốc
kháng chiến
Cùng với việc tăng cờng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng chế độ mới và tổ
chức kháng chiến ở miền Nam, Đảng ta đã thực hiện sách lợc lợi dụng mâu thuẫn
trong nội bộ kẻ thù để phân hóa chúng, tránh tình thế đơng đầu cùng một lúc với
nhiều kẻ thù.
Trên cơ sở phân tích âm mu thủ đoạn của các kẻ thù đối với cách mạng Việt
Nam, Đảng ta xác định: quân Tởng tìm mọi cách để tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt
Minh, lật đổ chính quyền cách mạng, song kẻ thù chính của nhân dân ta lúc này là
thực dân Pháp xâm lợc, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Vì vậy, Đảng và
Chính phủ ta đã thực hiện sách lợc hòa hoãn, nhân nhợng với quân đội Tởng và tay
sai của chúng ở miền Bắc để tập trung chống Pháp ở miền Nam.
Để gạt mũi nhọn tiến công của kẻ thù vào Đảng, ngày 11-11-1945, Đảng ta
tuyên bố tự giải tán, nhng sự thật là rút vào hoạt động bí mật, giữ vững vai trò lãnh
đạo chính quyền và nhân dân. Để phối hợp hoạt động bí mật với công khai, Đảng để
một bộ phận công khai dới danh hiệu Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dơng.

Chúng ta đã hết sức kiềm chế trớc những hành động khiêu khích của quân đội
Tởng và tay sai, tránh để xẩy ra xung đột về quân sự, đã ép cung cấp lơng thực, thực
phẩm cho 20 vạn quân Tởng trong khi nhận dân ta đang bị đói, mở rộng Quốc hội
thêm 70 ghế cho Việt quốc, Việt cách không qua bầu cử, đa một số đại diện của các
đảng đối lập này làm thành viên của Chính phủ liên hiệp do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đứng đầu.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mềm dẻo về thực hiện sách lợc nhận nhợng
trên nguyên tắc: nắm chắc vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững chính quyền cách
mạng, giữ vững mục tiêu độc lập thống nhất, dựa chắc vào khối đại đoàn kết dân tộc,
vạch trền những hành động phản dân hại nớc của bọn tay sai của Tởng và nghiêm trị
theo pháp luật những tên tay sai gây tội ác khi có đủ bằng chứng.
Những chủ trơng sách lợc và biện pháp trên đây đã vô hiệu hóa các hoạt động
phá hoại, đẩy lùi từng bớc và làm thất bại âm mu lật đổ chính quyền cách mạng của
chúng, bảo đảm cho nhân dân ta tập trung lực lợng kháng chiến chống thực dân Pháp
ở miền Nam. Chính quyền nhân dân không những đợc giữ vững mà còn đợc củng cố
về mọi mặt.
Đầu năm 1946, các nớc đế quốc dàn xếp, mua bán quyền lợi với nhau để cho
thực dân Pháp đa quân ra miền Bắc Việt Nam thay quân đội của Tởng. Ngày 28-2-
1946, Hiệp ớc Hoa - Pháp đợc ký kết ở Trùng Khánh. Theo đó, Pháp nhân nhợng một
số quyền lợi kinh tế cho chính quyền Tởng trên đất Trung Hoa để Pháp đợc đa quân ra
miền Bắc Việt Nam. Tởng nhân nhợng với Pháp để rút quân về nớc đối phó với Quân
giải phóng nhân dân Trung Quốc. Việc dàn xếp giữa hai kẻ thù Pháp và Tởng đợc
Đảng dự đoán sớm. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (ngày 25-11-1945) vạch rõ: Trớc
sau, Trung Khánh sẽ bằng lòng cho Đông Dơng trở về tay Pháp, miễn là Pháp nhợng
cho Tàu nhiều quyền lợi quan trọng
1
.
Tình hình đó đặt Đảng ta trớc một sự lựa chọn giải pháp đánh hay hòa. Phân
tích tình thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thờng vụ Trung ơng Đảng đã quyết định
chọn giải pháp hòa hoãn, dần xếp với Pháp, vì vấn đề lúc này, không phải là muốn

hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết ngời, nhận một cách khách quan
những điều kiện lời khai trong nớc và ngoài nớc mà chủ trơng cho đúng.
Chọn giải pháp thơng lợng với Pháp, Đảng ta nhằm mục đích: buộc quân Tởng
rút ngay về nớc, tránh tình trạng một lúc phải đối đầu với nhiều kẻ thù, bảo toàn thực
lực, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới, tiến lên
giành thắng lợi. Lập trờng của ta trong cuộc đàm phán với Pháp đợc Ban Thờng vụ
Trung ơng xác định là: độc lập nhng liên minh với Pháp. Pháp phải thừa nhận quyền
dân tộc tự quyết của ta: chính phủ, quân đội, nghi viện, tìa chính, ngoại giao và sự
thống nhất quốc gia của ta. Đảng ta đã nhấn mạnh, trong
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2000, t.8, tr.25.
khi mở cuộc đàm phán ta phải không những không ngừng một phút công việc sửa
soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn phải hết sức xúc tiến
việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh
thần quyết chiến của dân tộc ta.
Thực hiện chủ trơng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ta ký với
đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ 6-3-1946. Hiệp định quy định: Chính
phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do có nghị viện, chính phủ, quân
đội và tài chính riêng nằm trong liên bang Đông Dơng và trong Khối liên hiệp Pháp.
Việc thống nhất ba kỳ của nớc ta do nhân dân ta quyết định Việt Nam đồng ý cho
15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tởng, sau 5 năm phải rút hết về nớc;
hai bên đình chỉ xung đột ở miền Nam và mở cuộc đàm phán để đi đến ký hiệp định
chính thức.
Sau khi ký Hiệp định sơ bộ, Ban Thờng vụ Trung ơng Đảng ra Chỉ thị Hòa để
tiến (ngày 9-3-1946), nêu rõ ý nghĩa quan trọng của việc ký hiệp định với Pháp nhằm
thống nhất t tởng trong toàn Đảng, ngăn ngừa các khuynh hớng sai lầm tả và hữu
có thể xẩy ra trong đảng viên, cán bộ và nhân dân làm ảnh hởng đến việc chấp hành
chủ trơng của Đảng, đồng thời nhấn mạnh đến việc phải cảnh giác đề phòng, tỉnh táo
chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu nếu Pháp bội ớc.
Sự thật sau khi đã ký Hiệp định sơ bộ, thực dân Pháp cố tìm cách trì hoãn cuộc
đàm phán giữa Việt Nam và Pháp để đi đến ký Hiệp định chính thức và sớm vi phạm

Hiệp định. Đảng đã lãnh đạo Chính phủ đấu tranh buộc Pháp phải mở cuộc đàm phán
chính thức với ta ở Pháp.
Để chuẩn bị cho cuộc đàm phán đó, ngày 19-4-1946, một cuộc hội nghị trù bị
ở Đà Lạt, song do Pháp thiếu thiện chí nên hội nghị không đạt đợc sự thỏa thuận nào.
Với thiện chí và sự kiên trì đấu tranh của Chính phủ nớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, cuộc hội nghị chính thức giữa ta và Pháp đã họp ở phongtennơblô từ ngày
6-7-1946 đến ngày 10-9-1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh với t cách là thợng khách theo
lời mời của Chính phủ Pháp cũng đã đến Pari thăm Pháp trong thời gian này. Cuộc
đàm phán chính thức ở Phôngtennơblô cũng không thành do phía Pháp cố bám giữ
lập trờng thực dân và trong khi đang đàm phán đã ráo riết thực hiện âm mu mở rộng
lấn chiếm trên đất nớc ta.
Trong thời gian ở Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với các đảng phái
chính trị, các tổ chức quần chúng ở Pháp và đại diện nhiều tổ chức quốc tế. Ngời đã
nói rõ lập trờng hòa bình hữu nghị và nguyện vọng thiết tha độc lập tự do của nhân
dân và Chính phủ Việt Nam. Để tỏ rõ thiện chí và giành thêm thời gian hòa bình, trớc
khi rời nớc Pháp, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ớc (ngày
14-9-1946), thỏa thuận một số điều về quan hệ kinh tế, văn hóa giữa hai nớc, đình chỉ
xung đột ở miền Nam và sẽ tiếp tục đàm phán vào tháng 1-1947.
Thiện chí và những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn đàm
phán của Chính phủ ta tuy không đạt mục đích ký hiệp định chính thức, nhng đã đã
làm cho nhân dân Pháp hiểu và ủng hộ ta, làm cho d luận quốc tế chú ý đến Việt Nam
và tiểu nguyện vọng tha thiết hòa bình của dân tộc Việt Nam. Cũng nhờ đó, chúng ta
đã duy trì một khoảng thời gian hòa bình hiếm có để tiếp tục xây dựng và phát triển
lực lợng về mọi mặt.
Theo quy định của Hiệp ớc Hoa - Pháp, quân đội Tởng Giới Thạch phải rút
khởi miền Bắc Đông Dơng ngày 31-3-1946. Trên thực tế, ta phải đấu tranh kiên
quyết; đến cuối tháng 9-1946 chúng mới rút hết. Bọn Việt quốc, Việt cách hoặc tan rã
hoặc bỏ chạy ra nớc ngoài. Việc đa ra ánh sáng vụ Ôn Nh Hầu và làm thất hại âm mu
đảo chính của bọn phản cách mạng tay sai của Pháp tháng 7-1946 đánh dấu sự phá
sản của chúng.

Tranh thủ thời gian hòa hoãn, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tích cực đẩy mạnh
sản xuất, ổn định đời sống, tích trữ lơng thực, phát triển lực lợng vũ trang, xây dựng
các chiến khu, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, chính quyền nhân dân đợc củng
cố vững chắc hơn, Hiến pháp của nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đợc Quốc hội
thông qua; tích cực tuyên truyền trong nớc và quốc tế về cuộc đấu tranh chính nghĩa
của dân tộc ta. Qua lãnh đạo đấu tranh và xây dựng, Đảng đã lớn mạnh cả về số lợng
và chất lợng. Từ 5.000 đảng viên khi Đảng lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám, đến
tháng 12-1946, Đảng ta có trên 20.000 đảng viên. Nội bộ của Đảng đợc củng cố,
thống nhất, đội ngũ cán bộ của Đảng đợc đào tạo và phát triển. Cuộc kháng chiến của
quân và dân ta ở miền Nam có điều kiện phát triển thuận lợi hơn.
Đánh giá về chủ trơng đàm phán, nhân nhợng của Đảng và Nhà nớc ta lúc bấy
giờ, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ hai của Đảng tháng 2-1951, Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết: Việc này cũng làm cho nhiều ngời thắc mắc và cho đó là chính
sách quá hữu. Nhng các đồng chí và đồng bào Nam thì lại cho là đúng. Mà đúng thật.
Vì đồng bào và đồng chí ở Nam đã khéo lợi dụng dịp đó để xây dựng và phát triển lực
lợng của mình
Chúng ta cần hòa bình để xây dựng nớc nhà, cho nên chúng ta đã ép lòng mà
nhân nhợng để giữ hòa bình. Dù thực dân Pháp đã bội ớc, đã gây chiến tranh, nhng
gần một năm tạm hòa bình đã cho chúng ta thời giờ để xây dựng lực lợng căn bản.
Khi Pháp đã cố ý gây chiến tranh, chúng ta không thể nhịn nữa thì cuộc kháng
chiến toàn quốc bắt đầu
1
.
Đối với việc củng cố và phát triển lực lợng, quân và dân ta đã tách cực sẵn
sàng về quân sự và chính trị để đối phó với những bất trắc có thể xảy ra, vì bản chất
của thực dân Pháp không thể thay đổi. Phân tích âm mu và hành động vi phạm các
Hiệp định đã đợc ký kết của thực dân Pháp, Đảng đã thấy rõ: Nhất định không sớm
thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp. Đầu tháng 11-
1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những công việc khẩn cấp bấy giờ để chỉ đạo
toàn Đảng, toàn dân ta gấp rút thực hiện, nhằm đối phó với cuộc chiến tranh chớp

nhoáng của thực dân Pháp.
Lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chính quyền nhân dân, vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc (từ tháng 9-1945 đến tháng 12 - 1946), Đảng ta đã đa đất nớc vợt qua
những thử thách hiểm nghèo, củng cố và phát huy thành quả Cách mạng Tháng Tám,
chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Thực tiễn lịch sử của thời kỳ này đã đem lại cho Đảng ta nhiều kinh nghiệm
quý báu: về phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc; về lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong
nội bộ kẻ thù, chĩu mũi nhọn vào kẻ thù chính, về sự nhân nhợng có nguyên tắc; về
tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng lực lợng, củng cố chính quyền nhân dân,
sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nớc.
II. Lãnh đạo toàn quốc kháng chiến (1946 - 1950)
1. Phát động toàn quốc kháng chiến và đờng lối kháng chiến của Đảng
Đảng và Chính phủ nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tỏ rõ thiện chí, cố
gắng làm những việc có thể để đẩy lùi chiến tranh, nhng với dã tâm cớp nớc ta một
lần nữa, thực dân Pháp thi hành chính sách việc đã rồi, tăng cờng khiêu khích và lấn
chiếm. Ngày 20-11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng thành phố Hải
Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Ngày 16-12-1946, những tên trùm
thực dân Pháp ở Đông Dơng đã họp tại Hải Phòng bàn triển khai kế hoạch đánh
chiếm Hà Nội và khu vực Bắc vĩ tuyến 16. Ngày 17 và 18-12-1946 tại Hà Nội, quân
Pháp tàn sát thảm khốc đồng bào ta ở các phố Yên Ninh, Hàng Bún. Chúng ngang
ngợc đòi tớc vũ khí của tự vệ Hà Nội, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô. Hành
động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trớc một tình thế không thể
nhân nhợng thêm với chúng đợc nữa, vì tiếp tục nhân nhợng sẽ dẫn đến họa mất nớc,
nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, 2002, t.6, tr.162.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trớc một sự lựa chọn mới. Thực tế cho thấy khả năng
hòa hoãn không còn. Địch đã công khai tuyên bố chúng sẽ hành động sáng ngày 20-
12 nếu Chính phủ ta khớc từ những điểm nêu trong tối hậu th của chúng. Trong thời
điểm lịch sử đó, Trung ơng Đảng đã kịp thời hạ quyết tâm phát động toàn dân kháng
chiến và chủ động mở cuộc tổng giao chiến lịch sử trớc khi thực dân Pháp thực hiện

màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội vào ngày 20-12-1946 nh chúng đã nêu lên
trong tối hậu th gửi cho Chính phủ ta trong những ngày 18,19. Mệnh lệnh đã đợc phát
đi. Vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, tất cả các chiến trờng trong cả nớc đồng loạt nổ
súng.
Ngay trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến, Ban Thờng vụ Trung ơng
Đảng ra bản Chỉ thị Toàn dân kháng chiến đã nêu rõ: Mục đích của kháng chiến là
đánh phản động thực dân Pháp xâm lợc; giành thống nhất và độc lập ; tính chất:
Trờng kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến ; các chính sách của cuộc kháng chiến
là đoàn kết toàn dân, xây dựng thực lực về mọi mặt, đoàn kết quốc tế (cả với nhân
dân Pháp) để chống bọn thực dân Pháp phản động. Bản Chỉ thị còn dự đoán về các
giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến, về chơng trình kháng chiến, về cơ quan
lãnh đạo kháng chiến, về tuyên truyền trong kháng chiến ..
Từ tháng 3-1947, qua thực tiễn những ngày đầu của cuộc chiến đấu, Trờng
Chinh, Tổng Bí th của Đảng đã viết một loạt bài đăng trên báo Sự thật để làm sáng tỏ
thêm đờng lối kháng chiến của Đảng. Những bài viết này đợc xuất bản thành tác
phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi .
Tác phẩm của Trờng Chinh đã xác định rõ:
Mục tiêu của cuộc kháng chiến: Dân tộc ta kháng chiến đánh bọn thực dân
phản động Pháp xâm lợc nhằm giành độc lập và thống nhất.
Tính chất của cuộc kháng chiến: Kế tục sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám,
cuộc kháng chiến này hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mở rộng và củng cố
chế độ cộng hòa dân chủ Việt Nam phát triển trên nền tảng dân chủ mới. Cho nên
cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
Về mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, Trờng Chinh khẳng định
Cuộc kháng chiến này chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nớc, củng cố và
mở rộng chế độ cộng hòa dân chủ. Nó không tịch thu ruộng đất của địa chủ phong
kiến chia cho dân cày, chủ tịch thu ruộng đất và các hạng tài sản khác của Việt gian
phản quốc để bổ sung ngân quỹ kháng chiến hay ủng hộ gia đình các chiến sỹ hy
sinh
1

.
1. Trờng Chinh: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb. Sự Thật. H.1947, tr.30-31.
Cuộc kháng chiến của chúng ta là một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân,
toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc là nội dung cơ bản của đờng lối
quân sự của Đảng. Đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí, động viên
nhân lực, vật lực, tài lực của cả nớc cho chiến đấu và để chiến thắng.
Chiến tranh là một cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến, đồng thời
để phát huy mặt mạnh của cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc ta, nên chúng ta
phải đánh địch trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, trong đó quân

×