Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

HỒ CHÍMINH VẬNDỤNG PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG TRONG LÃNH ĐẠO CUỘC ĐẤUT RANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ Ở VIỆTNAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.6 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA MÁC – LÊNIN
NGUYỄN THỊ KIM HỒNG
LỚP DH5CT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
HỒ CHÍ MINH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG
TRONG LÃNH ĐẠO CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ Ở VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn
Ts. VÕ VĂN THẮNG
An Giang, tháng 5/2008
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................Trang 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................... 3
5. Đóng góp của khóa luận.................................................................... 4
6. Kết cấu khóa luận.............................................................................. 4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG VÀ MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
CỦA PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG
1.1. Phương pháp và phương pháp biện chứng
1.1.1. Phương pháp và phân loại phương pháp......................................5
1.1.2. Phương pháp biện chứng và vai trò của phương pháp biện
chứng
1.1.2.1. Phương pháp biện chứng................................................7
1.1.2.2. Lịch sử phương pháp biện chứng...................................9


1.1.2.3. Vai trò của phương pháp biện chứng........................... 10
1.2. Một số nguyên tắc cơ bản của phương pháp biện chứng
1.2.1. Nguyên tắc phản ánh.................................................................. 14
1.2.2. Nguyên tắc năng động................................................................16
1.2.3. Nguyên tắc toàn diện..................................................................17
1.2.4. Nguyên tắc lịch sử......................................................................19
1.2.5. Nguyên tắc mâu thuẫn................................................................20
1.2.6. Nguyên tắc phủ định biện chứng................................................21
CHƯƠNG 2
HỒ CHÍ MINH VẬN DỤNG SÁNG TẠO
PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG TRONG LÃNH ĐẠO
CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ
Ở VIỆT NAM
2.1. Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo phương pháp biện chứng trong lãnh đạo
cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam.................. 23
2.1.1. Xuất phát từ thực tế Việt Nam mà đề ra phương pháp, cách làm thích
hợp...................................................................................................................27
2.1.2. Có quan điểm toàn diện trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề
của cách mạng
2.1.2.1. Đánh giá kẻ thù từ nhiều mặt để tìm ra bản chất của chúng.. .32
2.1.2.2. Huy động sức mạnh toàn dân tộc, đánh địch với mọi qui mô,
mọi cách thức, mọi phương tiện......................................................................34
2.1.2.3. Tranh thủ tất cả yếu tố nhằm đảm bảo cách mạng thắng lợi37
2.1.2.4. Có cách nhìn biện chứng giữa thời, thế và lực trong một cuộc
cách mạng.................................................................................................. 40
2.1.3. Linh hoạt, mềm dẻo ứng phó kịp thời với từng hoàn cảnh lịch sử
cụ thể
2.1.3.1. Dĩ bất biến, ứng vạn biến........................................................ 43
2.1.3.2. Linh hoạt, mềm dẻo sử dụng sách lược tác chiến phù hợp..... 44
2.1.4. Phân tích và giải quyết đúng mâu thuẫn của ta và mâu thuẫn của

địch, đưa cách mạng tiến lên........................................................................... 46
2.1.5. Xem xét vấn đề của cách mạng trong sự vận động, phát triển không
ngừng...............................................................................................................48
2.2. Giá trị của phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng trong giai
đoạn hiện nay...................................................................................................50
KẾT LUẬN.................................................................................................... 58
Khóa luận tốt nghiệp ngành GDCT Nguyễn Thị Kim Hồng
NHD: Ts. Võ Văn Thắng
Tôi chỉ có một ham muốn, ham
muốn đến tột bậc là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành.
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam tự hào đã sản sinh ra Hồ Chí Minh, một danh nhân
văn hóa thế giới, một anh hùng giải phóng dân tộc, một vị lãnh tụ vĩ đại của
cách mạng Việt Nam, Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh, người đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao
sóng gió thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là kết quả
của quá trình kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn
cảnh xã hội Việt Nam. Ở góc độ triết học, Người đã tiếp thu chủ nghĩa duy vật
biện chứng đặc biệt là phương pháp biện chứng; lấy nó làm nền tảng tư duy và
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của mình. Điều đó được biểu hiện đặc sắc trong
quá trình Người lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
ở nước ta.
Như chúng ta đã biết, tư tưởng của Hồ Chí Minh rất phong phú và rất
sâu sắc trên nhiều lĩnh vực, nhưng trong lĩnh vực đấu tranh cách mạng thể hiện

đầy đủ nhất, độc đáo nhất là sự vận dụng sáng tạo phương pháp biện chứng
mác-xít, nó được thể hiện đầy đủ bản lĩnh và nghệ thuật của một nhà tư tưởng,
nhà quân sự lỗi lạc. Với Hồ Chí Minh, độc lập, tự do là giá trị cao quý nhất mà
Người mong muốn đạt được và là khao khát cháy bỏng suốt cuộc đời của
Người. Chính khát khao đó là động lực thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu
nước với hành trình ngót 30 năm gian khổ ở nước ngoài và gần 30 năm trực
tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn,
ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, đồng bào ta
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [12;42].
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới đang diễn ra hết sức phức
tạp. Việt Nam không nằm ngoài bối cảnh chung đó. Thực tiễn này đòi hỏi mỗi
chúng ta, nhất là những nhà lãnh đạo phải thực sự bình tĩnh, bản lĩnh và có
phương pháp tư duy biện chứng đúng đắn để lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đưa
đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và phát triển đúng hướng là
vấn đề có ý nghĩa quan trọng.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đề ra một trong những phương hướng cơ bản là “Tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 1
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội” [11;71]. Trong Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta cũng đã xác định: “kiên định chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của
Đảng”[24;49]. Qua đó, chúng ta thấy rằng, Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh chiếm vị trí hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất
nước hiện nay.
Là sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị, tôi nhận thấy nhiệm vụ kế

thừa và phát huy những chân giá trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh là rất cần
thiết. Để làm được điều đó, tôi muốn góp phần vào việc nghiên cứu một mảng
nhỏ trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh với hy vọng góp phần làm sáng tỏ
và khẳng định giá trị trong việc vận dụng phương pháp của Người, đó là vấn
đề vận dụng phương pháp biện chứng trong việc lãnh đạo cuộc đấu tranh
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở nước ta. Đó là lý do để tác giả chọn vấn
đề này để nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Nghiên cứu việc vận dụng phương pháp biện chứng trong việc lãnh đạo
cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam của Hồ Chí
Minh.
Khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học của Hồ
Chí Minh về lĩnh vực phương pháp không những trong đấu tranh cách mạng
thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ mà còn có ý nghĩa to lớn trong
giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Về mặt lý luận, luận văn nghiên cứu phương pháp biện chứng và vai trò
của nó trong đời sống, những nguyên tắc cơ bản khi vận dụng phương pháp
biện chứng.
Về thực tiễn, luận văn nghiên cứu việc vận dụng sáng tạo phương pháp
biện chứng của Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng thời,
khẳng định giá trị của nó trong giai đoạn hiện nay.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 2
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đề tài tập trung nghiên cứu việc vận dụng phương pháp biện chứng
trong lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của Hồ Chí

Minh.
Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu những giá trị hiện thực của phương
pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh từng vận dụng đối với cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc vận dụng phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn là rất phong phú. Trong khuôn khổ của một khóa
luận tốt nghiệp đại học, tôi nghiên cứu việc vận dụng phương pháp biện chứng
của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực đấu tranh cách mạng, trong quá trình Người
lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài việc sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tác giả còn sử dụng các phương pháp:
* Phương pháp sưu tầm tư liệu: Tác giả đã tập hợp và chọn lọc
những thông tin cần thiết, đáng tin cậy từ những tài liệu sưu tầm được để xử lý
làm đối tượng nghiên cứu.
* Phương pháp phân tích - tổng hợp: Để làm nổi bật vấn đề nghiên
cứu, tác giả đã phân tích sự quán triệt từng nguyên tắc cơ bản của phương
pháp biện chứng ở Hồ Chí Minh, từ đó khái quát lên và chỉ ra nét độc đáo
trong quá trình Hồ Chí Minh vận dụng phương pháp biện chứng để lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
* Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong quá trình tìm hiểu về việc
vận dụng phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh, tác giả đã có sự so sánh,
đối chiếu với phương pháp biện chứng của triết học mác-xít để thấy sự sáng
tạo, độc đáo của Hồ Chí Minh khi vận dụng chúng.
* Phương pháp lôgic - lịch sử: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã
sử dụng những sự kiện lịch sử theo sự phân bố thời gian từ quá khứ đến hiện
tại để làm nổi bật sự sáng tạo trong việc vận dụng phương pháp biện chứng
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 3
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim

Hồng
của Hồ Chí Minh. Qua đó, tác giả tìm ra những giá trị của nó đối với cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Đóng góp của khóa luận
Thứ nhất, qua nghiên cứu việc vận dụng sáng tạo phương pháp biện
chứng mác-xít của Hồ Chí Minh trong đấu tranh chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ ở Việt Nam, khóa luận góp phần khẳng định vai trò của triết học
mác-xít đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội.
Thứ hai, luận văn khẳng định và góp phần làm phong phú những giá
trị khoa học trong tư tưởng Hồ chí Minh ở góc độ triết học mà đặc biệt là
trong lĩnh vực phương pháp.
Thứ ba, luận văn chỉ ra những giá trị của phương pháp biện chứng
mà Hồ Chí Minh vận dụng đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, từ đó khẳng định vai trò của công cụ tư duy lý luận đối với công tác lãnh
đạo của Đảng, công tác quản lý của Nhà nước, nhằm thực hiện thắng lợi mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
6. Kết cấu khóa luận
Phần mở đầu.
Phần nội dung.
Chương 1: Phương pháp biện chứng và một số nguyên tắc cơ bản khi
vận dụng phương pháp biện chứng.
Chương 2: Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo phương pháp biện chứng
trong lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt
Nam
Phần kết luận.

NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 4
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG VÀ MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
CỦA PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG
1.1. Phương pháp và phương pháp biện chứng
1.1.1 Phương pháp và phân loại phương pháp
Từ trước đến nay đã có nhiều định nghĩa về phương pháp. Nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng, phương pháp là sản phẩm thuần túy của tư duy, xuất
phát hoàn toàn từ ý muốn chủ quan của con người, chỉ những gì thuộc về nhận
thức và cải tạo thế giới khách quan.
Nhà bác học nổi tiếng T.Páp-lốp cho rằng: “Phương pháp khoa học là
những quy luật bản chất nội tại của vận động nhận thức khoa học được sử
dụng một cách có ý thức để đạt đến những thành tựu chân lý đúng đắn hơn,
nhanh chóng hơn, đầy đủ hơn” [Dẫn theo13;20].
Trong Từ điển Triết học, “Theo nghĩa chung nhất, phương pháp là cách
thức đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất định.
Theo nghĩa triết học chuyên môn, với tính cách là phương tiện nhận thức,
phương pháp là cách thức tái hiện lại đối tượng nghiên cứu trong tư duy”
[23;458].
Theo tôi, phương pháp là toàn bộ những cách thức với tính chất là một hệ
thống các nguyên tắc xuất phát từ các quy luật tồn tại và vận động của khách
thể đã được nhận thức để định hướng và điều chỉnh hoạt động nhận thức cũng
như hoạt động thực tiễn của con người nhằm tác động vào khách thể để thực
hiện mục đích đã định.
Như vậy, phương pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của
con người, nó là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất bại
trong hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm quan niệm khác nhau về nguồn
gốc và bản chất của phương pháp. Chủ nghĩa duy tâm coi phương pháp là
những nguyên tắc do lý trí con người tự ý đặt ra để tiện cho nhận thức và hành

động, xem nó như là một phạm trù thuần túy. Còn chủ nghĩa duy vật khẳng
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 5
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
định phương pháp hình thành không phải chủ quan, tùy tiện, không có sẵn và
bất biến mà nó phụ thuộc vào đối tượng nghiên cứu và mục đích đặt ra. Để
tiếp cận đối tượng và giải quyết nhiệm vụ đặt ra, chủ thể cần nghiên cứu đối
tượng và mục đích cần đạt tới một cách khách quan. Từ đó, chủ thể xác định
phải nghiên cứu và hành động như thế nào, cần phải sử dụng phương tiện,
công cụ và biện pháp nào cho thích hợp cũng như cần phải kết hợp các yếu tố
theo một trình tự như thế nào cho hợp lý. Do vậy, phương pháp bắt nguồn từ
thực tiễn, phản ánh những quy luật khách quan của đối tượng nghiên cứu.
Do đối tượng nghiên cứu rất phong phú, đa dạng nên các phương pháp
cũng phong phú, đa dạng. Tùy theo tiêu chí khác nhau mà phương pháp được
chia thành các loại khác nhau.
Nếu dựa vào mức độ phổ biến và phạm vi ứng dụng thì phương pháp
được chia ra thành phương pháp riêng, phương pháp chung và phương pháp
phổ biến. Phương pháp riêng chỉ áp dụng cho từng bộ môn khoa học cụ thể
như phương pháp sinh học, phương pháp hóa học, phương pháp vật lí học.
Phương pháp chung là phương pháp áp dụng cho một số bộ môn khoa học như
phương pháp quan sát, phương pháp mô hình hóa, phương pháp hệ thống cấu
trúc. Phương pháp phổ biến là phương pháp áp dụng chung cho tất cả các bộ
môn, đó là phương pháp của triết học Mác-Lênin hay phương pháp biện chứng
duy vật.
Nếu dựa vào mục đích, chức năng thì có thể chia phương pháp thành
phương pháp hoạt động thực tiễn và phương pháp nhận thức. Phương pháp
hoạt động thực tiễn là phương pháp sử dụng các phương tiện vật chất để tác
động trực tiếp vào đối tượng nhằm biến đổi các đối tượng đó theo những nhu
cầu của con người như phương pháp sản xuất, phương pháp thực nghiệm,
phương pháp đấu tranh cách mạng. Phương pháp nhận thức là phương pháp sử

dụng các giác quan và tư duy để nắm bắt bản chất của sự vận động và phát
triển của đối tượng như phương pháp quan sát, phương pháp phân tích - tổng
hợp, phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể,...
Tuy nhiên, việc phân chia này chỉ mang tính chất tương đối. Mỗi phương
pháp có vị trí, vai trò khác nhau, vì vậy không nên cường điệu phương pháp
này mà hạ thấp phương pháp kia, phải biết vận dụng tổng hợp nhiều phương
pháp.
Các phương pháp tuy khác nhau về nội dung, mức độ phổ biến, phạm vi
ứng dụng, song không tách rời nhau mà có liên hệ biện chứng với nhau. Quan
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 6
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
hệ giữa phương pháp biện chứng và phương pháp của khoa học cụ thể là quan
hệ giữa cái chung và cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta không chỉ
nắm vững phương pháp riêng về lĩnh vực chuyên môn của mình mà còn phải
nắm vững phương pháp phổ biến của triết học Mác-Lênin, phương pháp biện
chứng duy vật. Đây là phương pháp luận phổ biến khoa học, định hướng đúng
đắn trong công tác nghiên cứu và hoạt động thực tiễn, giúp chúng ta đạt đến
chân lý khách quan và đạt hiệu quả cao trong công việc.
1.1.2. Phương pháp biện chứng và vai trò của phương pháp biện
chứng
1.1.2.1. Phương pháp biện chứng
Theo Ăngghen, phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức đối
tượng trong các mối liên hệ, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau; nhận thức đối
tượng ở trạng thái vận động, biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát
triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà nguồn
gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu
thuẫn nội tại của chúng.
Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt.
Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc

là...hoặc là...” còn có cả cái “vừa là...vừa là...”; nó thừa nhận một chỉnh thể
trong lúc vừa là nó lại vừa không phải nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ
định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó nhau. Phương pháp biện chứng phản ánh
hiện thực đúng như nó tồn tại và phương pháp này hoàn toàn đối lập với
phương pháp siêu hình.
Phương pháp siêu hình hình thành trong thế kỷ XVII, XVIII, bị ảnh
hưởng bởi trình độ phát triển của khoa học tự nhiên trong giai đoạn sưu tập,
mô tả. Nó xem xét sự vật một cách cô lập, tách tời, cứng đờ, tĩnh tại, không
thấy sự liên hệ và sự vận động, phát triển của chúng, thiếu quan điểm lịch sử-
cụ thể; không thấy mâu thuẫn bên trong của sự vật; không thấy quá trình
chuyển hóa từ chất này sang chất mới,...đúng như Ăngghen đã viết: “Phương
pháp tư duy siêu hình chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ
giữa những sự vật ấy, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà không thấy trạng
thái động của sự vật, chỉ thấy cây mà không thấy rừng.” [9;19]. Sự phát triển
của khoa học hiện đại đã bộc lộ tính hạn chế của phương pháp siêu hình. Do
vậy, nó phải bị phủ định bởi phương pháp khoa học hơn, đó là phương pháp
biện chứng của triết học mác-xít.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 7
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
Yếu tố cơ bản trước tiên của phương pháp biện chứng là “tính khách
quan của sự xem xét”. Nghĩa là, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải xuất
phát từ thực tế khách quan, tránh thiên kiến chủ quan, phải phản ánh trung
thành những quá trình, những quy luật tồn tại hiện thực.
Phương pháp biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự vật một cách toàn
diện, phải tính đến mối liên hệ phổ biến và sự ràng buộc lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng, phải vạch ra “toàn bộ những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy
với sự vật khác”. Quan điểm toàn diện đối lập với thuật ngụy biện và chủ
nghĩa chiết trung của các học giả tư sản và bọn xét lại.
Phương pháp biện chứng còn yêu cầu xem xét sự vật trong sự vận động

và phát triển của nó, vạch ra những mâu thuẫn bên trong của sự vật ấy, tức là
tìm ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Ở đây, muốn nhận thức sự phát
triển của sự vật, hiện tượng phải vận dụng tất cả các quy luật, các cặp phạm
trù cơ bản của phép biện chứng với tư cách là những quy luật của nhận thức,
những phương pháp nhận thức.
Phương pháp biện chứng còn đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử - cụ thể,
phải gắn với thực tiễn. Tính lịch sử - cụ thể trong việc nghiên cứu sự vật, hiện
tượng là một nguyên tắc cơ bản của phương pháp biện chứng, như V.I.Lênin
đã viết: “ Bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là: “phân tích một tình
hình cụ thể rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách
quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm lịch sử cụ thể” [9;314]. Như
vậy, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng, chúng ta phải quán
triệt những nguyên tắc cơ bản của phương pháp biện chứng mà chủ yếu là các
quan điểm khách quan, toàn diện, phát triển, thực tiễn và lịch sử - cụ thể. Khi
phân tích bất kỳ vấn đề gì, tư duy phải mềm dẻo, năng động, linh hoạt, không
cứng nhắc, một chiều; có như thế chúng ta mới phản ánh đời sống một cách
đúng đắn, sinh động; phải tuyệt đối chống lối suy nghĩ máy móc, phiến diện,
có tính hình thức chủ nghĩa, chỉ dừng lại ở kết cấu hình thức của tư tưởng mà
không đi sâu phân tích mâu thuẫn của sự vật, hoàn cảnh cụ thể của sự vật.
Tóm lại, phương pháp biện chứng với những đặc tính ưu việt của nó đã
trở thành phương pháp duy nhất khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 8
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
1.1.2.2. Lịch sử phương pháp biện chứng
Chính nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới, ngay từ thời cổ đại, con
người đã bước đầu hình thành cho mình một phương pháp để thực hiện mục
đích đó. Nhưng do các triết gia lúc bấy giờ bị hạn chế bởi tư tưởng biện chứng
duy tâm và biện chứng tư biện mà phương pháp biện chứng của họ còn mang
tính chất thô sơ. Chẳng hạn, Platon coi phương pháp biện chứng là phương

pháp tốt nhất để thực hiện sự hồi tưởng, sự nhớ lại những “ý niệm”. Thực chất
của phương pháp này, theo Platon là khả năng đưa ra những câu hỏi và những
câu trả lời thích hợp để giải thích những vấn đề triết học, để đạt tới những tri
thức chân thực, những khái niệm chung. Những khái niệm này phản ánh đúng
đắn những ý niệm và được Platon coi là vĩnh viễn, bất biến. Phương pháp này
là phân đôi các khái niệm, những ý kiến thành các khái niệm, ý kiến đối lập
nhau. Ở đây, Platon đã xây dựng phương pháp nhận thức khái niệm một cách
biện chứng - phương pháp đối chiếu các khái niệm đối lập. Mặt khác, một số
triết gia xem phương pháp biện chứng chẳng qua chỉ là hình thức đối thoại
trực tiếp hay được thể hiện dưới hình thức các câu cách ngôn chất phát chứ
chưa thật sự vạch ra một phương pháp khoa học cho nhận thức và hành động.
Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử tư duy nhân loại, những nội dung
quan trọng của phương pháp biện chứng được trình bày một cách có hệ thống
bởi các nhà triết học Đức mà người khởi đầu là I.Cantơ và người hoàn thiện là
F.Hêghen.
Đối với F.Hêghen, phương pháp biện chứng được hiểu là con đường mà
tư duy phải trải qua khi muốn quy tri thức về thế giới như cái trọn vẹn tới sự
thống nhất trực quan của trí tuệ. Do đó, có được nhận thức như vậy về thế giới
và vị thế của chúng ta trong đó mà người ta sống một cách biết suy tư, biết
làm cho cuộc sống phù hợp với những ý nghĩa nội tại của chính thế giới.
Phương pháp biện chứng của Ông là phương pháp suy ngẫm triết học về thế
giới chứ không chỉ là nhận thức khoa học. Kết quả của phương pháp đó là trực
quan thế giới, là hình ảnh suy tư về thế giới chứ không giản đơn là bức tranh
thế giới có thể thu được, tổng hợp được từ các kết quả của khoa học cụ thể.
Trong lô-gich học-học thuyết về các phạm trù, F.Hêghen phân biệt tồn tại với
tư cách là cái hiện diện, là cái thực tại và tồn tại thực tế. Ông cho rằng, không
phải mọi cái tồn tại hiện diện đều là tồn tại của cái thực tại và không phải mọi
cái thực tại đều là thực tế. Thực tại chỉ là những đối tượng mà ở chúng sự tồn
tại trùng hợp với bản chất và đối tượng, đó là tự do tức là sự biểu hiện cần
thiết của đời sống khái niệm, đó là cơ sở đích thực và bản chất của mọi thực

NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 9
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
tại đang tồn tại trên thực tế. Cái thực tế với tư cách là khái niệm thể hiện hợp
lý. Vì vậy, sống một cách hợp lý cũng có nghĩa là sống có định hướng tới cái
thực tế trong cái hiện diện. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng triết học cổ điển Đức
nói chung và triết học F.Hêghen nói riêng đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó
là tiền đề cho các nhà kinh điển mác-xít kế thừa một cách có chọn lọc để xây
dựng nên phương pháp khoa học của mình.
Những năm 40 của thế kỷ XIX, Các-Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, về sau được
V.I.Lênin phát triển. Riêng chủ nghĩa duy vật biện chứng, Mác và Ăngghen đã
kế thừa phép biện chứng của F.Hêghen, lột bỏ cái “vỏ thần bí” của nó để xây
dựng nên lý luận mới của phép biện chứng - phép biện chứng duy vật. Nó là
sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng. Với tính
cách là những bộ phận hợp thành hệ thống lý luận của triết học Mác, chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng đều có sự biến đổi về chất so với nguồn gốc
của chúng. Mác đã cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ, cả phép biện chứng của
F.Hêghen để xây dựng nên triết học duy vật biện chứng. Từ đó, Ông đã xây
dựng nên phương pháp biện chứng khoa học hoàn toàn đối lập với phương
pháp biện chứng của F.Hêghen. Mác viết: “Phương pháp biện chứng của tôi
chẳng những khác về căn bản với phương pháp biện chứng của F.Hêghen mà
còn đối lập hẳn với phương pháp đó. Đối với F.Hêghen, quá trình tư duy mà
Ông đã đặt cho cái tên là ý niệm, là đấng sáng tạo ra hiện thực còn hiện thực
chỉ là biểu hiện bề ngoài của ý niệm mà thôi. Đối với tôi thì trái lại, sự vận
động của tư duy chỉ là phản ánh của sự vận động hiện thực, di chuyển và biến
hình vào trong đầu óc con người” [Dẫn theo 3;4].
1.1.2.3. Vai trò của phương pháp biện chứng
Trước hết, như chúng ta đã biết, phương pháp là con đường nhận thức
khách quan có hiệu quả nhất trong lịch sử; thiếu phương pháp con người sẽ rơi

vào tình trạng “mò mẫm”. Thiếu phương pháp, con người sẽ nhận thức sự vật
hiện tượng một cách rời rạc, tản mạn, nó giống như việc làm của những con
kiến (theo cách so sánh của nhà triết học Anh Ph.Bêcơn), tri thức thu được
như là sự góp nhặt một đống tư liệu để xây thành tổ kiến, chứ không phải như
con ong. Ph.Bêcơn xem phương pháp là ngọn đèn soi đường cho người lữ
hành đi trong đêm tối. Còn trong đấu tranh cách mạng, đồng chí Lê Duẩn có
nói: “Phong trào cách mạng có khi dậm chân tại chỗ thậm chí thất bại nữa,
không phải vì thiếu một phương hướng và mục tiêu rõ ràng mà chủ yếu vì
thiếu một phương pháp cách mạng phù hợp”[4;41]. Vì vậy, khi làm bất cứ
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 10
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
chuyện gì, dù nhỏ hay lớn cũng phải vạch ra những phương pháp thích hợp,
đồng thời phải biết vận dụng nhiều phương pháp khác nhau thì công việc mới
đạt hiệu quả cao.
Trong lịch sử, có rất nhiều loại phương pháp: Phương pháp chung,
phương pháp riêng nhưng phương pháp phổ biến nhất là phương pháp của triết
học Mác-Lênin - phương pháp biện chứng. Để nhận thức sâu sắc và đúng đắn
một sự vật, hiện tượng, một quá trình nào đó trong tự nhiên hay xã hội, chúng
ta phải xuất phát từ thực tế khách quan đồng thời phải so sánh, phân tích, tổng
hợp, khái quát lên thành lý luận. Điều đó đòi hỏi phải có tư duy đúng đắn
không thể nào khác là tư duy lô-gich biện chứng, là phương pháp nhận thức
của triết học Mác-Lênin - phương pháp biện chứng.
Với tư cách là phương pháp nhận thức khoa học được rút ra từ phép
biện chứng duy vật, phương pháp biện chứng là cơ sở chỉ đạo chủ thể xác định
phương pháp cách mạng và khoa học, là công cụ sắc bén cho nhận thức và
hành động như Mác đánh giá “Nó là thứ công cụ lao động tốt nhất của chúng
tôi và là một thứ vũ khí sắc bén nhất của chúng tôi” [22;238]. Do đó, đối với
mọi người cách mạng, phương pháp biện chứng là công cụ quan trọng bậc
nhất không thể thiếu được của nhận thức và hành động để cải tạo hoàn cảnh và

cải tạo bản thân. Điều quan trọng là chủ thể phải quán triệt các nguyên tắc cơ
bản của phương pháp biện chứng, nếu xa rời các nguyên tắc đó chủ thể sẽ phải
trả giá.
Cách mạng là quá trình xóa bỏ cái cũ lỗi thời, xác lập cái mới tiến bộ
hơn nên cách mạng không phải là quá trình dễ dàng, thẳng tắp, trơn tru mà là
một quá trình khó khăn, phức tạp, quanh co, thậm chí có sự thụt lùi tạm thời
nhưng cuối cùng cái mới tiến bộ hơn. Điều quan trọng là chủ thể phải xác định
phương pháp cách mạng phù hợp để thúc đẩy cái mới ra đời; phương pháp
cách mạng nhất thiết phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc của phương pháp
biện chứng - một phương pháp chung nhất, phổ biến nhất, khoa học nhất.
Xta-lin viết: “Đối với phương pháp biện chứng, điều quan trọng trước hết
không phải là cái mà trong một lúc nào đó có vẻ vững chắc nhưng đã bắt đầu
tiêu tan; điều quan trọng trước hết là cái đang phát sinh và phát triển, ngay cả
nếu trong một lúc nào đó cái ấy có vẻ không vững chắc thì đối với phương
pháp biện chứng những cái đang phát sinh, đang phát triển là cái không có gì
thắng nổi” [3;78].
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 11
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
Các-Mác là người đầu tiên vận dụng tài tình phương pháp biện chứng để
phân tích mọi vấn đề, xây dựng một học thuyết khoa học, hoàn chỉnh làm lý
luận soi đường cho giai cấp vô sản thế giới đứng lên đấu tranh cách mạng để
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tiếp thu tư tưởng của Mác, V.I.Lênin đã giành
nhiều thời gian để tự nghiên cứu phép biện chứng và điều đó được thể hiện
trong “Bút kí triết học”. Trong “Bút kí triết học”, V.I.Lênin đã ghi chép tỉ mỉ
và Người đã tìm thấy “cái nhân hợp lý” rút ra từ những nguyên lý phong phú
của phép biện chứng cũng như những nguyên tắc cơ bản của phương pháp
biện chứng. V.I.Lênin viết: “Tổng cộng và tóm tắt, tiếng nói cuối cùng và bản
chất của lô-gich của F.Hêghen , đó là phương pháp biện chứng - cái này thật là
tuyệt diệu”[3;75].

V.I.Lênin nghiên cứu phương pháp biện chứng một cách sâu sắc, nắm
vững nó, dùng nó làm công cụ để phân tích vấn đề đương thời và thực tiễn xã
hội vô cùng phức tạp. Nhờ có phương pháp khoa học mà V.I.Lênin đã viết
những tác phẩm nổi tiếng như: “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở nước
Nga”, “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư
bản”...V.I.Lênin đã sử dụng phương pháp biện chứng một cách điêu luyện để
phân tích tình hình, đề ra đường lối chiến lược, sách lược tài tình đưa đến
thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Mười và đẩy mạnh phong trào cách
mạng trên thế giới.
Trong khoa học tự nhiên, nếu không có phương pháp biện chứng duy
vật thì những nhà khoa học nhất định không thể trả lời đúng đắn những vấn đề
mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang đặt ra. Trong khoa học xã hội
cũng vậy, nếu không có phương pháp biện chứng con người sẽ không thể có
cách nhìn nhận đúng đắn về bản chất của sự vật, hiện tượng, từ đó không thể
có những định hướng đúng cho những cách thức để cải tạo hiện thực khách
quan một cách hiệu quả, con người sẽ rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí và
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Bệnh chủ quan duy ý chí là thể hiện về sự hạn
chế của chủ thể nhận thức ở một mức độ nào đó không thể có được tư duy
biện chứng do ý thức sai lầm về vai trò của lý luận, hạn chế về trình độ lý luận
dẫn đến lúng túng về biện pháp khắc phục, sửa chữa nên sai lầm càng nghiêm
trọng. Còn bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là do sai lầm trong phương pháp tư
duy cũng như trong cải tạo hiện thực, tuyệt đối hóa kinh nghiệm nên trong
hoạt động thực tiễn họ rơi vào tình trạng mò mẫm, sự vụ, tùy tiện, tự ty, không
nhất quán trong các chính sách của Nhà nước làm ảnh hưởng đến tiến trình
phát triển kinh tế - xã hội và bản thân người bị mắc căn bệnh này cũng trở nên
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 12
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
bảo thủ, lạc hậu, trì trệ bởi phương pháp hành động cũ kỹ và hậu quả sẽ trở
nên nghiêm trọng hơn khi căn bệnh này đan kết chặt chẽ với bệnh chủ quan

duy ý chí.
Ngày nay, phương pháp biện chứng được quan tâm nhiều hơn và việc áp
dụng nó ngày một rộng rãi hơn vào các lĩnh vực khác nhau. Nhưng chúng ta
cần lưu ý rằng, nó không phải là cái “khóa vạn năng” và hoàn toàn không có
kỳ vọng giải thích tất cả, đưa ra câu trả lời “duy nhất” đúng cho mọi vấn đề.
Song, trong phạm vi tác động của mình (trước hết do tính phổ biến của nó quy
định), đặc biệt là khi phân tích các hệ thống toàn vẹn đang vận động, phát triển
thì phương pháp biện chứng có thể đạt hiệu quả cao.
Tóm lại, với tư cách là phương pháp được rút ra từ phép biện chứng,
phương pháp biện chứng là phương pháp khoa học để nhận thức và cải tạo thế
giới, nó là công cụ của tư duy khoa học giúp chủ thể trong nhận thức và cải
tạo thực tiễn, điều chỉnh hành vi của con người đi đúng hướng.
Có thể nói, từ sau chiến tranh thế giới lần II đến nay, chưa bao giờ tình
hình thế giới lại diễn ra hết sức phức tạp như ngày nay. Trong bối cảnh ấy, sự
nghiệp đổi mới trên đất nước ta lại gặp nhiều khó khăn và phức tạp. Đây là
một thử thách lớn đối với Đảng và dân tộc ta. Chính sự nghiệp đổi mới ngày
càng đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ cần được giải
quyết. Nhưng chính tình hình càng phức tạp lại càng đòi hỏi chúng ta phải
nắm vững linh hồn của phép biện chứng, phương pháp biện chứng; cần mài
sắc tư duy biện chứng để nhận thức đúng những biến đổi sâu sắc của tình hình
thế giới, những vấn đề lý luận và thực tiễn để đáp ứng những đòi hỏi cấp bách
của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
1.2. Một số nguyên tắc cơ bản của phương pháp biện chứng
Nguyên tắc của phương pháp biện chứng là luận điểm được đề ra trên
cơ sở một hình thức tồn tại phổ biến hay một tính quy luật biện chứng nào đó
và bao hàm những yêu cầu nhất định đối với chủ thể tư duy, hướng dẫn chủ
thể trong hoạt động nhận thức.
Các sách báo mác-xít chưa có ý kiến thống nhất về những nguyên tắc
của phương pháp biện chứng, do vậy, có sự khác nhau về cách diễn đạt, về sự
phân loại, về số lượng nguyên tắc đưa ra. Chẳng hạn, F.I.Ghe-ooc-ghi-ep phân

biệt năm nguyên tắc cơ bản, còn Mi-tin cho rằng có bốn nguyên tắc; P.V.Dô-
pốp và V.C.Vi-nô-gra-đốp phân biệt bảy nguyên tắc, còn An-đre-ep phân biệt
mười nguyên tắc. Trong khi đó, W.Xê-ghet phân loại các nguyên tắc của
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 13
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
phương pháp biện chứng phù hợp với sự sắp xếp các yếu tố của phép biện
chứng trong “Bút kí triết học” của V.I.Lê-nin. Mặc dù có sự bất đồng ý kiến
trong nhận thức và diễn đạt các nguyên tắc của phương pháp biện chứng
nhưng các tác giả đã có một sự thống nhất tương đối khi giải thích bản chất
của phép biện chứng.
Khi xem xét các nguyên tắc của phương pháp biện chứng, điều quan
trọng là khi xem xét chúng trong mối liên hệ hữu cơ với nhau, cũng như với
những bậc thang phát triển tương ứng của nhận thức khoa học và thực tiễn xã
hội. Theo quan điểm của A.P.Sep-tu-lin, tác giả xin nêu khái quát một số
nguyên tắc cơ bản của phương pháp biện chứng, trình bày chúng trong sự liên
hệ lẫn nhau và phụ thuộc nhau một cách tất yếu, xác định vị trí của mỗi
nguyên tắc trong toàn bộ hệ thống những yêu cầu biện chứng đề ra đối với chủ
thể tư duy và trong hành động.
1.2.1. Nguyên tắc phản ánh
Nguyên tắc phản ánh được đề ra trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học theo quan điểm duy vật, đặc biệt là mặt thứ hai của nó. Theo cách giải
quyết ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, phụ thuộc vào vật
chất, do vật chất quy định. Tính thứ hai của ý thức trong quan hệ với vật chất
biểu hiện ở chỗ: Không phải bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu cũng tồn tại ý
thức, nó chỉ xuất hiện vào một giai đoạn phát triển đặc biệt của vật chất, ở
những vật chất có tổ chức cao. Mặt khác, nó là tính thứ hai vì nó phản ánh thế
giới bên ngoài, là hình ảnh của những sự vật tồn tại khách quan, của những
thuộc tính và quan hệ của chúng. Là sự phản ánh của những sự vật của thế giới
bên ngoài, ý thức không thể tồn tại độc lập đối với các sự vật, bởi vì phản ánh

không thể tồn tại độc lập đối với cái được phản ánh.
Vật chất là tính thứ nhất so với ý thức, vật chất tồn tại vĩnh viễn và sản
sinh ra ý thức vào một giai đoạn phát triển nhất định của nó. Ý thức về mặt nội
dung (và hình thức), phản ánh của hiện thực ở bên ngoài ý thức, của những sự
vật có thực, những thuộc tính và quan hệ của sự vật. Vậy, khi nghiên cứu
khách thể không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta về
khách thể mà phải xuất phát từ bản thân khách thể, từ bản tính riêng của nó;
không được bắt đối tượng phụ thuộc vào tư duy mà phải để tư duy phụ thuộc
vào đối tượng. Không được gán cho khách thể những sơ đồ chủ quan hay một
lô-gich phát triển nào đó mà phải rút ra những sơ đồ ấy từ khách thể; tái hiện
lại lô-gich phát triển riêng của bản thân khách thể trong ý thức, trong sự vận
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 14
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
động của các hình tượng lý tưởng. Nói cách khác, trong việc nhận thức bất kỳ
lĩnh vực nào của hiện thực cũng phải tuân thủ yêu cầu về tính khách quan, việc
giải thích đối tượng nghiên cứu phải xuất phát từ bản thân đối tượng, từ những
thuộc tính và quan hệ mà nó vốn có. Yêu cầu này được V.I.Lê-nin diễn đạt
trong “Bút kí triết học” như sau: “Tính khách quan của sự xem xét (không
phải thí dụ, không phải dài dòng mà bản thân vật tự nó)” [1;10].
Ý thức là hình thức cao nhất của phản ánh và chỉ xuất hiện trong xã hội
trên cơ sở của hoạt động lao động sản xuất, làm biến đổi hiện thực xung quanh
vì lợi ích của con người. Vì vậy, ý thức là sự phản ánh của hiện thực, nó phản
ánh hiện thực một cách có ý thức, là sự hiểu biết của chủ thể về tồn tại của
mình và quan hệ của mình với hoàn cảnh; ý thức gắn liền với tính mục đích và
sự hoạt động nhằm thực hiện mục đích đồng thời biến đổi hiện thực hay nó là
điều kiện cần thiết của hoạt động sáng tạo.
Phản ánh hiện thực là một thuộc tính cơ bản của ý thức, nó quy định sự
tồn tại của những thuộc tính khác của ý thức. Mất khả năng phản ánh hiện
thực thì không tránh khỏi đi đến việc mất tất cả các thuộc tính khác của ý thức.

Ý thức phản ánh sáng tạo thực tại khách quan mà thực tại khách quan hiện ra
trước mắt con người dưới dạng những hình ảnh chủ quan nhưng nguyên tắc
phản ánh bao hàm yêu cầu về tính khách quan của sự xem xét. Yêu cầu này có
tầm quan trọng đặc biệt đối với nhận thức. Nguyên tắc xem xét khách quan
bao hàm yêu cầu con người không những phải xuất phát từ bản thân khách thể,
từ quy luật hoạt động và phát tiển của nó, không gán ghép cho nó bất kỳ cái gì
của chủ thể, mà còn phải phân biệt rạch ròi quan hệ vật chất và quan hệ tinh
thần; nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan; thừa nhận nhân tố vật chất
quyết định nhân tố tinh thần, tư tưởng.
Việc giải thích khách thể phải xuất phát từ chính bản thân nó, từ những
thuộc tính và liên hệ mà nó vốn có, phải tính đến những quy luật hoạt động và
phát triển của nó. Như vậy, nguyên tắc khách quan còn bao hàm cả nguyên tắc
cụ thể, buộc chủ thể nhận thức phải tính đến những đặc điểm của khách thể
được nghiên cứu và những điều kiện đặc thù của khách thể ấy. V.I.Lê-nin viết:
“Trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một
thời điểm cụ thể nhất định, trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định...” [Dẫn theo
1;25].
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 15
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
Nói tóm lại, nguyên tắc phản ánh là nguyên tắc nền tảng có tính quyết
định của phương pháp biện chứng, một phương pháp dựa vào những hình thức
tồn tại phổ biến, những thuộc tính và mối liên hệ phổ biến của hiện thực.
1.2.2. Nguyên tắc năng động
Khi nói về nguyên tắc phản ánh quy định yêu cầu khách quan của sự
xem xét thì một điều không thể không nói đến là: Ý thức không phản ánh hiện
thực một cách giản đơn, thụ động mà phản ánh năng động, có những biến đổi
và cải tạo nhất định, không phải máy móc mà phản ánh một cách sáng tạo.
Tính năng động của chủ thể trong quá trình nhận thức là điều kiện tất yếu để
phát hiện bản chất của khách thể nghiên cứu; để làm sáng tỏ các mối liên hệ,

quan hệ và thuộc tính vốn có của nó. Nếu chủ thể đóng vai trò là người quan
sát trực quan giản đơn đối với khách thể nghiên cứu thì chỉ có thể phản ánh
một vài thuộc tính bên ngoài trong những điều kiện tự nhiên sẵn có của nó mà
thôi. Những thuộc tính này không cho ta quan niệm về bản chất của đối tượng.
Để phát hiện bản chất của chúng cần phải tác động lên nó, đặt nó trong những
mối liên hệ và quan hệ khác với điều kiện mà trong đó khách thể đang tồn tại,
biến đổi trạng thái tự nhiên của khách thể; từ đó con người đi sâu và phát hiện
ra những thuộc tính và những mối liên hệ tất yếu vốn có của nó, những quy
luật chi phối sự hoạt động và phát triển của khách thể.
Ngoài yêu cầu làm biến đổi khách thể, nó còn bao hàm yêu cầu làm biến
đổi một cách tương ứng những hình tượng lý tưởng nảy sinh trong quá trình
nhận thức khách thể; những hình tượng phản ánh như thế này hay thế khác
những thuộc tính và những mối liên hệ của khách thể. Để làm điều này, con
người cần có tri thức về cái chung được lặp lại trong nhiều đối tượng hoặc
hiện tượng tương tự, về cái tất yếu xảy ra không thể tránh khỏi trong những
điều kiện phù hợp. Cuối cùng, con người cần hiểu biết về những quy luật chi
phối sự hoạt động, phát triển và qua đó biết được bản chất của nó, đồng thời
phải sửa một cách căn bản những hình tượng cảm tính thu được do kết quả của
sự tri giác trực tiếp về khách thể, phải tách biệt cái chung với cái đơn nhất, cái
tất yếu với cái ngẫu nhiên, phải tạo ra những hình tượng lý tưởng, những khái
niệm phản ánh những mối liên hệ chung, tất yếu; lập ra những mô hình lý
tưởng tái hiện lại các mặt và những mối liên hệ tất yếu bên trong và bản chất
của khách thể.
Vậy, nhiệm vụ của nhận thức là từ những yếu tố bên ngoài đi vào yếu tố
bên trong, từ hiện tượng đi đến bản chất. Vì cái bên ngoài và cái bên trong,
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 16
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
hiện tượng và bản chất không trùng hợp nhau nên nhận thức đi đến bản chất
cần có tiền đề làm biến đổi các hình tượng lý tưởng, cải tạo các tài liệu cảm

tính để đi đến bản chất của khách thể nghiên cứu.
Tóm lại, nguyên tắc năng động đòi hỏi phải biến đổi khách thể nhận
thức và cải tạo một cách sáng tạo các dữ liệu cảm tính vạch ra bản chất của
khách thể là có căn cứ khách quan. Những sự biến đổi, cải tạo được thực hiện
phải phù hợp với tính quy luật có thực của lĩnh vực được nghiên cứu; phải
phản ánh những thuộc tính và mối liên hệ có thực của lĩnh vực ấy.
1.2.3. Nguyên tắc toàn diện
Yêu cầu xem xét khách quan đòi hỏi quá trình nhận thức phải coi đối
tượng là thực tại tồn tại độc lập bên ngoài và không phụ thuộc vào ý thức của
chủ thể; là vật tự nó trong những điều kiện tồn tại tất yếu của nó. Nhưng
những điều kiện tất yếu tồn tại hiện thực của sự vật lại chính là những mối liên
hệ đa dạng của sự vật với các sự vật khác, là một hệ thống nhất định bao gồm
các quan hệ của sự vật đó với các sự vật khác. Từ đó, chúng ta thấy rằng, vật
tự nó phải được xem xét không tách rời những điều kiện tồn tại tất yếu của nó
mà trong các mối liên hệ và quan hệ của nó hay nói cách khác là xem xét một
cách toàn diện.
Mối liên hệ trước hết là quan hệ giữa các đối tượng và hiện tượng của
hiện thực, nhưng không phải bất kỳ quan hệ nào cũng đều là mối liên hệ. Khái
niệm “quan hệ” rộng hơn so với khái niệm “liên hệ”. Liên hệ là quan hệ giữa
hai hiện tượng mà sự thay đổi của sự vật hiện tượng này nhất thiết dẫn đến sự
thay đổi của sự vật kia. Thí dụ công cụ lao động có liên hệ qua lại với đối
tượng lao động, những thay đổi nào đó của công cụ lao động dẫn đễn những
thay đổi được quy định chặt chẽ trong đối tượng chịu tác động của công cụ đó.
Đến lượt nó, sự thay đổi đối tượng lao động nhất thiết đòi hỏi những thay đổi
nhất định về công cụ lao động,...Ngược lại với liên hệ là tính biệt lập (tách
biệt) là một quan hệ giữa các hiện tượng khi sự thay đổi của một hiện tượng
này không ảnh hưởng gì đến các hiện tượng khác, không kèm theo những thay
đổi nhất định của các hiện tượng đó. Chẳng hạn, sự thay đổi những nguyên lý
đạo đức không dẫn đến những thay đổi trong thiên nhiên và ngược lại.
Trong thế giới, tất cả các hiện tượng đều ở trong tình trạng liên hệ lẫn

nhau và biệt lập nhau. Chúng liên hệ trong mối liên hệ này nhưng lại không
liên hệ trong mối liên hệ khác. Vì vậy, liên hệ và biệt lập luôn tồn tại bên
nhau, đó là những mặt tất yếu của bất kỳ một quan hệ cụ thể nào giữa các sự
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 17
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
vật, hiện tượng. Để nhận thức được sự vật, hiện tượng và vạch ra các thuộc
tính đặc trưng của nó cần xem xét nó không phải ngay trong bản thân nó, tách
rời các sự vật khác mà phải xem xét trong mối liên hệ hữu cơ với các sự vật
khác, tính tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật
khác. Chỉ như vậy mới bảo đảm được nhận thức thực sự về sự vật, hiện tượng.
V.I.Lê-nin nói: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự
vật đó” [Dẫn theo 1;48]. Thí dụ, để làm rõ bản chất của tư bản cần phải nghiên
cứu các quan hệ tiền tệ - hàng hóa, việc chuyển hóa sức lao động thành hàng
hóa và quan hệ giữa sức lao động với người sở hữu các tư liệu sản xuất,...Tuy
nhiên, V.I.Lê-nin nói: “Không bao giờ chúng ta đạt đầy đủ yêu cầu đó, nhưng
dù sao cần phải tuân theo yêu cầu đó, yêu cầu đó hướng chủ thể nghiên cứu
phải sưu tầm lượng thông tin về đối tượng ở mức nhiều nhất có thể được và
nhờ đó mà tránh được sai lầm và cứng nhắc” [Dẫn theo 1;49].
Trên con đường làm rõ các tính chất và bản chất của chúng cũng xuất
hiện yêu cầu phải tách ra một tính chất nào đó để nghiên cứu nghĩa là yêu cầu
xem xét toàn diện chuyển sang yêu cầu xem xét phiến diện thông qua lăng
kính của một mặt, mặt này là chủ yếu, quyết định trong tổng thể cần nghiên
cứu và thể hiện thành nền tảng của sự vật. Nhưng sau khi các mặt quan hệ quy
định trong tổng thể cần nghiên cứu đã được tách ra thì nó lại chuyển hóa thành
điểm xuất phát để xây dựng nên hệ thống các khái niệm. Nhờ hệ thống này mà
người ta lý giải được về mặt lý luận bản chất của đối tượng và lần lượt suy ra
các mặt (thuộc tính), quan hệ tất yếu và mối liên hệ qua lại giữa chúng. Thế là,
trong quá trình phát triển tiếp theo của nhận thức, cách xem xét phiến diện lại

chuyển sang toàn diện cho phép tái hiện về mặt lý luận tất cả các mặt và quan
hệ tất yếu gắn liền với đối tượng trong mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của
chúng. Đến giai đoạn tái hiện bản chất của đối tượng trong hệ thống khái niệm
thì yêu cầu về tính toàn diện được thực hiện gần như triệt để.
Tóm lại, nguyên tắc toàn diện là một trong những nguyên tắc quan
trọng của phương pháp biện chứng, nó xuất hiện và tác động trong tất cả các
giai đoạn tiếp theo trong sự phát triển nhận thức. Tuy nhiên, ở các giai đoạn đó
cũng cần phải phối hợp với các nguyên tắc khác của phương pháp biện chứng
để quá trình tư duy được hoàn thiện hơn.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 18
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
1.2.4. Nguyên tắc lịch sử
Như chúng ta đã biết, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều ở trong
trạng thái vận động và biến đổi không ngừng. Trong thực tế, nếu vận động là
thuộc tính, là phương thức tồn tại của vật chất; nếu tất cả các vật chất đều là
những hệ thống vận động tương đối ổn định, hình thành và phát triển theo
những quy luật nhất định và nếu hình thức vận động quy định bản chất của
chúng thì muốn nhận thức được sự vật, hiện tượng phải xem xét nó trong sự
vận động, trong sự hình thành và phát triển của nó, bởi vì, chỉ khi nào làm rõ
được các giai đoạn phát triển cơ bản mà sự vật, hiện tượng trải qua mới có thể
hiểu được, giải thích được các thuộc tính và mối liên hệ tất yếu, các đặc điểm
về chất và lượng của sự vật.
Yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển của
nó là nhân tố quan trọng bậc nhất trong nội dung của nguyên tắc lịch sử.
Thông thường người ta lấy yêu cầu đó làm đặc trưng cho chủ nghĩa duy vật.
Phương pháp lịch sử coi như là một trong những phương pháp nhận thức hiện
thực khách quan, đặc biệt là các phương pháp nhận thức xã hội. Yêu cầu này
được F.Bêcơn nhấn mạnh rằng: “Muốn nhận thức được những biến hóa và quá
trình của vật chất, cần phải hiểu rõ toàn bộ cái đang tồn tại, cái đã qua, cái

hiện có và cả cái sẽ có” [Dẫn theo 19;117]. Quan niệm này cũng gần giống
như Xpi-nô-da đã từng quan niệm: “Phương pháp giải thích tự nhiên chủ yếu
là ở chỗ trình bày lịch sử thật sự của tự nhiên cũng như từ các dữ kiện đã biết,
chúng ta rút ra cách xác định các sự vật tự nhiên...” [Dẫn theo 19;117].
Nguyên tắc lịch sử yêu cầu xem xét khách thể trong sự tự vận động và
phát triển của nó. Nguyên tắc lịch sử đòi hỏi chúng ta không chỉ miêu tả
những biến đổi trong khách thể, chỉ ra những trạng thái về chất thay thế lẫn
nhau mà còn phải tìm ra mối liên hệ tất yếu khách quan giữa các hiện tượng
nối tiếp nhau; tìm ra các quy luật khách quan chi phối sự hoạt động và phát
triển của khách thể, của cái hiện tồn và khả năng chuyển hóa của nó sang một
chất mới, chất mới đó vừa là cái phủ định vừa là cái nối tiếp của chất cũ tức là
duy trì nó dưới dạng đã cải tạo. Nếu vạch ra được mối liên hệ tất yếu giữa các
trạng thái về chất tạo ra lịch sử hình thành và phát triển của chỉnh thể cần
nghiên cứu thì có thể hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Quan điểm lịch sử ước định không chỉ tái hiện trong nhận thức sự phát
triển của khách thể cần nghiên cứu mà còn vạch ra mối liên hệ tất yếu giữa các
hiện tượng, các quy luật thay thế nhau, chi phối sự quá độ từ một giai đoạn
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 19
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
hình thành và phát triển này của khách thể sang một giai đoạn khác. Vì vậy,
trong phương pháp, bản chất cái lịch sử không loại trừ cái lô-gich mà có quan
hệ hữu cơ với cái lô-gich. Ở đây, lịch sử thể hiện dưới dạng đã gột sạch hết cái
ngẫu nhiên được uốn nắn cho phù hợp với các quy luật của bản thân quá trình
lịch sử. Khi nêu lên đặc trưng này trong phương pháp mà Mác đã vận dụng
trong bộ “Tư bản”, Ăngghen viết: “Về thực chất, phương pháp này chẳng qua
cũng chỉ là phương pháp lịch sử, chỉ có khác là đã thoát khỏi hình thái lịch sử
và khỏi những hiện tượng ngẫu nhiên gây trở ngại mà thôi” [Dẫn theo 1;135].
Tóm lại, nguyên tắc lịch sử hướng người nghiên cứu xem xét đối tượng
trong sự vận động và phát triển, vạch ra mối liên hệ tất yếu giữa các hiện

tượng thay thế nhau, những quy luật chi phối bước quá độ của một chỉnh thể
từ trạng thái này sang trạng thái khác. Trong tiến trình vận dụng, nó lại đòi hỏi
đề ra những yêu cầu mới, nguyên tắc mới của phương pháp biện chứng.
1.2.5. Nguyên tắc mâu thuẫn
Muốn xem xét khách thể trong sự vận động và phát triển, phát hiện ra
các quy luật quyết định sự chuyển hóa từ trạng thái chất này sang trạng thái
chất khác, từ giai đoạn này sang giai đoạn khác cần phải vạch ra nguồn gốc
những sự biến đổi xảy ra trong khách thể. Nguồn gốc vận động và phát triển là
sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. V.I.Lênin viết: “Điều kiện
của một sự nhận thức về tất cả các quá trình của thế giới trong “sự tự vận
động” của chúng, trong sự phát triển của chúng, trong đời sống sinh động của
chúng, là sự nhận thức của chúng với tính cách là sự thống nhất của các mặt
đối lập” [Dẫn theo 1;139].
Nguyên tắc mâu thuẫn có vai trò quan trọng không chỉ trong việc nhận
thức các sự vật, hiện tượng như những khách thể đang vận động và phát triển
mà cả trong việc giải thích tính đa dạng của các thuộc tính và các trạng thái về
chất khác nhau và đối lập nhau mà sự vật vốn có trong việc vạch rõ mối quan
hệ qua lại tất yếu giữa chúng với nhau, sự chuyển hóa của cái này thành cái
kia và thành mặt đối lập của mình.
Khi phân tích về bản chất của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa, Mác đã phân đôi khách thể nhận thức thành các mặt đối lập đã bảo đảm
cho việc tái hiện sự phát triển của khách thể, sự quá độ của nó từ trạng thái
chất này sang trạng thái chất khác. Sau khi tách ra quan hệ cơ bản của xã hội
tư bản tức là sự trao đổi hàng hóa, Mác vạch ra những mâu thuẫn gắn liền với
nó và tồn tại bên trong nó; sau đó lần theo sự phát triển của những mâu thuẫn
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 20
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
ấy, Mác đã tái hiện dưới dạng một hệ thống phạm trù tất cả các mâu thuẫn
khác và thuộc tính bắt nguồn từ sự phát triển ấy. Nhờ vậy, Ông đã trình bày

được hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, chỉ ra sự xuất hiện, phát triển
và cả bản chất của xã hội ấy.
Tính tất yếu của việc phân đôi chỉnh thể được nhận thức thành các mặt
đối lập và vạch ra mối liên hệ qua lại giữa chúng, bắt nguồn từ cơ sở vật chất
là sự thống nhất của các mặt đối lập. Là một hệ thống vận động tương đối ổn
định do sự tác động qua lại giữa các nhân tố hợp thành cũng như tác động qua
lại với các sự vật khác, sự vật luôn vận động, biến đổi đồng thời vẫn tự duy trì
tính chất của mình - nghĩa là trong cùng một lúc, trong cùng những quan hệ ấy
sự vật vừa là nó vừa không phải là nó, còn sự đồng nhất của các mặt của sự
vật tồn tại đến một giai đoạn phát triển nhất định của mâu thuẫn, việc phá vỡ
sự đồng nhất dẫn tới sự vật cũ mất đi và sự vật mới xuất hiện. Sự vật này cũng
sẽ là sự thống nhất của biến đổi và ổn định nghĩa là sự thống nhất của các mặt
đối lập. Như vậy, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hình thức
tồn tại phổ biến của vật chất, là nguồn gốc của vận động và phát triển thông
qua tác động qua lại của các mặt đối lập.
Trong triết học Mác-Lênin, yêu cầu phân đôi chỉnh thể thống nhất
thành các mặt đối lập và nhận thức mối liên hệ qua lại giữa chúng với nhau là
kết luận rút ra từ tính phổ biến của mâu thuẫn, từ quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập - quy luật nói lên nguồn gốc vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng.
1.2.6. Nguyên tắc phủ định biện chứng
Đặc trưng của phủ định biện chứng là ở chỗ nó bắt nguồn từ sự phát
triển của các khuynh hướng đối lập bên trong; nó là sự tự phủ định, một sự
phủ định không chỉ đơn thuần thủ tiêu cái bị phủ định mà duy trì phần tích cực
phù hợp với trình độ phát triển mới, nó là sự thống nhất giữa thủ tiêu và duy
trì, một hình thái liên hệ giữa cái thấp với cái cao trong quá trình phát triển.
Trong “Bút kí triết học”, V.I. Lênin vạch ra bản chất của phủ định biện
chứng: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy
nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự cũng không phải
sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng” [Dẫn theo

1;116]. Sự phủ định trong tư duy phản ánh những biến đổi xảy ra trong hiện
thực khách quan nên trong cái hiện thực đó sự phủ định cũng tồn tại độc lập
với con người. Có thể nói, phủ định biện chứng trước hết mang tính khách
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 21

×