Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đảng lãnh đạo cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở miền bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.71 KB, 22 trang )

Chơng 1
Đảng lãnh đạo cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền bắc
(1954 - 1975)
Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông
Dơng đợc ký kết, nớc ta tạm thời chia làm hai miền, với hai chế độ chính trị xã hội
khác nhau. Miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Dới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã nỗ
lực phấn đấu, vợt qua mọi khó khăn, thử thách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây
dựng chủ nghĩa xã hội, lập nên những kỳ tích vĩ đại, góp phần to lớn quyết định thắng
lợi đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của cả nớc.
I. Đờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
1. Đặc điểm tình hình thế giới và trong nớc khi miền Bắc bớc vào thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Miền Bắc bớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh thế giới
và trong nớc có những thuận lợi to lớn, nhng cũng gặp những khó khăn không nhỏ.
Nét nổi bật của tình hình thế giới là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang
lớn mạnh về mọi mặt, quyết định chiều hớng phát triển của thời đại mới. Sức mạnh
đó là kết quả chung về sự phát triển toàn diện của các nớc xã hội chủ nghĩa bao gồm
các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật, trong đó Liên Xô là trung tâm,
trụ cột của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã
thức tỉnh, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các nớc thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Việt
Nam đứng lên chống đế quốc, giành độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và hào
bình thế giới.
Sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa, đặc biệt sau chiến thắng Điện
Biên Phủ của nhân dân Việt Nam đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới không ngừng phát triển mạnh trên khắp
các châu lục.
Tình hình trên làm cho lực lợng của chủ nghĩa đế quốc ngày càng suy yếu
nghiêm trọng. Biểu hiện trớc hết ở sự tan rã của hệ thống thuộc địa, tiếp đến là sự suy
thoái của hệ thống kinh tế t bản chủ nghĩa và sự gia tăng mâu thuẫn trong nội bộ, làm


cho chủ nghĩa đế quốc đứng trớc vực thẩm của tổng khủng khoảng.
Từ sau Hiệp định Giơnevơ, với sự can thiệp và xâm lợc của đế quốc Mỹ, đất n-
ớc ta bị chia cắt làm hai miền, mỗi miền có chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Nhân
dân miền Nam đang còn phải sống dới ách thống trị của đế quốc và tay sai, tiếp tục
đấu tranh với kẻ thù mới là đế quốc Mỹ vô cùng tàn bạo và nham hiểm. Tình hình
trên đặt ra cho cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nhiều khó khăn gian khổ.
Sau ngày giải phóng, nhân dân miền Bắc vô cùng phấn khởi, tin tởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, hăng say lao động sản xuất xây dựng chế độ mới, đó là điều kiện
chính trị xã hội thuận lợi cơ bản để miền Bắc bớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Nhng bên cạnh đó, miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội có nhiều khó khăn phức
tạp, trong đó đặc điểm lớn nhất là từ sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa. Mặt khác, sự phá hoại
của các thế lực thù địch trớc và sau khi thực dân Pháp rút quân và hậu quả của chiến
tranh; hàng chục vạn ngời bị thất nghiệp, tàn d của nền văn hóa nô dịch và tệ nạn xã
hội cha cải tạo xong ... Đó là những cản trở lớn gây ảnh hởng không nhỏ đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
2. Quá trình hình thành đờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ơng khóa II họp từ ngày 15 đến
ngày 17 tháng 7 năm 1954, tại Việt Bắc. Hội nghị đã xem xét, đánh giá tình hình mới
và vạch ra sự chuyển hớng chỉ đạo chiến lợc của Đảng: Tranh thủ và củng cố hòa
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nớc, kiên quyết
chống đế quốc Mỹ xâm lợc. Với miền Bắc, tiếp tục thực hiện ngời cày có ruộng, ra
sức phục hồi sản xuất, chuẩn bị điều kiện kiến thiết nớc nhà.
Để chỉ đạo kịp thời mọi hoạt động của Đảng trong thời kỳ mới, ngày 5 tháng 9
năm 1954, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ơng Đảng ra nghị quyết về: Tình hình
mới, nhiệm vụ mới và chính sách của Đảng. Nghị quyết nêu rõ tình hình mới của đất
nớc tạm thời phân thành hai miền, chỉ ra kẻ thù chủ yếu của cách mạng nớc ta là đế
quốc Mỹ xâm lợc và tay sai, đề ra nhiệm vụ chung của cách mạng cả nớc.
Về nhiệm vụ xây dựng miền Bắc, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9 năm 1954
vạch rõ: trớc mắt là ổn định xã hội, ổn định vật giá, ổn định thị trờng, hàn gắn vết th-

ơng chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, phục hồi sản xuất, mở rộng hoạt động
quốc tế nhằm tạo cơ sở ban đầu thuận lợi để chuẩn bị tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Hội nghị lần thứ bảy (3-1955) và lần thứ tám (8-1955) của Ban Chấp hành
Trung ơng (khóa II), Đảng ta đề ra nhiệm vụ củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững
và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, Đặc biệt Hội nghị lần thứ tám
của Đảng đã chủ trơng đa miền Bắc tiến dần từng bớc lên chủ nghĩa xã hội, củng cố
miền Bắc phải luôn luôn chiếu cố miền Nam, đó là hai nhiệm vụ không tách rời nhau.
Việc xác định đờng lối đa miền Bắc tiến dần từng bớc lên chủ nghĩa xã hội
hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
thích ứng với điểm xuất phát thấp của thực tiễn kinh tế xã hội và con ngời miền
Bắc.
Cụ thể hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ơng lần thứ tám, tháng 1 năm
1956, trong tài liệu Mấy vấn đề về đờng lối cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị
nhận định: Từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc nớc ta đã chuyển sang cách mạng xã
hội chủ nghĩa, bất kể tình hình nh thế nào, miền Bắc cũng phải đợc củng cố và phải
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đến đây, nhận thức của Đảng ngày càng thể hiện rõ quyết
tâm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Quyết tâm đó hoàn toàn có cơ
sở khoa học, bởi vì miền Bắc đã đợc giải phóng, thế lực đế quốc và phong kiến đã bị
đánh đổ, nhân dân phấn khởi tin tởng, khối liên minh công nông đợc củng cố, sự lãnh
đạo của Đảng đợc tăng cờng, chính quyền nhân dân đợc xây dựng ngày càng vững
mạnh và đang chuyển sang làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, sự giúp đỡ
của các nớc xã hội chủ nghĩa anh em ngày càng có hiệu lực. Vì vậy, chủ trơng của
Đảng đa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển t bản chủ
nghĩa là phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và nguyện vọng thiết tha của toàn
dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giải phóng miền Nam, bớc chuẩn bị
cần thiết cho chiến lợc cách mạng lâu dài đa cả nớc đi lên chủ nghĩa xã hội sau này.
Để cụ thể hóa và phát triển đờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
(tháng 12-1957), hội nghị lần thứ mời ba của Ban Chấp hành Trung ơng Đảng (khóa
II), họp bàn nhiệm vụ soạn thảo đờng lối cách mạng trong giai đoạn mới. Hội nghị

tổng kết nhiệm vụ khôi phục kinh tế miền Bắc; bàn phơng hớng phát triển chủ nghĩa
xã hội trong những năm tiếp theo; thông qua cải tiến chế độ tiền lơng cho cán bộ,
công nhân viên; đề ra chủ trơng xây dựng Đảng, kiện toàn bộ máy Nhà nớc đủ sức
lãnh đạo cách mạng cả nớc nói chung và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nói
riêng. Hội nghị tập trung thảo luận và thông qua kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
miền Bắc, theo phơng hớng tiến dần từng bớc lên chủ nghĩa xã hội; trọng tâm là phát
triển nền kinh tế quốc dân, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa; đề ra
phơng hớng công tác t tởng lý luận nhằm đẩy lùi t tởng tiểu t sản và ảnh hởng của
chủ nghĩa xét lại, làm cho hệ t tởng xã hội chủ nghĩa chiếm vị trí thống trị tuyệt đối
trong đời sống tinh thần của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Thực hiện quan điểm đa miền Bắc tiến dần từng bớc lên chủ nghĩa xã hội,
tháng 11 năm 1958, Ban Chấp hành Trung ơng Đảng họp Hội nghị lần thứ mời bốn,
vạch ra những nhiệm vụ trớc mắt của cách mạng xã hội chủ nghĩa, đề ra kế hoạch ba
năm (1958 1960) cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, bớc đầu phát
triển kinh tế và văn hóa, tăng cờng lực lợng của chủ nghĩa xã hội cả về kinh tế, chính
trị, xã hội, quốc phòng, quân đội, văn hóa t tởng ...
Trớc xu thế phát triển của cách mạng cả nớc, đồng thời đáp ứng yêu cầu cách
mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, tháng 1 năm 1959, Ban Chấp hành Trung
ơng Đảng (khóa II) họp Hội nghị lần thứ mời lăn. Hội nghị có nhiệm vụ tổng kết cách
mạng hai miền từ năm 1954 đến năm 1958, đề ra đờng lối cách mạng cho cả nớc và
cho mỗi miền, trong đó tập trung chủ yếu bàn về đờng lối cách mạng miền Nam. Đối
với cách mạng miền Bắc, hội nghị thống nhất chủ trơng củng cố miền Bắc, đa miền
Bắc tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng hậu phơng lớn xã hội chủ nghĩa
vững mạnh toàn diện.
Cụ thể hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ơng lần thứ mời lăm, tháng 4
năm 1959, Ban Chấp hành Trung ơng Đảng họp Hội nghị lần thứ mời sáu. Hội nghị
thông qua hai nghị quyết quan trọng bàn về cách mạng miền Bắc: Nghị quyết về hợp
tác hóa nông nghiệp và nghị quyết về vấn đề cải tạo công thơng nghiệp t bản t doanh
nhằm thực hiện từng phần cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Sau hơn 5 năm tiến hành lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, đến thời điểm

năm 1960, Đảng ta đã tích lũy đợc nhiều kiến thức, kinh nghiệm về xác lập đờng lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, ngày 5 tháng 9 năm 1960, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã khai mạc tại Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc lời khai mạc Đại hội và nêu rõ: Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nớc nhà.
Nội dung cơ bản của đờng lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
đợc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng thông qua là:
Về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc: Xây dựng đời sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững
mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nớc nhà, góp phần tăng cờng
phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam á và thế giới.
Con đờng để đạt mục tiêu trên: Sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, để cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thơng nghiệp nhỏ và công thơng nghiệp t bản t doanh ; phát
triển thành phần kinh tế quốc doanh ; thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
bằng cách u tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về t t-
ởng, văn hóa và kỹ thuật.
Về nhịp độ, bớc đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc: Tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Yêu cầu cần đạt đến của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là biến nớc ta
thành một nớc xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn
hóa, khoa học tiên tiến.
Điều kiện để thực hiện thắng lợi đờng lối trên là: Tăng cờng sự lãnh đạo của
Đảng, tăng cờng vai trò của Nhà nớc dân chủ nhân dân; củng cố sự nhất trí về chính
trị, tinh thần của nhân dân; tăng cờng sự đoàn kết, hợp tác với các nớc trong phe xã
hội chủ nghĩa; mở rộng quan hệ hữu nghị với các nớc có chế độ chính trị khác nhau,
với nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Cùng với việc xác định đờng lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, Đại hội còn xác định vị trí, vai trò của cách mạng miền Bắc có ý nghĩa quyết

định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nớc ta, đối với sự nghiệp thống
nhất nớc nhà. Đồng thời, Đại hội đã cụ thể hóa đờng lối chung bằng việc đề ra nhiệm
vụ và phơng hớng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 1965), nhằm xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Nh vậy, qua quá trình tích cực tìm kiếm, vừa nghiên cứu lí luận, vừa tổng kết
thực tiễn, Đảng ta đã từng bớc hình thành đờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), đờng lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa về cơ bản đã đợc hình thành. Qua đó, thể hiện rõ bản lĩnh độc
lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong việc vận dụng lý luận Mác Lênin, tiếp thu
có chon lọc kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hộicủa các nớc an h em để hình
thành lên đờng lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phù hợp với lịch sử đất nớc
và con ngời Việt Nam.
Đợng lối cơ bản đó tiếp tục đợc bổ sung, phát triển thể hiện qua các nghị quyết
Trung ơng làn thứ 10 (1963), lần thứ 11, 12 (1965), lần thứ 19 (1971). Trong đó nghị
quyết Trung ơng lần thứ 19 đợc đánh giá là bớc phát triển tơng đối hoàn chỉnh về đ-
ờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Nghị quyết nhấn mạnh: Phải nắm
vững chuyên chính vo sản phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng ( cách mạng về quan hệ sản xuất, cách
mạng khoa học và cách mạng t tởng, văn hóa); khẳng định thời kì quá đọ đi lên chủ
nghĩa xã hội lâu dài, phân ra nhiều bớc quá độ nhỏ hơn và chỉ rã miền Bắc đang ở bớc
ban đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Kết hợp chặt chẽ xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vẹ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
II. Đảng lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền bắc(1954 1975)
1. Đảng lãnh đạo sự nghiệp khôi phục kinh tế sau chiến tranh và hoàn
thành những nhiệm vụ con lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Bắc(1954 1975)
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và hiẹp dịnh Giơnevơ bàn về lập lại hòa bình ở
Việt nam và Đông Dơng đợc các bên tham dự hội nghị kí kết (7 - 1954), miền Bắc n-
ớc ta đợc hoàn toàn giải phóng, đó là điều kịên chính trị xã hội hết sức thuận lợi.

Nhng bên cạnh đó miền Bắc gặp vô vàn khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại: ở
nông thôn hàng van héc-ta ruộng đất bị bỏ hoang, nhân lực lao động, nôg cụ, sức kéo
đều thiếu nghiêm trọng. ở thành thị, nhiều cơ sở công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp bị
địch tháo gỡ thiết bị hoặc phá hoại trớc khi rút đi, công nhân thát nghiệp là phổ biến;
thơng nghiệp và thủ công nghiệp cũng rơi vào tình trạng tê liệt không hoạt động hoặc
hạot động kém hiệu quả. Cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu từ cuối năm 1953 cũng chỉ
mới thực hiên đợc ở một số địa phơng thuộc vùng tự do. Đời sống các tầng lớp nhân
dân vô cùng khó khăn, có nhiều vùng xuất hiện tình trạng thiếu ăn, đói kém nghiêm
trọng.
Nhận thức sâu sắc những thuận lợi và khó khăn của miền Bắc, đồng thời để tạo
tiền đề kinh tế - xã hội mở đờng đa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã mở
các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng lần thứ sáu, lần thứ bảy, lần thứ tám và lần
thứ mời (khoá II), bàn nhiều vấn đề quan trọng liên quan đế sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc: Trong giai đoạn mới, toàn Đảng, toàn dân cần tập trung mọi
nỗ lực kinh tế đó là nhiệm vụ trọng tâm trớc mắt và khâu chính là nông nghiệp; tiến
hành cải cách ruộng đất ,thực hiện ngời cày có ruộng là nhiêm vụ trọng yếu; đồng
thời phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, củng cố Đảng và chính quyền dân chủ
nhân dân, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản; củng cố quốc phòng, xây
dựng quân đội, tạo điều kiện đa miwnf Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Triển khai thực hiện nhiệm vụ trên, trong khôi phục kinh tế ở miền Bắc sau
chiến tranh, Đảng ta đã chỉ đạo toàn dân thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ. Trớc hét là
nhiệm vụ khôi phục sản xuất nông nghiệp và bớc đầu xây dng bộ phân kinh tế tập
thể. Giai cấp nông đan phấn khởi đợc giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của đế quốc
và phong kiến, lại đợc Đảng, chính phủ chia ruộng đất nên đã hăng hái vợt mọi khó
khăn, ra sức khai hoang phục hóa, chống hạn, đẩy mạnh sản xuất,tăng nhanh sản lợng
lơng thực. Tính đến năm 1957, sản lợng lơng thực ở miền Bắc đạt 4,2 triệu tấn, vợt
mức trớc chiến tranh thế giới lần thứ hai(1939) là 2,4 triệu tấn. Đời sống của nhân
dân mà chủ yếu là nông dân dần dần đi vào ổn định, đẩy lùi nạn đói. Về khôi phục
sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, Đảng chủ trơng phải tập trung khôi phục và
phát triển công nghiệp trong phạm vi cần thiết và có khả năng phục vụ cho nông

nghiệp. Do đó trong các năm 1955 đến năm 1957 hầu hết các cơ sở công nghiệp, các
nhà máy, xí nghiệp quan trọng nh: Mỏ than Hồng Gai, nhà máy dệt Nam Định, nhà
máy xi măng Hải Phòng, nhà máy điện Hà Nội, đi vào hoạt động có hiệu quả, công
nhân phấn khởi trở thừnh ngời làm chủ cơ sở sản xuất của mình. Đồng thời, Đảng và
Nhà nớc chỉ đạo xây dựng thêm một số nhà máy mới. Đến cuối 1957, miền Bắc có tất
cả 97 nhà máy, xí nghiệp do Nhà nớc quản lý, thơng nghiệp miền Bắc đã tăng tổng
mức bán lẻ lên 70,6%, doanh số gấp 2 lần so với năm 1955. Về khôi phục và phát
triển giao thông vận tải, Đảng và Nhà nớc chỉ đạo nhanh chóng khôi phục đờng xe
lửa, đờng ôtô, đờng thủy, bu điện, nạo vét và mở rộng các bến cảng: Long Biên, Hải
Phòng, Hòn Gai, Cẩm Phả, Bến Thủy; khai thông đờng hàng không quốc tế. Các
ngành văn hóa, giáo dục, y tế phát triển nhanh chóng theo tính chất xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống giáo dục phổ thông theo chơng trình 10 năm đợc xác lập, giáo dục đại học
đợc chú ý phát triển. Hệ thống y tế và chữa bệnh miễn phí đợc phát triển rộng trên
miền Bắc. Hệ thống chính trị từ Trung ơng đến cơ sở đợc xây dựng và củng cố, đã
phát huy hiệu lực trong lãnh đạo và chỉ đạo nhiệm vụ khôi phục kinh tế, đập tan mọi
âm mu và hành động của bọn phản động chống đối chế độ mới.
Trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Đảng chủ trơng thực
hiện đợt 6 giảm tô, đợt 2 cải cách ruộng đất đem ruộng đất về cho dân cày và từng b-
ớc đa họ vào con đờng làm ăn tập thể. Trong hơn 2 năm (1954 1956), cải cách
ruộng đất ở miền Bắc đợc tiến hành tiếp 4 đợt còn lại (Từ đợt 2 đến đợt 5) với tổng
cộng 3.314 xã. Trải qua 5 đợt cải cách ruộng đất, khoảng 81 vạn ta ruộng đất, 10 vạn
trâu bò, 1,8 triệu nông cụ từ tay giai cấp địa chủ đợc chia cho trên 2 triệu nông dân.
Giai cấp địa chủ bị xóa bỏ, quan hệ sản xuất mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa
từng bớc đợc hình thành. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất,
chúng ta đã phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng làm ảnh hởng đến t tởng tình
cảm và nhiệt tình cách mạng của nhân dân. Nhận thức rõ điều đó, Đảng đã kịp thời
sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, giữ vững ổn định chính trị xã hội, củng cố niềm tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Nh vậy, công cuộc khôi phục kinh tế và hoàn thành những nhiệm vụ còn lại
của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ năm 1954 đến 1957 do Đảng lãnh đạo,

thực chất là quá trình san nền, xây móng, mở đờng để bắt tay triển khai thực hiện
từng bớc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
2. Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, bớc đầu phát
triển kinh tế, văn hóa ở miền Bắc (1958 1960).
Công cuộc khôi phục kinh tế thắng lợi đã tạo cơ sở thuận lợi cho sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc vững bớc tiến lên. Tháng 4 năm 1958, Hội
nghị lần thứ mời bốn Ban Chấp hành Trung ơng Đảng bàn về kế hoạch 3 năm (1958
1960) cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ
thủ công, thành phần kinh tế t bản t doanh, ngời buôn bán nhỏ, đồng thời mở mang
xây dựng cơ bản, tăng cờng lực lợng của thành phần kinh tế quốc doanh.
Đảng chủ trơng tập trung sự lãnh đạo cải tạo toàn diện nền kinh tế xã hội, khâu
chính là cải tạo nông nghiệp bằng cách hợp tác hóa toàn bộ nông nghiệp, thực hiện
hợp tác hóa trớc khi cơ giới hóa, từ hợp tác hóa trong nông nghiệp làm đòn bẩy thúc
đẩy và phát triển các ngành kinh tế khác.
Mục đích cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa là để xác lập chế
độ công hữu về t hiệu sản xuất, dới hai hình thức chủ yếu: sở hữu nhà nớc (toàn dân)
và sở hữu tập thể, nhằm hình thành quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, cải thiện
và nâng cao đời sống nhân dân.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong khi lấy cải tạo là trọng tâm, phải tiến hành
đồng thời với xây dựng cải tạo để xây dựng và xây dựng phải kết hợp với cải tạo, thúc
đẩy cải tạo nhanh chóng hoàn thành.
Hớng phấn đấu đến năm 1960, nhân dân miền Bắc sẽ có đủ lơng thực, cớ thêm
rau, thịt, cá, đờng; tự cung cấp phần lớn hàng tiêu dùng, chủ yếu là vấn đề ăn , mặc,
học, đồ dùng gia đình; trình độ văn hóa và kỹ thuật đợc nâng dần; nạn thấp nghiệp do
chế độ vũ để lại sẽ đợc giải quyết căn bản.
Cụ thể hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ mời bốn, Đảng
ta đã có các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí th chỉ đạo thực hiện nhiệm
vụ cải xã hội chủ nghĩa toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, tạo nên phong
trào sản xuất sôi nổi trên toàn miền Bắc. Trong xu thế phát triển đó, tháng 4 năm
1959 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng lần thứ mời sáu (khóa II) họp, tập trung bàn

về vấn đề hợp tác hóa trong nông nghiệp và cải tạo xã hội chủ nghĩa với công thơng
nghiệp t bản t doanh.
Về hợp tác hóa nông nghiệp, hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng lúc này là
chuẩn bị mọi mặt về đờng lối, chính sách, t tởng, tổ chức, cán bộ và kế hoạch để phát
triển tổ đổi công, mở mang hợp tác xã nông nghiệp một cách tích cực, vững chắc tiến
tới cao trào cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Nguyên tắc chỉ đạo xây dựng
hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Phơng châm tiến hành cải tạo
là tích cực, vững chắc, quy hoạch về mọi mặt, sát với từng vùng.
Về cải tạo đối với công thơng nghiệp t bản t doanh, Đảng đề ra chủ trơng cải
tạo hòa bình, hai bên cùng có lợi, đi đôi với sắp dấp công ăn việc làm cho các nhà t
bản và giai cấp t sản.
Thực hiện chủ trơng của Đảng, phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhanh chóng trở thành cao trào trên toàn miền Bắc.
Cuộc vận động hợp tác hóa trong nông nghiệp thu nhiều thành tựu to lớn; tính đến
cuối năm 1960, miền Bắc có hơn 85% hộ nông dân, với 68% diện tích ruộng đất vào
hợp tác xã nông nghiệp. Đối với cải tạo công thơng nghiệp t bản t doanh tính đến
cuối năm 1960, miền Bắc có 783 hộ t sản công nghiệp (100%), 826 hộ t sản thơng
nghiệp (97,1%) và 319 hộ t sản vận tải cơ giới (99%) đã đợc cải tạo. Hàng vạn công
nhân đợc giải phóng khỏi ách bóc lột của giai cấp t sản. Ngành thủ công nghiệp từng
bớc đợc phục hội và đi vào con đờng làm ăn tập thể thông qua các hình thức tổ chức
hợp tác nh: hợp tác xã cung tiêu, hợp tác xã sản xuất thủ công nghiệp. Tính đến cuối
năm 1960, miền Bắc có 87,9% số thợ thủ công tham gia cải tạo và đi vào làm ăn tập
thể.
Về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng tiến hành chỉ đạo chú trọng phát
triển thành phần kinh tế quốc doanh. Tính đến năm 1960, miền Bắc có 56 nông trờng
quốc doanh, với diện tích trên 10 vạn héc ta canh tác. Công nghiệp sản xuất các t liệu
sản xuất đợc Đảng, Nhà nớc chú trọng đầu t phát triển, nhiều công trình lớn, nhỏ ra
đời. Từ chỗ có 97 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh năm 1957, đến năm 1960 đã có
172 xí nghiệp do Trung ơng quản lý và trên 500 cơ sở do địa phơng quản lý. Nhiều
khu công nghiệp tập trung ra đời nh Nhà máy gang thép Thái Nguyên, khu liên hiệp

công nghiệp Việt Trì ... Ngành công nghiệp tiêu dùng có sự phát triển đáng kể. Năm
1959 tổng số hàng tiêu dùng đợc sản xuất trong nớc tăng 283,7% so với năm 1955,
bảo đảm cung cấp đợc 90% hàng tiêu dùng cần thiết cho đời sống nhân dân. Ngành
thơng nghiệp xã hội chủ nghĩa còn non trẻ cũng có sự phát triển vợt bậc. Đến năm
1959, mậu dịch quốc doanh đã có 12 tổng công ty chuyên nghiệp, bao gồm 1.400 cửa
hàng, mạng lới hợp tác xã mua bán có ở hầu hết các địa phơng trong miền Bắc. Sự
nghiệp phát triển văn hóa, giáo dục, y tế luôn đợc Đảng, Nhà nớc quan tâm xây dựng.
Tính đến cuối năm 1960, miền Bắc đã căn bản xóa nạn mù chữ ở miền xuôi cho
những ngời dới 50 tuổi. Hệ thống giáo dục phổ thông đợc hoàn chỉnh và mở rộng, với
số học sinh tăng 80% so với năm 1957. Các trờng đại học và trung học chuyên nghiệp
không ngừng mở rộng. Đến năm 1960, miền Bắc có 9 trờng đại học, với 11,070 sinh
viên (gấp 2 lần so với năm 1957). Hệ thống y tế hình thành căn bản trên khắp các địa
phơng miền Bắc, bao gồm các bệnh viện, bệnh xá, trạm y tế phục vụ nhân dân miễn
phí.
Cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trong những năm từ 1958 đến
1960. Đảng còn đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, củng cố chính
quyền, xây dựng Nhà nớc và các đoàn thể quần chúng. Các Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ mời bốn, lần thứ mời lăm đợc quán triệt toàn
Đảng, trong đó chú trọng khâu chỉnh đốn tổ chức, tăng cờng giáo dục lý luận Mác
Lênin, cải tạo t tởng, nhằm chống lại các quan điểm phản động, sai trái, làm cho
Đảng trong sạch vững mạnh cả về chính trị, t tởng và tổ chức. Tháng 12 năm 1959,
Quốc hội nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua Hiến pháp mới. Ngày 1 tháng 1
năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố với toàn dân và thế giới bản Hiến pháp
xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nớc ta. Thông qua bầu cử dân chủ, Hội đồng Chính
phủ, Hội đồng nhân dân các cấp đã đợc mở rộng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nớc ngày càng phát huy hiệu quả. Các tổ chức quần chúng nh Tổng
liên đoàn lao động Việt Nam, đoàn thanh niên lao động Việt Nam, Hội liên hiệp phụ
nữ Việt Nam, Mặt trận dân tộc thống nhất đều đợc củng cố và hoạt động tích cực.
Quân đội nhân dân Việt Nam nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, trụ cột của
chuyên chính vô sản đợc Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng

từng bớc, tiến lên chính quy hiện đại.
Những thành tựu thu đợc trong sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển
kinh tế, văn hóa ở miền Bắc (1958 1960), đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo
của Đảng trong lãnh đạo và chỉ đạo toàn dân bắt tay vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, tiến dần từng bớc vững chắc, phù hợp với thực tiễn đất nớc và trình độ
nhận thức của nhân dân.
3. Đảng lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1961 1965).

×