MỘT VÀI KINH NGHIỆM DẠY HỌC PHẦN DI TRUYỀN VÀ BIẾN
DỊ TRONG SINH HỌC 9 THEO PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC TÍCH CỰC
A . ĐẶT VẤN ĐỀ
I . LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Năm học 2006 – 2007 là năm học đầu tiên thực hiện cuộc vận động :
“ Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” đó
cũng là một động lực, là chủ trương sát đúng trong đánh giá chất lượng học
tập của học sinh và đó cũng là trách nhiệm của người giáo viên trong tình
hình giáo dục luôn đổi mới và phát triển .
Hiện nay, trong thực tế giảng dạy vẫn tồn tại phương pháp truyền thụ
kiến thức có sẵn, giáo viên lên lớp chủ yếu là giảng giải , thuyết trình . Học
sinh chủ yếu là nghe, ghi, trả lời một số câu hỏi của thầy và học thuộc lòng
những điều thầy, cô truyền thụ.Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới
phương pháp dạy học trên cả nước. Mỗi thầy, cô giáo chúng ta phải có nhiệm
vụ xây dựng cho mình một phương pháp giảng dạy tích cực để khắc phục
phương pháp giảng dạy thụ động truyền thụ kiến thức một chiều
Với những lý do trên tôi suy nghĩ và đã mạnh dạn đưa ra: “Một vài
kinh nghiệm dạy học phần Di truyền và Biến dị trong Sinh học 9 theo phương
pháp dạy học tích cực”, đây là nội dung tôi đã nghiên cứu từ năm học 2005 –
2006 đến nay.
I . MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Đối với học sinh lớp 9 khi học đến phần Di truyền và Biến dị, đa phần
học sinh như bị chững lại, vì đây là loại kiến thức vừa mới, vừa trừu tượng rất
khó đối với học sinh, bên Với kết cấu chương trình Sinh học từ lớp 6 đến lớp
9 là phù hợp với mục tiêu giáo dục cạnh đó giáo viên còn gặp khó khăn về cơ
1
sở vật chất, phương tiện dạy học, tài liệu tham khảo … Như vậy, bằng
phương pháp dạy học tích cực để phần nào giúp học sinh vượt qua khó khăn
dần khắc phục và rút kinh nghiệm trong phương pháp dạy học để đạt được kết
quả trong năm học này và những năm học tiếp theo.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận phương pháp dạy học tích cực
2.Nghiên cứu tình hình thực trạng của địa phương,giáo viên, học
sinh, thực tế của nhà trường.
3. Nhiệm vụ vận dụng các biện vào đề tài nhằm giúp học sinh về :
-Kĩ năng làm việc với sách giáo khoa .
-Kĩ năng quan sát, phân tích
-Kĩ năng thực hành
-Kĩ năng làm việc độc lập, tư duy, khả năng phán đoán,
-Kĩ năng hoạt động nhóm ….
VI. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đổi mới phương pháp dạy học là trọng tâm của đổi mới giáo dục hiện
nay. Với “Một vài kinh nghiệm dạy học phần Di truyền và Biến dị trong
Sinh học 9 theo phương pháp dạy học tích cực”
V . PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài này được vận dụng vào chương trình Sinh học lớp 9 của cấp học
Trung học cơ sở
VI . PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Để thực hiện đề tài này tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu
chính như sau :
2
1 . Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục :
2. Phương pháp điều tra :
3. Phương pháp thống kê toán học.
B. PHẦN NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN
Phương pháp tích cực là một thuật ngữ rút gọn được dùng ở nhiều
nước, để chỉ những phương pháp giáo dục dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. “ Tích cực” trong phương pháp
tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không
hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.
Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hoá, tích cực hoá hoạt
động nhận thức của người học nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực
của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của
người dạy. Hình thành và phát triển tích cực là một điều kiện, đồng thời là kết
quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Rõ ràng là cách dạy chỉ
đạo cách học nhưng ngược lại thói quen học tập của trò có ảnh hưởng tới cách
dạy của thầy ..….
Trong đổi mới phương pháp phải có sự hợp tác của thầy và trò, có sự
phối hợp hoạt động dạy với hoạt đôïng học thì mới thành công. Thuật ngữ :
“ phương pháp tích cực”hàm chứa cả phương pháp dạy và phương pháp
học
Phương pháp dạy học tích cực được nêu ra những đặc trưng sau :
Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Trong
phương pháp tích cực, người học – đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là
chủ thể của hoạt động học – được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo
viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa
3
rõ chứ không phải tự động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt.
Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp
quan sát, thảo luận, thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ
của mình, từ đó vừa nắm được kiến thức, kĩ năng mới, vừa nắm được phương
pháp “làm ra” kiến thức kĩ năng đó, không rập theo khuôn mẫu sẵn có, được
bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo .
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ đơn giản truyền đạt kiến
thức mà còn hướng dẫn hành động.
Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, phương pháp tích
cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một
biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh – với sự bùng nổ thông tin,
khoa học kĩ thuật công nghệ phát triển như vũ bão – thì không thể nhồi nhét
vào đầu trẻ khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho trẻ
phương pháp học ngay từ bậc tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải
được chú trọn .
Trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng , thói quen, ý chí tự học
thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người , kết
quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội .
Vì vậy ngày nay, người ta nhấn mạnh mọi hoạt động học trong quá
trình dạy – học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học
chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ
tự học ở nhà sau bài học trên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn
trực tiếp của thầy .
Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Trong một
lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt
đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hoá về
4
cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết
kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học việc
đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định hiện trạng học và điều
chỉnh hoạt động dạy của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực
trạng học và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây thường quan niệm giáo viên giữ độc quyền đánh giá học
sinh . Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát
triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan đến điều này,
giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn
nhau – tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là một năng lực rất
cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường cần phải trang bị cho học
sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con
người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội thì việc kiểm tra đánh
giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã
học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết
những tình huống thực tế .
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành
người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ
để học sinh tự lực chiếm lĩnh kiến thức nội dung học tập, chủ động đạt các
mục tiêu kiến thức, kĩ năng,thái độ theo yêu cầu của chương trình.
Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn
nhưng hiểu được khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời
gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên
lớp với vai tròlà người gợi mở, xúc tác, động viên , cố vấn , trọng tài trong
các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên
phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có
5
thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến
ngoài tầm dự kiến của giáo viên .
II.CƠ SỞ THỰC TIỄN
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn sinh học ở cấp THCS và qua những
năm thực hiện thay sách đại trà từ lớp 6 đến lớp 9, tôi có những nhận xét như
sau :
Đối với các lớp thay sách 6,7,8,9 đã phát huy tính tích cực của học
sinh . Tuy nhiên tính tích cực chưa thể hiện đồng bộ đối với học sinh trong
lớp học . Điều này do việc học và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh chưa chu
đáo , học sinh khi trả lời câu hỏi còn dựa vào tóm tắt sách giáo khoa để trả lời.
Hoạt động thảo luận nhóm chưa bảo đảm tính trật tự, nghiêm túc, các thành
viên trong nhóm chưa thật sự cùng nhau bàn bạc mà còn dựa dẫm vào những
học sinh khá, giỏi …. Nhìn chung chưa phát huy được tính hoạt động tập thể.
Riêng lớp 9 khi tiếp xúc chương trình thay sách giáo khoa , học sinh phải đối
mặt với một khối kiến thức hoàn toàn mới , riêng phần Di truyền và Biến dị
kiến thức rất trừu tượng , đây là điểm bế tắc nhất của các em trong học sinh
học lớp 9 . Vì vậy, để phát huy tính tích cực học tập của học sinh gặp nhiều
khó khăn .
Những tồn tại trên được lý giải như sau : Về ý thức, hiện nay còn một
số học sinh có động cơ, thái độ học tập chưa tốt. Địa bàn nơi trường đóng
thuộc vùng nông thôn, mặt bằng dân trí chưa đồng đều, kinh tế chủ yếu là
nông nghiệp, đời sống của người dân còn nhiều khó khăn, việc chăm sóc và
quan tâm đến học hành của con cái chưa thật đúng mức ….
Về đội ngũ giáo viên : bề mặt kinh nghiệm trong giảng dạy còn mỏng ,
đời sống kinh tế vẫn còn khó khăn,tài liệu tham khảo dành cho giáo viên bộ
môn còn thiếu thốn, việc bồi dưỡng, tiếp thu chuyên đề còn hạn chế ….
Ngoài ra việc đánh giá và thi cử thực hiện chưa thật đều tay và nghiêm
túc cũng ảnh hưởng đến thái độ và động cơ học tập của học sinh .
6