MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.
2.
3.
4.
5.
Lý do chọn đề tài
Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Giới hạn của đề tài
Phương pháp nghiên cứu
PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng
3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp- biện pháp
b.Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
d. Kết quả khảo nghiệm
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
1
PHẦN I :
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội hiện đại phát triển như vũ bão về khoa học công nghệ thông tin, biến
động về kinh tế, giao thoa về văn hóa, nhiều vấn đề xã hội phức tạp liên tục nảy sinh
nay,... đã và đang làm thay đổi cuộc sống của con người. Bên cạnh những tác động tích
cực, còn có những tác động tiêu cực gây nguy hại cho con người, đặc biệt là trẻ em.
Nếu trẻ em không có những kiến thức cơ bản cần thiết để biết lựa chọn những giá trị
sống tích cực, không có kỹ năng để ứng phó, để vượt qua những thách thức, mà hành
động theo cảm tính, thì rất dễ gặp trở ngại, rủi ro trong cuộc sống.
Trẻ em ở lứa tuổi này đã hình thành cho mình phần lớn các thói quen – nếp sống,
những cơ sở nền tảng cho việc hình thành nhân cách cho trẻ về sau. Điều đó cho thấy
tầm quan trọng và sự khẩn thiết của việc rèn luyện - hình thành và phát triển kỹ năng
sống cho trẻ ngay từ bậc mầm non.
Kỹ năng sống như những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ,
giá trị, hành vi và thói quen lành mạnh. Vì vậy cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay
từ khi còn thơ bé sẽ giúp trẻ tự biết chăm sóc và bảo vệ bản thân tránh khỏi những
nguy hiểm. Trẻ có thể hoà nhập nhanh với cuộc sống xung quanh, biết cách phát triển
các mối quan hệ với mọi người, với thiên nhiên từ đó học hỏi và làm giàu thêm vốn
kiến thức, kinh nghiệm cũng như các kĩ năng cơ bản cho bản thân. Nếu thiếu các kĩ
năng sống cần thiết, trẻ sẽ khó tránh khỏi những lúng túng, sai phạm thậm chí gặp nguy
hiểm khi phải giải quyết các tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Việc trang
bị những kỹ năng sống phù hợp giúp trẻ có cơ hội phát triển nhân cách đầy đủ và đúng
hướng.
"Kỹ năng sống" là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử
phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình
huống của cuộc sống. Có thể nói kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến
kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người thiếu kỹ năng
sống thường bị vấp váp, dễ bị thất bại trong cuộc sống. Đây là giai đoạn trẻ học, tiếp
2
thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách, đồng thời trẻ rất dễ bộc lộ cảm
xúc, chưa có nhiều kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc, vốn hiểu biết về thế
giới xung quanh còn nhiều hạn chế do đó nhiều trẻ còn thụ động, không biết ứng phó
với các tình huống nguy cấp, không biết tự bảo vệ mình trước nguy hiểm hoặc tìm
kiếm sự giúp đỡ từ người khác….Do đó, việc giáo dục kỹ năng cho trẻ là rất cần thiết
bởi nó thúc đẩy sự phát triển cá nhân trẻ, giúp trẻ có nhận thức đúng và hành vi ứng xử
phù hợp ngay từ độ tuổi mầm non.
Với vai trò là một giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi luôn trăn trở, băn khoăn rất
nhiều về việc làm sao phải giáo dục cho trẻ biết ứng xử tốt với mọi tình huống, mọi
hoàn cảnh trong cuộc sống đời thường một cách văn minh và hồn nhiên đúng với độ
tuổi của trẻ. Một tập thể trẻ có kỹ năng sống tốt sẽ tạo nên môi trường sống ấm áp, hoà
thuận, vui vẻ, đoàn kết và phát triển tính làm việc theo nhóm ở nhóm lớp. Vì vậy tôi
chọn đề tài ‘ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuôi ở
trường mầm non”
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
a.Mục tiêu:
Trẻ em ở lứa tuổi này đã hình thành cho mình phần lớn các thói quen – nếp sống,
những cơ sở nền tảng cho việc hình thành nhân cách cho trẻ về sau. Điều đó cho thấy
tầm quan trọng và sự khẩn thiết của việc rèn luyện - hình thành và phát triển kỹ năng
sống cho trẻ ngay từ bậc mầm non.
Kỹ năng sống như những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ,
giá trị, hành vi và thói quen lành mạnh. Vì vậy cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay
từ khi còn thơ bé sẽ giúp trẻ tự biết chăm sóc và bảo vệ bản thân tránh khỏi những
nguy hiểm. Trẻ có thể hoà nhập nhanh với cuộc sống xung quanh, biết cách phát triển
các mối quan hệ với mọi người, với thiên nhiên từ đó học hỏi và làm giàu thêm vốn
kiến thức, kinh nghiệm cũng như các kĩ năng cơ bản cho bản thân. Nếu thiếu các kĩ
năng sống cần thiết, trẻ sẽ khó tránh khỏi những lúng túng, sai phạm thậm chí gặp nguy
hiểm khi phải giải quyết các tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Việc trang
3
bị những kỹ năng sống phù hợp giúp trẻ có cơ hội phát triển nhân cách đầy đủ và đúng
hướng.
b. Nhiệm vụ:
- Thực hiện nhiệm vụ năm học 2018-2019 tôi đã đảm nhiệm vai trò là một giáo viên
kiêm tổ khối và tôi luôn ý thức được công việc của mình trong sự nâng cao kiến thức,
trau dồi kinh nghiệm của bản thân cũng như giáo viên trong khối của mình. Khi lên
lịch báo giảng tôi luôn tích hợp giáo dục kỹ năng sống theo từng ngày, tuần và tháng.
Dạy kỹ năng ở mọi lúc, mọi nơi và kết hợp với tổ chuyên môn cùng phụ huynh để áp
giáo dục cho trẻ được tốt hơn và thiết thực hơn nữa.
Trong công tác giáo dục trẻ mầm non thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là
không thể thiếu. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ sớm có tác dụng giáo dục về mọi mặt
đối với trẻ như là ngôn ngữ, sự tự tin, biết các bảo vệ mình ….... Vì vậy mục đích của
đề tài này tìm ra phương pháp hữu hiệu nhất, phù hợp nhất để giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ đạt hiệu quả cao nhất.
3.Đối tượng nghiên cứu:
- Hai lớp chồi 1 và chồi 2. Ở độ tuổi này hầu như các cháu đã có thể hiểu gần hết tiếng
phổ thông vì vậy các cháu có thể giao tiếp với nhau thành thạo tạo ra nhiều mối quan
hệ ở trong lớp học và từ đó có thể theo dõi được trẻ áp dụng những kỹ năng được học
như thế nào.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu:
- Đối với trẻ ở độ tuổi từ 4- 5 tuổi tôi có những giới hạn và phạm vi nghiên cứu như
sau:
+ Nghiên cứu về các kỹ năng sống dành cho độ tuổi của trẻ từ 4- 5 tuổi, nhu cầu của trẻ
trong các hoạt động vui chơi, hoạt động học cũng như những lúc trẻ có tâm sự riêng.
+ Nghiên cứu về đồ dùng dạy học, cách sắp xếp không gian, thời gian, những tình
huống bất ngờ xảy ra trong quá trình trẻ đang đóng vai trò chính.
+ Sử dụng các loại nguyên liệu có sẵn tại địa phương sao cho hợp lý, gần gũi với trẻ,
qua đó giúp trẻ phát triển toàn diện một cách nhanh nhất.
5.Phương pháp nghiên cứu:
+,Nhóm phương pháp nghiên cứu
+,Phương pháp quan sát sư phạm
+,Phương pháp điều tra giáo dục
4
+,Phương pháp thực nghiệm sư phạm
+,Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm giáo dục
+,Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục
+,Nhớm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
+,Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
+,Phương pháp thống kê
PHẦN II:
NỘI
2. Cơ sở lí luận :
DUNG
Qua trực tiếp giảng dạy bản thân tôi thấy giáo dục kỹ năng sống nó có ý nghĩa rất
quan trọng . Kỹ năng sống tăng cường nhận thức, bồi dưỡng thái độ tình cảm và hình
thành hệ thống kỹ năng hành vi. Đặc biệt là nhiệm vụ hình thành hệ thống kỹ năng,
hành vi, nhiệm vụ này nhằm rèn cho trẻ những kỹ năng thực hiện các công việc lao
động đơn giản, hoạt động theo nhóm, các hành vi ứng xử đối với mọi người trong gia
đình; nhà trường và xã hội. Kỹ năng tham gia hoạt động tập thể, kỹ năng biết phối hợp
với mọi người cùng thực hiện hoạt động chung, nâng cao ý thức tự chủ, tự tin chủ động
giao tiếp với mọi người. Dựa vào những kỹ năng hành vi này để rèn luyện kỷ xảo, thói
quen đạo đức bền vững và tự quản trong sinh hoạt tập thể. Như vậy chúng ta phải biết
phát huy tận dụng nhiệm vụ này để góp phần rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ một cách
hiệu quả nhất.
Một số kỹ năng sống cần thiết đối với trẻ 4- 5 tuổi tuổi đó là:
– Sự tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát
triển sự tự tin trong trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về trong cá
nhân và trong mối quan hệ với người khác. Không ai sinh ra đã có ngay sự tự tin. Đó là
một đức tính chỉ có thể có được nhờ vào việc rèn luyện và học hỏi. Sự tự tin lớn dần
lên nhờ vào cảm giác được yêu thương, tôn trọng và thấy mình có giá trị. Một trẻ tự tin
sẽ “duy trì được khả năng học hỏi, khám phá trong học tập và luôn sẵn sàng đón nhận
những thách thức mới, mong muốn được yêu quý và đón nhận chính là khởi đầu tuyệt
vời để trẻ gần gũi hơn với mọi người.
5
– Kỹ năng hợp tác: Đây là một đức tính cần thiết đối với trẻ ở lứa tuổi này. Có
những việc chúng ta không thể tự làm được, nếu được người khác giúp đỡ thì ta sẽ
hoàn thành được việc ta muốn làm. Khi chúng ta kết hợp năng lực làm việc của mình
với người khác theo cùng một mục đích chung, đó chính là sự hợp tác. Sự hợp tác giúp
ta hoàn thành nhiệm vụ của mình nhanh chóng và dễ dàng hơn là tự mình làm lấy. Khả
năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cùng làm, cùng chơi với bạn bè, biết cảm thông và chia sẻ
với bạn.
– Kỹ năng giao tiếp: Một trong những kỹ năng cơ bản rất quan trọng đối với
trẻ nhỏ đó là kỹ năng giao tiếp. Cô giáo cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt
được ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức
của mình trong thế giới xung quanh. Đây là một kỹ năng có vị trí chính yếu khi so với
tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm
thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó trẻ sẽ trở nên dễ dàng học
và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ
sẵn sàng học mọi thứ.
– Kỹ năng xử lý tình huống: Trong cuộc sống có vô vàn các tình huống xảy ra
đòi hỏi con người phải giải quyết, ứng phó. Khả năng vận dụng các kỹ năng sống một
cách linh hoạt sẽ cho phép trẻ xử lý tốt các tình huống xảy ra với trẻ trong cuộc sống
hàng ngày.
– Sự tò mò và khả năng sáng tạo: Có lẽ một trong những kỹ năng quan trọng
nhất cần có ở trẻ giai đoạn này là sự khao khát được học hỏi, được khám phá. Giáo
viên cần sử dụng nhiều ý tưởng khác nhau để khơi gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng các tư liệu và các hoạt động mang tính chất khác lạ,
thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ cụ thể dễ đoán trước được.
– Kỹ năng giữ an toàn cá nhân: Trẻ biết kêu cứu khi gặp nguy hiểm, biết đề
nghị sự giúp đỡ của người khác khi cần thiết, nhận biết và không tự ý sử dụng những
đồ vật gây nguy hiểm, không đi theo và nhận quà của người lạ khi chưa được người
6
thân cho phép, biết ý nghĩa và có ý thức thực hiện theo quy định của một số biển báo
giao thông, biển báo nơi nguy hiểm.
Với trẻ 4-5 tuổi kỹ năng sống là những kỹ năng cần thiết để giúp trẻ phát triển
về các mặt thể chất, tình cảm-xã hội, ngôn ngữ, nhận thức. Giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ giúp trẻ được an toàn , khỏe mạnh, khéo léo bền bỉ, có khả năng thích ứng với thay
đổi của điều kiện sống, trẻ biết kiểm soát cảm xúc, thể hiện tình yêu thương, đồng cảm
với mọi người xung quanh. Giáo dục kỹ năng sống còn giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tôn
trọng người khác, có khả năng giao tiếp tốt với mọi người, trẻ ham hiểu biết, sáng tạo,
có những kỹ năng thích ứng với hoạt động học tập ở lớp một như : sẵn sàng hòa nhập,
vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ…
2.Thực trạng:
Trong năm học 2018 – 2019 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp chồi 4-5 tuổi
với số lượng trẻ là 27 cháu.
- Chương trình giảng dạy: Chương trình Đổi mới.
- Sĩ số: 27 cháu
- Nữ : 15 cháu
- HSDT: 25
- Nữ DT: 14
a. Thuận lợi :
- Thường xuyên nhận được sự quan tâm của Ban giám hiệu trong công tác bồi dưỡng
chuyên môn như: Dự giờ góp ý tiết dạy
- Phòng học thoáng mát, đủ diện tích cho trẻ hoạt động
- Có kiến thức ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác chăm sóc giáo dục trẻ .
-
Luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm của mình về tinh thần tự học, tự bồi dưỡng để nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; làm đồ dùng, đồ chơi để phục vụ vào hoạt động
học và chơi của trẻ .
- Tỷ lệ trẻ đi học chuyên cần cao. Hầu hết trẻ khỏe mạnh, thông minh, nhanh nhẹn.
7
- Phụ huynh quan tâm đến con em mình, có trách nhiệm phối hợp giữa gia đình và nhà
trường trong việc dạy dỗ các cháu và thường xuyên đóng góp những nguyên vật liệu để
làm đồ dùng dạy học và đồ chơi và tham gia vào các hoạt động của nhà trường, của
nhóm lớp.
- Trường, lớp có không gian hoạt động an toàn cho trẻ, có đủ đồ dùng đồ chơi cần thiết
trong các hoạt động giáo dục.
- Trẻ học đúng độ tuổi, khoẻ mạnh và rất hào hứng , sôi nổi với các hoạt động do cô tổ
chức, lĩnh hội nhanh các kiến thức cô giáo truyền đạt.
- Gíao viên có trình độ chuyên môn đại học, được tập huấn về nội dung dạy kỹ năng
sống cho trẻ mầm non do Phòng giáo dục tổ chức và qua các buổi bồi dưỡng chuyên
môn tại trường, tích cực nghiên cứu tài liệu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
2. Khó khăn:
- Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều, do đó cùng một thời gian và biện pháp
dạy trẻ các nội dung kỹ năng sống nhưng kết quả trên trẻ đạt chưa cao
- Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động ,một số trẻ lại
quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng dẫn của cô, kỹ năng sống
của trẻ còn nhiều hạn chế.
- Thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ còn ít, không dành thời gian trò chuyện để tìm
hiểu tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo dục trẻ mà chỉ biết chiều theo mọi đòi hỏi của
trẻ, trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu trẻ cần.
Ví dụ: Trẻ chỉ cần đòi mua đồ dùng hay đồ chơi nào đó là được đáp ứng ngay mà
không biết điều đó có phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của bố mẹ hay không, khi được
món đồ chơi đó trẻ cũng không biết cảm ơn bố mẹ….Đây cũng là một trong những
nguyên nhân làm cho trẻ thiếu kỹ năng sống
Mặc dù nhà trường đã hỗ trợ và đầu tư, tuy nhiên kinh phí trong việc tổ chức một số
các hoạt động ngoại khoá … nhằm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ còn hạn chế và chưa
thường xuyên.
3. Giải pháp- Biện pháp:
8
c. Mục tiêu của Giải pháp- Biện pháp
* Tìm tòi, bồi dưỡng bản thân, chia sẻ với đồng nghiệp.
Để có thể thực hiện tốt giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi trước hết giáo
viên mầm non không chỉ nghiên cứu nắm vững mục đích yêu cầu của hoạt động mà
giáo viên còn cần phải nắm chắc được các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp
trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không bị gò bó, áp đặt, giúp trẻ hiểu bài sâu
và vận dụng những điều đã học vào thực tế hàng ngày của trẻ. Vì vậy, để giúp trẻ 4 – 5
tuổi lớp tôi có được những kỹ năng sống cơ bản đó thì sự nhiệt tình, sáng tạo và yêu
nghề đòi hỏi tôi phải không ngừng đọc và nghiên cứu kỹ chương trình chăm sóc và
giáo dục trẻ mầm non 4- 5 tuổi.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp- biện pháp:
- Tham gia các đợt kiến tập và các chương trình chuyên đề do phòng tổ chức.
- Tìm đọc tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ trên sách báo, tạp chí mầm
non.
+ Sách hướng dẫn các hoạt động phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ mầm non
theo bộ chuẩn phát triển trẻ 4-5 tuổi.
+ Sách giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non{ nhà xuất bản đại học
quốc gia}.
+ Sách bé thực hành các tình huống giáo dục kỹ năng sống dành cho trẻ mẫu giáo.
+ Sách các hoạt động phát triển kĩ năng xã hội dành cho trẻ mẫu giáo.
Sách phương pháp giáo dục giá trị kỹ năng sống…
+ Xem các chương trình truyền hình như quà tặng cuộc sống, cuộc sống quanh ta
trên các kênh truyền hình như VTV3 vào tối chủ nhật hàng tuần…
Trên thực tế hiện nay ở trường mẫu giáo hoa ban chúng tôi, đội ngũ giáo viên còn
chưa được đồng đều. Nhiều giáo viên đang hợp đồng ngắn hạn tuy có tuổi trẻ nhưng
kinh nghiệm lại chưa cao. Qua kiểm tra, đánh giá đầu năm có rất nhiều trẻ còn chưa
biết chào cô, chào khách, chưa có kỹ năng giao tiếp, chưa có kỹ năng tự phục vụ…
Hoạt động dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường tôi nói chung và ở lớp tôi nói riêng chưa
thực hiện tốt, chưa lồng ghép tích hợp vào các hoạt động, giáo viên hầu như không
mấy để ý và đi sâu vào hoạt động này. Tôi nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng vì
nó quyết định đến nhân cách của trẻ sau này. Chính vì vậy qua việc tự bồi dưỡng bản
thân, học hỏi qua truyền thông, báo đài, tài liệu cũng như xem các phương tiện thông
tin hiện đại, tôi đã nắm vững được các phương pháp để dạy trẻ một số kỹ năng cơ bản
nhất. Nhận thấy đây là việc quan trọng và cần thiết đối với trẻ nên trong các buổi họp
sinh hoạt chuyên môn của khối tôi chia sẻ với đồng nghiệp về các biện pháp “ Dạy kỹ
9
năng sống cho trẻ”. Để dạy trẻ được những kỹ năng sống thì việc đầu tiên cô giáo phải
là tấm gương để trẻ soi vào, để trẻ học làm người. Chính vì vậy, không phương pháp
nào hiệu quả bằng phương pháp “ Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Những
người dạy nội dung giá trị và kỹ năng sống càng cần là tấm gương mẫu mực về hành
vi, lời ăn, tiếng nói, cách ứng sử, cách giải quyết vấn đề…Đây là những yêu cầu rất cao
và đòi hỏi các cô giáo cũng luôn phải tự rèn luyện mình để công tác giáo dục trẻ hiệu
quả hơn. Và tôi đưa ra những điều mà giáo viên nên và không nên trong việc giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ đó là:
- Không nói dài và nói nhiều.
- Không luôn đưa ra lời đáp có sẵn mà để trẻ tự tìm tòi
- Không vội vàng phê phán đúng, sai như một quan tòa nhưng kiên trì giúp trẻ tranh
luận và kết luận.
Ví dụ: Khi cô nhìn thấy bé này đẩy bé khác cô hãy nói với bé bị đẩy, nói một cách
cương quyết, nhưng phải ôn tồn với bạn mình như: “ Mình không thích bạn xô đẩy
mình như vậy, cánh tay là để ôm nhau, không phải là để đẩy nhau”.
- Không mớm ý cho trẻ phát biểu ý kiến mà người lớn trông đợi.
- Không nên bắt trẻ hoạt động liên tục mà phải để dành thời gian và khoảng chống cho
trẻ suy nghĩ.
- Thỉnh thoảng cô giáo có thể tổng kết, kết luận nhưng với thái độ thư giãn, thoải mái,
gợi mở.
Ví dụ: “ Các con đã tự mình làm được nhiều việc mà không phụ thuộc vào người khác,
các con là những em bé rất giỏi các con rất sứng đáng nhận được một tràng pháo tay”.
Điều này sẽ giúp cho trẻ tự tin hơn, dám tự tìm tòi và suy nghĩ, giám dua ra ý kiến của
mình.
- Quả thật việc thay đổi nếp cũ là rất khó, nhưng trong những buổi sinh hoạt tôi thường
đưa những giá trị của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như:
- Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ.
- Kiên nhẫn và có kỹ năng lắng nghe tốt.
- Ý thức về bản thân và sẵn sàng học những kỹ năng mới.
- Có kinh nghiệm sống và biết soi xét
- Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình lên trẻ.
- Thực hành tư duy sáng tạo và khai phá
- Biết sắp xếp phòng, nhóm lớp tạo bầu không khí hấp dẫn
- Biết chủ động phương pháp giáo dục. Tác động kịp thời khi nhóm bế tắc
- Biết tạo bầu không khí trò chuyện sôi nổi.
10
Ví dụ: Các con ơi cô con mình vừa hoạt động ngoài trời về, bây giờ sẽ đến hoạt động
gì các con? Nào chúng ta cùng chuẩn bị bắt đầu.
- Biết nắm phản hồi của nhóm khi hoạt động kết thúc…
* Biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
Cách giao tiếp không chỉ quan trọng trong những năm trẻ đi học mà còn rất quan
trọng đối với cuộc sống sau này của trẻ. Kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng nền tảng để
giúp trẻ nhận biết giá trị sống và hình thành kỹ năng sống. Vì thế cần quan tâm và giúp
trẻ một cách tự nhiên từng bước một trong suốt chiều dài phát triển nhân cách của trẻ.
* Kỹ năng trẻ giao tiếp với bạn bè.
Lớp học chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội chúng ta ngày nay, là nơi
đa văn hóa, đa tính cách và cũng đa sở thích. Mô hình này tạo cơ hội cho giáo viên có
thể dạy cho trẻ học cách chấp nhận và có cơ hội để khám phá những sở thích, những
mối quan tâm chung của nhau.
Để giúp trẻ phát triển kỹ năng chơi với các trẻ khác tôi tạo môi trường cho trẻ giao
tiếp với nhau và tạo tình huống cho trẻ tự giải quyết. Và tôi đưa ra “tiêu chí” không
tranh giành đồ chơi với bạn. trong tiêu chí này tôi lên kế hoạch rèn cả lớp nói chung,
cứ vào các buổi chiều bình bầu và nhận xét buổi chơi, tôi cho cả lớp nhận xét xem
trong giờ chơi bạn nào còn tranh giành đồ chơi thì bạn đó sẽ không được cắm cờ, cuối
tuần bạn nào có nhiều cờ sẽ được bé ngoan, ngoài ra trong các giờ chơi, giờ đón trả trẻ,
trẻ nào có biểu hiện hành vi sai trái là tôi giải thích và sửa ngay cho trẻ, việc làm đó rất
tốt đối với trẻ vì trẻ biết được điều gì nên làm và điều gì không nên làm và nhân cách
sống của trẻ sẽ được phát triển toàn diện hơn.
Ngoài ra tôi còn sưu tầm một số câu chuyện, bài thơ mang tính giáo dục. Giúp trẻ
thấy các nhân vật trong câu truyện , bài thơ khi giao tiếp với nhau như thế nào? Bài
thơ: “ Biết cảm ơn xin lỗi”
Cảm ơn xin lỗi
Dù với ai cũng phải
Ai giúp cho cái gì
Xin lỗi cho đàng hoàng
Nhớ cảm ơn ngay đi
Muốn trở thành bé ngoan
Lỡ làm điều sai trái
Phải biết làm như vậy.
- Tính cách mỗi trẻ mỗi khác, có những trẻ hoạt bát, hiếu động nhưng cũng có những
trẻ chậm chạp, thụ động hay quá nóng nảy… Vì thế giáo viên cần phải biết rõ tính cách
của từng trẻ để có thể cho các trẻ chơi với những người bạn thích hợp với cá tính nhằm
tránh sảy ra những va chạm về tính cách. Vì vậy trước khi chơi tôi thường cho trẻ đọc
bài thơ: “Giờ chơi của bé”
Giờ chơi đến rồi
Chờ bạn cùng chơi
11
Bạn lấy đồ chơi
Cô thấy cô mừng
Tôi ra trước nhé
Cô khen ngoan thế.
Ngoài ra tôi còn dạy trẻ “ Giao tiếp” bằng mắt và nở một nụ cười thân thiện, tự
nhiên. Dạy trẻ phải luôn luôn giữ lời hứa khiến cho buổi nói chuyện trở nên thật thoải
mái thật chân thành khi tham gia những hoạt động vui chơi ở lớp.
Hình ảnh: Các bé lớp C1 giao tiếp với nhau trong khi chơi
* Kỹ năng trẻ chào hỏi khi giao tiếp với người lớn tuổi.
Như ở phần đặt vấn đề tôi đã nêu các cháu hầu hết chưa có các kỹ năng, giao tiếp,
kỹ năng chào hỏi… lí do phụ huynh đều là thuần nông và điều quan trọng họ chưa có
khái niệm dạy kỹ năng cho trẻ, mà chủ yếu là nuông chiều với suy nghĩ đơn giản là trẻ
nhỏ chưa biết gì, chiều nó chút cũng không sao. Nhưng điều đó sẽ tạo nên những hành
vi và nhận thức sai lệch của trẻ mà dần dần sẽ biến thành thói quen khó thay đổi.
Vì vậy đối với trẻ người lớn cần tập cho trẻ những lời nói lễ phép và tự nhiên,
không quá màu mè và hình thức, cũng không được phép cộc lốc và xuồng xã. Điều này
trẻ sẽ học được một cách hiệu quả thông qua cách giao tiếp và ứng sử của bố, mẹ,
người thân trong gia đình, cô giáo và người khác.
Chúng ta sẽ không thể kiểm soát được khi người lớn trong gia đình nói năng thô lỗ và
không có hành vi lịch sự tối thiểu. Trong xã hội hiện nay với công nghệ tiên tiến, phát
triển không ngừng về mọi mặt, thì những kỹ năng giao tiếp, chào hỏi tối thiểu lại mất
dần đi. Và tôi quyết định đưa kỹ năng chào hỏi
và kỹ năng giao tiếp vào những giờ đón, trả trẻ:
12
Ví dụ: Thời gian đầu nhiều trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi và giao tiếp với cô cùng bạn
bè, tôi chủ động chào trẻ trước “ cô chào bạn Gia Bảo” Thì lúc đó trẻ sẽ biết đáp lại câu
“ Con chào cô ạ’ và tôi nhắc trẻ con chào bố, mẹ đi để vào lớp với cô nào. Hoặc khi trẻ
đang chơi mà có khách đến lớp tôi nhắc trẻ “ các con chào bác, bà… đi nào” cứ như
vậy dần dần trẻ có thói quen chào cô, chào bố mẹ và chào khách, khi đến lớp, khi ra
về. Còn với trẻ chưa có kỹ năng giao tiếp nhiều với cô, với bạn tôi thường xuyên gần
gũi trẻ hơn, trò chuyện với trẻ nhiều hơn về những người thân của trẻ, về thế giới xung
quanh từ đó trẻ sẽ mạnh dạn hơn khi tiếp xúc và giao tiếp với cô, với bạn bè và người
khác.
Hình ảnh: Trẻ đã có thói quen chào hỏi khi đến lớp
Ngoài ra tôi còn sưu tầm những bài thơ , câu truyện, bài hát có nội dung giáo dục
về lễ giáo với nội dung cụ thể như:
Bài thơ: Che mưa cho bạn, Phải là hai tay, Cảm ơn xin lỗi, và phô tô gửi cho phụ
huynh để phụ huynh nắm được và giúp trẻ học thuộc các bài thơ đó. Qua đó giúp trẻ có
những hành vi và kỹ năng tốt qua các bài thơ, câu truyện “ Bà ốm, yêu bà, Thương
ông, bó hoa tặng cô, bé mai đến trường…Tôi cũng tự sáng tác được một số bài thơ giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ như bài thơ. “ Bé ngoan”
Bé thật là ngoan
Chào các bạn yêu
Mỗi khi đến lớp
Đến lớp thật vui
Bé khoanh tay chào
Học bao nhiêu điều
Chào cô chào mẹ
Thích ơi là thích.
13
Ngoài ra tôi còn cho trẻ tham gia trò chơi đóng vai để trải nghiệm những kỹ năng chào
hỏi và giao tiếp.
Tạo tình huống cụ thể để giúp trẻ giải quyết và chọn cách giao tiếp với người lớn cho
phù hợp.
Kỹ năng sống như những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, giá
trị, hành vi và thói quen lành mạnh. Vì vậy cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay từ
khi còn thơ bé sẽ giúp trẻ tự biết chăm sóc và bảo vệ bản thân tránh khỏi những nguy
hiểm. Trẻ có thể hoà nhập nhanh với cuộc sống xung quanh, biết cách phát triển các
mối quan hệ với mọi người, với thiên nhiên từ đó học hỏi và làm giàu thêm vốn kiến
thức, kinh nghiệm cũng như các kĩ năng cơ bản cho bản thân. Nếu thiếu các kĩ năng
sống cần thiết, trẻ sẽ khó tránh khỏi những lúng túng, sai phạm thậm chí gặp nguy
hiểm khi phải giải quyết các tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Việc trang
bị những kỹ năng sống phù hợp giúp trẻ có cơ hội phát triển nhân cách đầy đủ và đúng
hướng.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Căn cứ vào tình hình thực tế về số lượng trẻ, yêu cầu về cơ sở vật chất như bàn ghế, đồ
dùng đồ chơi theo Thông tư 02 của Bộ giáo dục đào tạo, vào đầu năm học tôi đã rà
soát, kiểm kê và tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường trang bị thêm thiết bị, đồ
dùng dạy học
Và 1 số tài liệu có nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non cho tất cả giáo
viên Vd: tài liệu “ Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non”, giáo dục
kỹ năng sống trong nền giáo dục hiện nay ….).
Bản thân đã thảo luận với giáo viên trong lớp về thực trạng và giải pháp ở lớp mình
trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống cần thiết, qua đó giúp giáo viên hiểu được rằng
chương trình học thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức trong suốt năm học và
thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, giáo viên biết
cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội của trẻ. Vì thế, khi trẻ tiếp
thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn,
14
thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào hoạt động một cách tốt
nhất.
Tham mưu với ban giám hiệu trang trí sân trường bằng các khẩu hiệu nhắc nhở giáo
viên, người lớn phải gương mẫu như: “Yêu thương, tôn trọng trẻ, giữ lời hứa với trẻ”;
“Mỗi cô giáo là tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo” bằng chính hình ảnh
giáo viên và học sinh của trường, đặc biệt chú ý đưa hình ảnh đẹp của các trẻ hiếu
động, cá biệt để từ đó giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi, giúp trẻ thể hiện bản thân và luôn
biết giữ gìn, là điều kiện để khen ngợi sự cố gắng của trẻ.
Tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường tổ chức cho giáo viên thi làm đồ chơi dân
gian; sáng tác bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho trẻ ở lứa tuổi mầm non.
Tổ chức các hội thi, các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với
lứa tuổi của trẻ mầm non. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa
dạng và phong phú của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân trong
việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho trẻ.
Ví dụ: Tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ hoạt động ngoài trời
vào các ngày thứ tư, sáu; riêng chiều thứ hai hàng tuần, trẻ được nghe bài hát quốc ca ,
giúp trẻ có lòng tự hào dân tộc , ngoài ra trẻ xem các kịch bản rối qua các câu chuyện
cổ tích, giao lưu hỏi đáp giữa các trẻ về nội dung các câu chuyện)
* Xác định các kỹ năng cơ bản để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
- Hình thành kỹ năng tự tin:
Một trong những kỹ năng đầu tiên mà tôi cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự
trọng của trẻ. Kỹ năng này giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như
trong mối quan hệ với những người khác, trẻ tự tin làm theo ý tưởng, tự tin bày tỏ cảm
xúc của mình với người khác mà không e ngại. Kỹ năng sống này giúp trẻ nhanh chóng
thực hiện được mong muốn của mình đồng thời có khả năng hòa nhập với cộng đồng.
Luôn tôn trọng, giúp trẻ xây dựng hình tượng của chính bản thân mình: Từ đặc điểm
sự tự tin của trẻ bắt nguồn từ lòng tự tôn, một trẻ không có sự tự tôn thì không thể có
15
sự tự tin. Do đó , tôi luôn tôn trọng trẻ, cổ vũ và khích lệ những khả năng của trẻ mọi
lúc mọi nơi một cách kịp thời.
Ví dụ: Trong các hoạt động những trẻ nào nhút nhát, chưa tự tin về bản thân tôi tim
hiểu rõ nguyên nhân, khi tổ chức tôi cũng đã có những lời động viên, cỗ vũ … kịp thời
giúp trẻ tự tin và hòa đồng hơn trong các hoạt động với các bạn khác
Hình thành cho trẻ lòng nhân ái yêu thương con người, tình thương bạn bè, ngừoi thân,
cảm thông, chia sẻ với những người khó khăn, nghèo khổ
Ví dụ : Khi cho trẻ đọc bài thơ “ Thỏ bông bị ốm” hỏi trẻ khi trong lớp mình có bạn bị
ốm các bạn sẽ làm gì? ….. giáo dục trẻ chia sẻ, giúp đỡ bạn trong lúc bạn gặp khó
khăn. Trong hoạt động ăn trẻ biết tự lập như lấy thìa, bát, khi ăn mời cô mời bạn, lấy
đúng suất của mình, ăn hết suất và động viên bạn mình cùng ăn.
Trẻ vui vẻ chào cô khi đến lớp học
Trong hoạt động góc tôi tổ chức các góc liên kết với nhau, trẻ được tự tin giao tiếp,
thảo luận với nhau, vì thông qua hoạt động này trẻ biết được cuộc sống của người lớn
là như thế nào? từ đó hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Tôi phân công những trẻ nhanh
16
nhẹn làm thủ lĩnh để giúp đỡ những trẻ yếu hơn, phân công nhiệm vụ cho nhau để hoàn
thành tốt nhiệm vụ ..
Ví dụ: Trong góc phân vai làm cô giáo. Minh Hằng sẽ đóng vai làm cô giáo và các trẻ
khác làm học sinh. Khi đến lớp trẻ phải biết chào cô, chào các bạn, biết nghe lời người
lớn…
Một giờ hoạt động góc ( góc phân vai)
-
Hình thành kỹ năng hợp tác:
Giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ mầm non là rất cần thiết. Thực tế cho thấy trẻ trong
lớp tôi có nhiều việc không thể tự làm được nếu không có cô giúp đỡ. Khi trẻ được bạn
giúp đỡ và khi trẻ giúp đỡ được bạn trẻ sẽ nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Qua đó trẻ có niềm vui, có bạn bên cạnh để chia sẻ công việc, giúp phát triển kỹ năng
và tình cảm xã hội của trẻ.
Để giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và làm việc theo
nhóm với các trẻ khác trong tất cả các hoạt động.
17
Trên lớp học, tôi tổ chức các hoạt động vui chơi như : tổ chức trò chơi tập thể, chia lớp
thành nhiều đôi nhỏ, phân công nhiệm vụ của từng nhóm, tìm ra vai trò của người lãnh
đạo trong nhóm…Qua đó, trẻ không chỉ được tự do khám phá, sáng tạo, mà trẻ còn tự
biết quan tâm, chia sẻ với bạn bè xung quanh với mọi người, và trẻ cũng tự tìm được
sự hứng thú, vui vẻ trong quá trình học tập.Việc mỗi trẻ em đều được trang bị các kỹ
năng sống cần thiết điều đó chắc chắn sẽ giúp các bé ngày càng tự tin hơn và có tính tự
lập ngay từ khi còn nhỏ điều đó thực sự cần thiết và là nền tảng vững vàng cho trẻ phát
triển tốt nhất.
Ví dụ: Cho trẻ thảo luận theo tổ để cùng nhau nhận xét về đặc điểm của 1 đối
tượng nào đó trong các hoạt động, tạo những cảm nhận giúp trẻ tôn trọng những quyền
lợi của trẻ khác qua việc chia sẻ, hướng dẫn trẻ cư xử lịch sự với bạn khác.
Trẻ thảo luận theo nhóm về phương tiện giao thông đường bộ
- Tổ chức 1 số hoạt động phát triển kỹ năng hợp tác như:
+ Thảo luận về sự hợp tác: Khi tổ chức một hoạt động, một tiết học thì tôi thường
trò chuyện với trẻ có sử dụng câu hỏi như “Con và bạn đã cùng nhau làm những việc
gì?Trò chơi nào con thích hơn khi có bạn cùng chơi? Tại sao con phải hợp tác với bạn,
18
một mình con có làm được việc này không? Điều gì con cảm thấy vui khi hợp
tác?....Qua việc trò chuyện giúp trẻ hiểu hợp tác là có nhiều người cùng thực hiện 1
việc gì đó, cùng vui thích khi làm việc.
Ví dụ: Trò chơi “ Lộn cầu vồng”: Cho trẻ tìm thêm 1 bạn để ghép đôi với nhau. Các
đôi ngồi quay mặt vào nhau, nắm lấy tay nhau, cùng hát, cùng ngồi xuống hoặc cùng
đứng lên mà không buông tay nhau ra.
+ Trưng bày các hình ảnh sưu tập: có nội dung mọi người cùng chơi, làm việc với
nhau và cho trẻ thảo luận nội dung của các hình ảnh đó.
Khi cho trẻ chơi trò chơi đóng kịch trẻ biết cần phải có sự hợp tác của nhóm bạn, trẻ
thảo luận phân vai, chọn vai….từ đó tôi đã hình thành cho trẻ thấy được sự hợp tác
nhóm bạn là rất quan trọng
+ Cho trẻ tập đóng kịch: theo nội dung các câu chuyện trong chương trình giáo
dục mầm non: Đóng kịch “ Qủa bầu tiên …Đóng kịch theo bài thơ “ gấu qua cầu”, theo
truyện “đôi bạn tốt”…
Trẻ vào vai các nhân vật trong câu chuyện
- Hình thành kỹ năng tự nhận thức bản thân :
- Kỹ năng tự nhận thức là trẻ tự nhận diện về bản thân, phát triển quan niệm tích
cực về bản thân. Trẻ nhận thức sự khác nhau giữa các trẻ, nhận thức mỗi cá nhân có
điểm riêng biệt cần được tôn trọng, phát triển những suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
19
Kỹ năng tự nhận thức giúp trẻ hiểu đúng mình là ai? Trẻ yêu gì? Điểm mạnh và sở
thích của mình là? Không thích điều già? Và nguyên nhân vì sao lại như thế? để kết
nối chúng vào những lĩnh vực liên quan và phát huy chúng một cách tối đa. Trẻ nhận ra
điểm yếu của mình cũng giúp trẻ dự đoán được những khó khăn trong quá trình hoạt
động từ đó tìm ra cách khắc phục khó khăn đó.
- Để hình thành kỹ năng tự nhận thức tôi đã thực hiện 1 số biện pháp sau:
+ Trò chuyện giúp trẻ tìm hiểu về bản thân thông qua 1 số câu hỏi như: Con là ai?
Con thấy mình có những đức tính tốt đẹp nào? Con thích gì và không thích gì? Con có
mong muốn gì? Con sẽ làm gì để đạt được mong muốn đó?con có những điểm gì khác
với bạn?.....
+ Chấp nhận sự đa dạng của trẻ và giúp trẻ chấp nhận lẫn nhau: Tôi luôn tôn trọng
cá tính của từng cá nhân trẻ trong lớp, đồng thời có biện pháp giáo dục để hạn chế
điểm yếu, phát huy điểm mạnh của trẻ. Tôi nhận thấy rằng khi tôi tôn trọng tất cả các
trẻ thì trẻ trong lớp sẽ noi gương theo cô, biết tôn trọng các bạn lớp mình.
Ví dụ: Trong lớp có một trẻ không mạnh dạn, ít trao đổi với bạn , trẻ trong lớp
không chơi cùng với bạn đó, tôi sẽ trò chuyện để các cháu thấy rằng bạn đó có rất
nhiều điểm tốt như ngoan, chăm đi học, bạn hát hay…các con cần quan tâm giúp đỡ và
chia sẻ với bạn. Đồng thời, bản thân tôi cũng luôn đối xử công bằng, yêu thương, tôn
trọng trẻ đó để trẻ trong lớp noi theo.
+ Đặt yêu cầu phù hợp với nhận thức của trẻ và khích lệ trẻ hoạt động để đạt mục
tiêu đó: Tôi luôn đặt yêu cầu cho tất cả các trẻ trong lớp, Với sự hướng dẫn của tôi,
từng trẻ đã có khả năng tham gia hầu hết các hoạt động . Trong bất kì hoạt động nào tôi
cũng khuyến khích để kích thích tính tò mò khám phá của trẻ chứ không ép buộc mọi
trẻ phải tham gia. Tôi gợi ý để trẻ thử thách với chính mình. Thay vì cạnh tranh với trẻ
khác, tôi khuyến khích trẻ cạnh tranh với chính mình.
Ví dụ: Ném xa có sử dụng thước đo, xếp hình bằng đồng hồ bấm giây… những
lần hoạt động sau sẽ tốt hơn lần những lần hoạt động trước…
20
Thành công là một trong những yêu tố quan trọng tác động đến sự phát triển ý thức bản
thân. Trẻ ở lứa tuổi này cần trải qua thành công( theo khả năng của trẻ) để trẻ có cảm
giác tự tin rằng mình làm được những điều tốt. Thực tế tiết học phát triển thể chất “
Ném và bắt bóng từ trên cao xuống” tôi thấy trong lớp có cháu Hồ Vân Anh, Nguyễn
thị Hoa mơ, Phạm Nguyễn Tường vy sợ thất bại đến nỗi không dám thử một hoạt động
nào đó, lúc này tôi sẽ giúp trẻ đạt được thành công trong việc đó từng bước, động viên
trẻ tập nhiều lần, đồng thời khen ngợi khả năng đó để trẻ thêm tự tin vào mình. Trẻ sẽ
tự hào về thành công của mình nếu cô giáo cho trẻ thấy rằng cô tự hào về trẻ.
+ Tổ chức một số hoạt động, trò chơi phát triển kỹ năng tự nhận thức cho trẻ:
Ví dụ: Hoạt động “Hái hoa dân chủ”:Trẻ chọn 1 bông hoa theo ý thích trong đó có
nội dung “ Hãy nói cho chúng tôi về….”( có thể là gia đình, đồ chơi bạn thích, món ăn
bạn thích…) và tôi sẽ đọc to câu hỏi đó cho cả lớp nghe, trẻ hái hoa sẽ nói về điều đó
theo hiểu biết của mình.
Hoạt động “ có điều gì trong một cái tên”: Trẻ nhỏ thường rất tự hào về cái tên của
mình, do đó tất cả hoạt động nào liên quan đến cái tên của trẻ đều làm trẻ hứng thú.
Hầu hết bố mẹ đặt tên cho con đều có 1 ý nghĩa, yêu cầu trẻ hỏi bố mẹ về điều này, sau
đó tôi phát cho mỗi trẻ 1 tờ giấy và bút màu để trẻ có thể vẽ lại điều đó vào bức tranh
và trang trí cho tranh của mình. Khi đã thực hiện xong có thể cho trẻ diễn tả lại ý nghĩa
của bức tranh mà trẻ đã vẽ.
- Hình thành kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội:
- Thực tế tại lớp mẫu giáo lớn tôi chủ nhiệm kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội
của trẻ còn hạn chế. Nhìn chung trẻ chưa chủ động thể hiện tình cảm hay trao đổi với
cô với bạn và các mối quan hệ với những người xung quanh ở mức độ gia đình, anh
em, để đạt được kết quả tốt tôi dùng một số biện pháp như sau:
+ Dạy trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành vi của mình:
Tôi làm cầu nối giúp trẻ biểu lộ cảm xúc của mình và biết lắng nghe ý kiến của người
khác. Nếu trẻ bất hòa với bạn khác tôi thường chỉ cho trẻ thấy trẻ chưa đúng ở điểm
nào, điểm nào cần khắc phục và điểm tốt nào cần phát huy. Cho trẻ thấy những mối bất
21
hòa thường dẫn đến những cảm xúc tiêu cực như tức giận, sợ hãi, còn nếu chơi đoàn
kết với bạn sẽ tạo nên nhưng tình cảm tốt đẹp và tinh thần thoải mái, vui vẻ…
Ví dụ: Có 2 trẻ đánh nhau, điều đầu tiên cần làm là hỏi hai trẻ lý do vì sao lại như
vậy để từng trẻ có cơ hội thể hiện suy nghĩ bằng lời nói về sự việc đó. Sau đó giải thích
cho trẻ hiểu bạn nào đúng, bạn nào chưa đúng. Giáo dục trẻ lần sau chơi đoàn kết với
bạn hơn.và trẻ nào chưa đúng thì phải có thái độ xin lỗi trẻ đúng. Như thế mới tạo cảm
giác thỏa mãn trong trẻ
+ Dạy trẻ cách giải quyết vấn đề: Mỗi tình huống khó khăn mà trẻ gặp phải sẽ có
tác dụng giúp trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm sống thông qua việc tìm cách giải quyết
vấn đề đó. Cho nên với mỗi tình huống xảy ra hàng ngày tôi đều tận dụng cho trẻ quan
sát và gợi ý để trẻ tìm ra cách giải quyết một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
+ Tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ khác: Nếu trẻ tương tác
với nhau một cách phù hợp, qua đó trẻ sẽ học được các quy tắc ứng xử trong xã hội. Vì
vậy, tôi thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể cho trẻ trong lớp như tổ chức sinh
nhật, biểu diễn văn nghệ tổng hợp cuối chủ đề, hoạt động góc…để các trẻ được làm
việc theo nhóm với nhau. Trong quá trình hoạt động luôn khuyến khích trẻ giao tiếp
thỏa thuận với bạn cùng chơi,biểu lộ mong muốn một cách thích hợp, biết giúp đỡ bạn
trong khi chơi.
+ Tổ chức 1 số trò chơi :
Giúp trẻ biết lắng nghe người khác nói. Ví dụ: Hoạt động“ điện thoại bạn bè”: Cho 2
trẻ chơi gọi điện cho bạn ( 2 bạn ở gần nhau). Theo dõi quá trình trò chuyện của trẻ.
Sau đó hỏi trẻ : Hai người cùng nói 1 lúc thì có nghe rõ điều gì không? Khi nào con
nghe thấy tiếng bạn? Con cảm thấy thế nào khi nghe được, khi không nghe được?
Trò chơi “ Khỉ ăn chuối” qua trò chơi trẻ biết khi ăn xong biết để rác vào đâu? Không
làm mất vệ sinh nơi trường lớp, giữ gìn trường lớp luôn sạch sẽ, gọn gàng….
22
Một tiết hoạt động âm nhạc biễu diễn cuối chủ đề
23
Trẻ lao động vệ sinh cuối tuần
-
Hình thành kỹ năng học tập:
Mặc dù những kiến thức mà trẻ học ở trường mầm non chỉ là sơ đẳng nhưng có vai
trò rất quan trọng, là nền tảng vững chắc cho việc học văn hóa ở trường phổ thông sau
này. Với trẻ ở lớp tôi, trong mỗi hoạt động tôi đều xác định cụ thể mục tiêu, hướng dẫn
cụ thể nội dung, gợi ý cách thực hiện và cho trẻ trao đổi cách thực hiện với các bạn để
trẻ tìm ra cách thực hiện của riêng mình, đồng thời tôi cũng khuyến khích và tuyên
dương kịp thời sự sáng tạo của trẻ, giúp đỡ những trẻ chưa thực hiện được, động viên
trẻ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với tâm trạng thoải mái và hứng thú
nhất.
Ví dụ: Trong hoạt động tạo hình Làm thiệp tặng cô giáo . Tôi cho trẻ quan sát và
nhận xét 1 số mẫu thiệp đã chuẩn bị trước để gợi ý cách làm cho trẻ. Trong quá trình
trẻ thực hiện tôi bao quát để kịp thời tuyên dương những trẻ có sáng tạo như biết sáng
tạo thêm các chi tiết trang trí cho tấm bưu thiệp, đồng thời giúp đỡ những trẻ chưa biết
cách thực hiện hoàn thành sản phẩm của mình. Giáo dục trẻ biết giữ gìn sản phẩm của
mình làm ra và của bạn
24
Kết quả là đa số trẻ lớp tôi đã có ý thức trách nhiệm, có kỹ năng thiết lập và thực hiện
mục tiêu trong tất cả các hoạt động, nhất là trong các hoạt động.
* Tạo môi trường thuận lợi để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
Môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục trẻ. Có môi trường
trong lớp và môi trường ngoài lớp học.Ngoài lớp học tôi đã trang trí bồn hoa, cây cảnh,
góc thiên nhiên của lớp từ đó trẻ được trải nghiệm như chăm sóc cây cảnh, tưới nước
bắt sâu, nhổ cỏ, gieo hạt…. ở góc thiên nhiên từ đó kỹ năng sống của trẻ được phong
phú hơn
Trẻ cùng cô hoạt động chăm sóc cây cảnh vườn trường
Môi trường trong lớp như các góc hoạt động, đồ dùng học tập… có tác dụng giúp trẻ
lĩnh hội kiến thức và một số kỹ năng. Môi trường ngoài lớp như góc thiên nhiên, vườn
cây…giúp trẻ phát triển tình cảm xã hội. Để có môi trường dạy kỹ năng sống tốt cho
trẻ tôi thực hiện như sau:
* Tôi đã thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá trẻ nhằm ghi chép hàng ngày
từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi chép những kỹ
25