Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường tiểu học nguyễn bỉnh khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 16 trang )

PHÒNG GD&ĐT THỊ XÃ BUÔN HỒ
TRƯỜNG TH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
----

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH Ở
TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN BỈNH KHIÊM
NGƯỜI VIẾT: TRẦN VĂN BAN

Buôn Hồ, tháng 2 năm 2019

1


I.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn
tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho mỗi cá nhân có kĩ năng ứng xử linh hoạt
có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại…
Nhiều nghiên cứu đã cho phép đi đến kết luận là trong các yếu tố quyết định
sự thành công của con người, kỹ năng sống đóng góp đến khoảng 85 % .
Theo UNESCO ba thành tố hợp thành năng lực của con người là: kiến thức,
kỹ năng và thái độ. Hai yếu tố sau thuộc về kỹ năng sống, có vai trò quyết định
trong việc hình thành nhân cách, bản lĩnh, tính chuyên nghiệp cho mỗi cá nhân,…
Thành công chỉ thực sự đến với những người biết thích nghi để làm chủ
hoàn cảnh và có khả năng chinh phục hoàn cảnh. Vì vậy, kỹ năng sống sẽ là hành
trang không thể thiếu. Biết sống, làm việc, và thành đạt là ước mơ không quá xa
vời, là khát khao chính đáng của những ai biết trang bị cho mình những KNS cần
thiết và hữu ích. Kỹ năng sống tốt thúc đẩy thay đổi cách nhìn nhận bản thân và thế
giới, tạo dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ tích cực và động lực cho bản thân, tự
mình quyết định số phận của mình. Kỹ năng sống giúp giải phóng và vận dụng


năng lực tiềm tàng trong mỗi con người để hoàn thiện bản thân, tránh suy nghĩ theo
lối mòn và hành động theo thói quen trên hành trình biến ước mơ thành hiện thực.
Ngày nay, với xu hướng hội nhập với thế giới đòi hỏi phải nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, ngoài kiến thức chuyên môn, yêu cầu về các kỹ năng sống
ngày càng trở nên quan trọng. Thiếu kỹ năng sống con người dễ hành động tiêu
cực, nông nổi. Giáo dục cần trang bị cho người học những kỹ năng thiết yếu như ý
thức về bản thân, làm chủ bản thân, đồng cảm, tôn trọng người khác, biết cách hợp
tác và giải quyết hợp lý các mâu thuẫn, xung đột. Nghiên cứu gần đây về sự phát
triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự
kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu
cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất
quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường.
- Năm học 2018 – 2019 này: Tại hướng dẫn số: 200/PGDĐT-GDTH về việc
hướng dẫn thực hiện nhiêṃ vu ̣ năm hoc ̣ 2018-2019 đối với Giáo duc ̣ tiểu hoc ̣
Buôn Hồ, ngày 26 tháng 9 năm 2018, đã chỉ rõ:
- Tăng cường nền nếp, kỉ cương, nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt
động giáo dục trong các cơ sở giáo dục tiểu học. Chú trọng giáo dục đạo đức, lối
sống, kĩ năng sống, ý thức, trách nhiệm của công dân đối với xã hội, cộng đồng
cho học sinh tiểu học. Thực hiện tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua của
ngành phù hợp điều kiện từng xã/phường.
Tiếp tục thực hiện giáo dục kĩ năng sống theo Công văn số
170/PGDĐTGDTH ngày 22 tháng 9 năm 2015 của Phòng GD&ĐT thị xã về việc
thực hiện kế hoạch giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học. Khuyến khích các
cơ sở giáo dục tiểu học có điều kiện, có thể tham khảo những nội dung giáo dục
tiên tiến của các nước có nền giáo dục phát triển để đưa vào kế hoạch năm học phù
hợp với thực tế của địa phương. Khuyến khích các cơ sở giáo dục tư thục thực hiện
2


chương trình giáo dục tích hợp theo quy định tại Nghị định số 86/2018/NĐ-CP

ngày 06/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ.
Từ những cơ sở trên, tôi nghiên cứu đề tài : “Một số biện pháp rèn kĩ năng
sống cho học sinh Tiểu học” tại trường tiểu Học Nguyễn Bỉnh Khiêm.Với mong
muốn chia sẻ cùng đồng nghiệp.
2.Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
Mục tiêu: Tăng cường nền nếp, kỉ cương, nâng cao chất lượng, hiệu quả các
hoạt động giáo dục trong nhà trường; giáo dục đạo đức, lối sống, kĩ năng sống, ý
thức, trách nhiệm của công dân đối với xã hội, cộng đồng cho học sinh tiểu học.
Thực hiện tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua của ngành phù hợp điều
kiện tại đơn vị trường TH Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nhiệm vụ:
- Chỉ đạo việc thực hiện hướng dẫn số: 200/PGDĐT-GDTH về việc hướng
dẫn thực hiện nhiêṃ vu ̣năm hoc ̣ 2018-2019 đối với Giáo duc ̣ tiểu hoc ̣ Buôn Hồ,
ngày 26 tháng 9 năm 2018.
- Tăng cường nền nếp, kỉ cương, nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt
động giáo dục trong các cơ sở giáo dục tiểu học. Chú trọng giáo dục đạo đức, lối
sống, kĩ năng sống, ý thức, trách nhiệm của công dân đối với xã hội, cộng đồng
cho học sinh tiểu học. Thực hiện tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua của
ngành phù hợp điều kiện từng xã/phường.
Tiếp tục thực hiện giáo dục kĩ năng sống theo Công văn số
170/PGDĐTGDTH ngày 22 tháng 9 năm 2015 của Phòng GD&ĐT thị xã về việc
thực hiện kế hoạch giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học. Khuyến khích các
cơ sở giáo dục tiểu học có điều kiện, có thể tham khảo những nội dung giáo dục
tiên tiến của các nước có nền giáo dục phát triển để đưa vào kế hoạch năm học phù
hợp với thực tế của địa phương. Khuyến khích các cơ sở giáo dục tư thục thực hiện
chương trình giáo dục tích hợp theo quy định tại Nghị định số 86/2018/NĐ-CP
ngày 06/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh ở trường tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm thị xã Buôn Hồ.
4.Giới hạn của đề tài:

- Học sinnh Khối 3, 4,5 của trường tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm thị xã
Buôn Hồ.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.(đọc sách và tài liệu)
- Phương pháp nghiên cứu qua thực tiễn các kĩ năng ứng xử của học sinh.
- Phương pháp quan sát, khảo sát qua tiết học kĩ năng sống.
- Phương pháp đàm thoại (qua các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp).

3


II. PHẦN NỘI DUNG
1 .Cơ sở lý luận:
- Mặc dù, hiện nay chúng ta trong thời đại Công nghệ -Thông tin và hội nhập
quốc tế, HS có những hiểu biết khá phong phú nhờ truy cập Internet, nhưng kỹ
năng sống của các em còn nhiều hạn chế. Đa phần các em học sinh ở trường tiểu
học hiện nay đều thiếu kỹ năng sống, thiếu khả năng phân tích và khả năng nhận
thức đúng – sai các vấn đề dẫn đến lúng túng, không biết cách xử lý các tình huống
thường gặp trong cuộc sống.
Những năm học gần đây, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường
sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong
nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thể quan niệm là việc tổ chức các
hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú nhằm kích thích học sinh tham gia một
cách tích cực chủ động vào các quá trình hoạt động, qua đó hình thành hoặc thay
đổi hành vi của trẻ theo hướng tích cực nhằm góp phần phát triển nhân cách toàn
diện; giúp học sinh có thể sông an toàn, khỏe mạnh và tích cực, chủ động trong
cuộc sống hằng ngày. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là giáo dục cho các em
có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các em các

hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách
người học trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp.
Trong thực tế hiện nay việc rèn kĩ năng sống của các em ở trường tiểu học
còn nhiều hạn chế.Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh chưa có nét chuyển biến,
nguyên do chính là trong tư tưởng giáo viên, phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy
kiến thức, việc rèn kĩ năng sống cho học sinh còn chiếu lệ, giáo viên luôn chú
trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt …
Ở bậc tiểu học các môn học nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức sơ
đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội chủ nghĩa gắn với những kinh nghiệm đạo
đức, để từ đó giúp học sinh hình thành kĩ năng sống, biết phân biệt đúng sai làm
theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, nhắc
nhở các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức chính.Việc
rèn kĩ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng mà người người làm
công tác giáo dục cần quan tâm.
2/ Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
- Qua nhiều năm dạy học và chỉ đạo công tác chuyên môn ở trường Tiểu học
Nguyễn Bỉnh Khiêm, tôi thấy thực trạng của việc rèn kĩ năng sống ở trường như
sau:
* Nhà trường:
Trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm có một điểm trường, điều kiện kinh tế
vẫn còn khó khăn. Năm học 2017-2018, nhà trường có 19 lớp với tổng số 464 học
sinh. Trường đã được công nhận trường chuẩn Quốc gia. Nhiều năm liền trường
đat danh hiệu Tập thể Lao động Xuất sắc và Tập thể Lao động Tiên tiến cấp thị .
Trong hoạt động chuyên môn dạy và học, Nhà trường thường xuyên nghiên cứu,
4


cải tiến nâng cao chất lượng giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh, không ngừng đổi mới PPDH phù hợp với nội dung chương trình và đặc biệt
chú trọng đến việc "Rèn kỹ năng sống" cho học sinh. Nhà trường coi đây là một

trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục.
Chính vì thế ngay sau khi Bộ Giáo dục đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng
sống lồng ghép vào các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhà
trường tiến hành triển khai đồng bộ đến toàn thể cán bộ giáo viên về việc tăng
cường rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Yêu cầu mỗi thầy, cô
giáo cần tâm huyết, trách nhiệm hơn trong việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho
học sinh. Mỗi giáo viên trong nhà trường không chỉ nâng cao chất lượng chuyên
môn nghiệp vụ, mà còn thường xuyên quan tâm đến đời sống, tâm tư tình cảm của
học sinh. Yêu cầu là như vậy nhưng kết quả của việc rèn kĩ năng sống cho HS
chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu của xã hội hiện nay.
* Giáo viên:
Giáo viên thường tập trung lo lắng cho những em có những vấn đề về hành vi và
khả năng tập trung kém. Những học sinh này thường không có khả năng chờ đến
lượt, không biết chú ý lắng nghe và không biết làm việc theo nhóm, điều này làm
cho HS không thể tập trung lĩnh hội những điều giáo viên dạy. Vì vậy, giáo viên
phải tốn rất nhiều thời gian đầu tư để giúp HS có được những kĩ năng sống cơ
bản ở trường Tiểu học.
- Vẫn còn có GV chưa nắm chắc về nội dung giáo dục kĩ năng sống theo từng khối
lớp, những kĩ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định
hướng chung của nhà trường để đưa vào kế hoạch cụ thể rèn kĩ năng sống cho học
sinh của lớp mình.
- Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên chưa đầu
tư thời gian tìm tòi nghiên cứu các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt
động rèn kĩ năng sống nên chưa tạo được sự hứng thú học tập cho học sinh.
* Học sinh:
- Một bộ phận học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô
giáo, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động.
- Học sinh chỉ trú trọng học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống trong

cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gổ lẫn nhau.
- Kỹ năng giao tiếp hạn chế, vẫn còn hiện tượng nói tục, chửi bậy ở một số học
sinh.
* Phụ huynh:
Nguyên nhân khiến đa phần học sinh khó tiếp cận được các hoạt động kỹ năng
thực hành xã hội là do phụ huynh không cho phép. Đa số phụ huynh cho rằng con
em mình chỉ cần học giỏi kiến thức.Có phụ huynh nóng vội trong việc dạy con; họ
chỉ chú trọng đến việc dạy con mình biết đọc, biết viết, hoặc biết làm toán mà
không cần quan tâm đến việc con học được kĩ năng sống nào khi đến trường. Phụ
huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm tòi kiến thức mà quên hướng cho
con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong
5


gia đình.
Một bộ phận phụ huynh giao tiếp trong gia đình vẫn còn hạn chế, xưng hô chưa
chuẩn mực nên các em bắt chước xưng hô chưa đúng.
Đồng thời có phụ huynh chiều chuộng con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự
phục vụ, phụ huynh chỉ chú ý đến khâu chăm con ăn uống mà không chú ý đến
dạy con mình cần ăn, uống như thế nào, sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong
ăn uống thế nào cho đúng? Vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó?
Những đồ dùng đó để làm gì?....
Những thực trạng trên đây, thì việc " Rèn kỹ năng sống cho học sinh Tiểu
học" là một việc làm vô cùng cần thiết để giúp cho các em say mê, hứng thú trong
học tập, các em thấy mình mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong việc thể
hiện những năng lực của bản thân .
Từ thực tiễn quá trình dạy học và công tác chỉ đạo dạy và học ở trường tiểu
học Nguyễn Bỉnh Khiêm tôi đã tìm ra một số biện pháp giúp giáo viên rèn kĩ năng
sống cho học sinh tiểu học có tính khả thi, hiệu quả nhất.
- Phân tích, đánh giá các nội dung, vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.

Hoạt động giáo dục kỹ năng sống là hoạt động được tổ chức theo mục tiêu,
nội dung, chương trình dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Bản chất của hoạt động
này là thông qua các loại hình hoạt động, các mối quan hệ nhiều mặt, nhằm giúp
người học chuyển hoá một cách tự giác, tích cực tri thức thành niềm tin, kiến thức
thành hành động, biến yêu cầu của nhà trường thành chương trình hành động của
tập thể lớp học sinh và của cá nhân học sinh, tạo cơ hội cho học sinh trải nghiệm tri
thức, thái độ, quan điểm và hành vi ứng xử của mình trong môi trường an toàn,
thân thiện có định hướng giáo dục. Thông qua hoạt động giáo dục kỹ năng sống có
thể giúp học sinh sống một cách an toàn, khoẻ mạnh, có khả năng thích ứng với
biến đổi của cuộc sống hàng ngày. Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng cơ bản phù
hợp với lứa tuổi như: kỹ năng giao tiếp ứng xử có văn hoá, kỹ năng tổ chức quản
lý và tham gia các hoạt động tập thể với tư cách là chủ thể của hoạt động, kỹ năng
tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, củng cố, phát triển các hành vi,
thói quen tốt trong học tập, lao động và công tác xã hội. Bồi dưỡng thái độ tự giác
tích cực tham gia các hoạt động tập thể và hoạt động xã hội, hình thành tình cảm
chân thành, niềm tin trong sáng với cuộc sống, với quê hương đất nước, có thái độ
đúng đắn đối với các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Như vậy, hoạt động giáo dục
kỹ năng sống thực sự cần thiết. Do đó cần phát huy tối đa vai trò, tác dụng và hiệu
quả của hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
- Xác định những kĩ năng sống cơ bản cần dạy HS ở lứa tuổi tiểu học :
Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng quan trọng mà trẻ
cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em độ tuổi lớp1.
Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kĩ năng quan trọng nhất trẻ
phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kĩ năng sống như: sự hợp
tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp.
Việc xác định được các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên
lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ. Chúng tôi tiến hành khảo sát
thực tế qua học sinh khối 3, kết quả như sau:
6



* Khảo sát 98 em học sinh khối 3 đầu học kì 1 năm học 2018 - 2019:
+) Nội dung khảo sát 1 : Kĩ năng mạnh dạn tự tin:
Khảo sát qua quan sát hoạt động tập biểu diễn trong một tiết âm nhạc:
Mạnh dạn
Chưa tự tin
Ghi chú
Khối
Tổng số
tự tin
3
HS
TS
%
TS
%
Đầu kì 1
98
31
31,6
67
68,4
Chưa áp dụng SKKN
+) Nội dung khảo sát 2: Kĩ năng hợp tác qua việc thảo luận nhóm .
Khảo sát qua quan sát HS thực hành thảo luận nhóm trong một số tiết Đạo
đức.

Khối 3 TSHS

Thực hành thảo luận nhóm

Chưa biết cách lắng
Biết cách lắng nghe,
nghe, chưa biết hợp
hợp tác tốt
tác
TS
%
TS
%

Ghi chú

Đầu kì
98
40
40,8
48
59,2
Chưa áp dụng SKKN
1
+ ) Nội dung khảo sát 3: hoạt động xử lý tình huống:
Khảo sát qua quan sát HS hoạt động xử lý tình huống trong một môn Tự NhiênXã Hội:
Kĩ năng ứng xử trong các tình huống
Biết cách ứng xử phù
Chưa biết cách
Khối 3 TSHS
hợp
ứng xử phù hợp
Ghi chú
TS

%
TS
%
Đầu kì
98
45
45,9
43
54,1
Chưa áp dụng SKKN
1
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp.
Cụ thể hóa nội dung của những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy HS:
Kĩ năng hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, một vấn đề, một bài hát giáo viên
giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với
các em học sinh lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông và
cùng làm việc với các bạn.
Kĩ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong
những kĩ năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này là sự khát khao
được học. Người giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi
gợi tính tò mò tự nhiên của các em. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu
chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khơi gợi trí
não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
7


Kĩ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý
tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của
mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kĩ năng cơ bản và khá quan trọng

đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kĩ năng khác như đọc, viết,
làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về một ý
tưởng hay chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp
nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẳn sàng
học mọi thứ.
Kĩ năng sống tự tin: Một trong những kĩ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm
là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình
là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kĩ năng
sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Tương tác: các kĩ năng thương lượng, kĩ năng giải quyết vấn đề … được hình
thành tốt trong quá trình HS tiếp súc với bạn bè và những người xung quanh. Tạo
điều kiện để các em có dịp thể hiện ý kiến của mình và xem xét ý kiến của người
khác... Do vậy GV cần tổ chức các hoạt động có tính chất tương tác trong các hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp để giáo dục kỹ năng sống cho các em.
Trải nghiệm: Cần phải có thiết kế và tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
cho HS được hoạt động thực, có cơ hội thể hiện ý tưởng, có cơ hội xử lí các tình
huống cũng như phản biện…Kỹ năng sống chỉ được hình thành khi người học trải
nghiệm qua thực tế và nó có kĩ năng khi các em được làm việc đó.
Ngoài ra, ở nhà trường giáo viên cần dạy học sinh nghi thức văn hóa trong ăn
uống qua đó dạy các em kĩ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự
rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ
dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi,
nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi
ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, đũa, chén, thìa … hoặc biết
giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, không làm ảnh hưởng đến người xung
quanh.
Nguyên tắc tiến trình và nguyên tắc thay đổi hành vi: Giáo viên không thể giáo
dục kỹ năng sống trong một lần mà kỹ năng sống là một quá trình từ nhận thứchình thành thái độ- thay đổi hành vi. Thay đổi hành vi của một con người đặc biệt
hành vi tốt là quá trình khó khăn. Do vậy giáo dục kỹ năng sống không thể là ngày
một ngày hai mà phải là cả một quá trình.

b. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp
Xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong việc rèn kĩ năng
sống cho học sinh.
Giáo viên có thể làm được gì để rèn kĩ năng sống cho trẻ?
Cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần,
tích cực của học sinh, cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng
tạo ở mỗi học sinh. Vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học
sinh để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
Cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục các em một
cách thích hợp tuân theo một số quan điểm. Giúp các em phát triển đồng đều các
8


lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mĩ. Phát huy tính
tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận
dụng vốn kiến thức, kĩ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
Cần giúp các em có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác
trong lớp, các em biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng
nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm học sinh khác
nhau, giúp các em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này
liên quan tới việc các em có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi
người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa học sinh
đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho học sinh sự tự tin, thoải mái trong mọi trường
hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi
không đẹp của các em.
Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của các em, trao
đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục các em tại
nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
* Một số hình ảnh minh họa về thực hiện giáo dục kĩ năng sống tại đơn vị:


9


10


c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Giúp HS phát triển các kĩ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể
vui tươi, lành mạnh trong nhà trừơng :
Phối hợp với chính quyền nhà trường tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao
một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ
chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp
với lứa tuổi của học sinh.
Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt
động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ. Cụ
thể như sau:
Phát động học sinh làm đồ chơi dân gian; sưu tầm các bài hát, điệu múa thể
loại dân ca cho học sinh theo phù hợp theo từng lứa tuổi .
Thực hiện nội dung tăng cường tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động
11


văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh tiểu
học .
Duy trì việc sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm để học sinh được học
được chơi.
Phối hợp với Tổng phụ trách tổ chức các cuộc thi trò chơi dân gian trong dịp
đầu xuân như: Ô ăn quan ,Đập heo, Lò cò, Cướp cờ, hội thi Giai điệu dân ca, hội
thi Vẽ những điều em mơ ước về vườn trường… Đồng thời hàng tuần vào tiết chào
cờ sáng thứ hai cho các em “Kể chuyện Bác Hồ”; Trò chơi Ai nhanh? Ai đúng? …

Tạo môi trường thực hiện nhiệm vụ rèn kĩ năng sống:
Rèn kỹ năng sống được thực hiện mọi lúc mọi nơi; giáo dục kỹ năng sống
được giáo dục trong mọi môi trường như gia đình, nhà trường, xã hội, cần phải tạo
điều kiện tối đa cho HS tham gia vào các tình huống thật trong cuốc sống.
Hướng dẫn giáo viên thực hiện kế hoạch giáo dục, đánh giá học sinh bằng việc
trang bị cho mỗi lớp 1 bản bằng giấy rô ki để đánh giá học sinh, kiểu dáng trang
trí đẹp, mỗi HS có mỗi biểu mẫu đánh giá riêng nhằm giúp giáo viên quan sát ghi
chép hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của các em, các mối quan hệ với cô, với
bạn, ghi chép những kỹ năng học sinh đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ, thước
đo để đánh giá cuối mỗi tháng học. Cũng từ biện pháp này, giáo viên sẽ có điều
kiện lưu trữ dữ liệu, sản phẩm để đánh giá học sinh, đồng thời có cơ sở để thay đổi,
bổ sung các biện pháp giáo dục từng học sinh và giúp các em hình thành các kỹ
năng sống.
Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và học sinh được thực hành kĩ năng sống.
Tôi đã tham mưu với Hiệu trưởng xây dựng thư viện thân thiện, có giá sách di
động được thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cở, vừa tầm
các em bổ sung sách thư viện các loại sách nội dung hay trang trí đẹp hấp dẫn thu
hút được GV và HS đọc sách. Tới thư viện đọc sách cùng nhiều bạn bè, thầy cô HS
cũng có điều kiện để rèn kĩ năng sống cho bản thân.
Cần nắm được những việc nên làm và không nên làm khi giáo dục học
sinh:
Trong suốt quá trình thời gian giảng dạy và quản lý với mong muốn gửi các
đồng nghiệp, cha mẹ HS những thông điệp mang tính thuyết phục với một số điều
cần làm và cần tránh nhằm giúp các bạn đồng nghiệp, cha mẹ các em những điều
cơ bản để rèn kĩ năng sống cho HS như sau:
* Một số điều người lớn cần làm giúp các em rèn luyện kĩ năng sống:
Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn
trọng, đối xử công bằng với học sinh và đảm bảo an toàn cho trẻ.
Việc học của trẻ nên luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì học sinh sẽ tự
tin vào năng lực của bản thân và trẻ thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn.

Tham gia vào việc giáo dục của con cái không nên để tốn quá nhiều thời gian và
cũng khộng cần tốn sức tập luyện, cha mẹ chỉ tốn ít thời gian khi cho các em thấy
cha mẹ rất coi trọng giá trị của việc giáo dục.Việc tham gia ở mức độ nào không
quan trọng nhưng thời gian đó thật đáng giá và đó là sự đầu tư cần thiết cho tương
lai của các em.
12


* Một số điều người lớn cần tránh khi dạy trẻ kĩ năng sống:
Không hạ thấp các em: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng các
em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân của học sinh.
Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên nói những
lời không hay đối với trẻ.
Không doạ nạt: Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng ta đã
làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho học sinh
và sẽ không giúp cho hành vi của các em tốt hơn.
Không bắt các em hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa
đối với em vì nếu các em cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở
các em sẽ phát triển cảm giác hối lỗi.
Không nên yêu cầu các em phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự phục
tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không tạo điều kiện
phát triển tính tự lập ở các em.
Không yêu cầu những điều không phù hợp với các em vì những yêu cầu ở các
em phải thực hiện một hành vi chín chắn mà các em chưa có khả năng hoặc các em
phải làm các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép
hoặc cấm đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức của học
sinh .
Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của
não bộ của các em.
d. Kết quả khảo khảo nghiệm, giá trị khoa học phạm vi hiệu quả ứng

dụng của sáng kiến kinh nghiệm:
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng
thuận hợp tác của các giáo viên trong nhà trường, sự ủng hộ tích cực của các bậc
cha mẹ đã giúp tôi đã áp dụng sáng kiến vào HS khối 3 cụ thể là lớp 3a1, 3a2, 3a3
gồm có 98 em và đạt được kết quả trong việc dạy các kĩ năng sống cơ bản thể hiện
ở các kết quả sau:
Kết quả cho thấy HS ngoan hơn, tự giác hơn, chủ động, mạnh dạn hơn tự tin,
ứng xử khá phù hợp trong mọi tình huống.
* Khảo sát toàn khối cuối kì 1 năm học 2018 - 2019:
+ Nội dung khảo sát 1 : Kĩ năng mạnh dạn tự tin:
Khảo sát qua quan sát hoạt động
Mạnh dạn
Khối
Tổng số
tự tin
3
HS
TS
%
Đầu kì 1
98
31
31,6
75
Cuối kì 1
98
76,5

tập biểu diễn trong một tiết âm nhạc:
Chưa tự tin

TS
67
23

%
68,4
23,5

Ghi chú
Chưa áp dụng SKKN
Đã Áp dụng SKKN

+ Nội dung khảo sát 2: Kĩ năng hợp tác qua việc thảo luận nhóm .
Khảo sát qua quan sát HS thực hành thảo luận nhóm trong một số tiết Đạo
đức.
13


Khối 3 TSHS

Thực hành thảo luận nhóm
Chưa biết cách lắng
Biết cách lắng nghe,
nghe, chưa biết hợp
hợp tác tốt
tác
TS
%
TS
%


Ghi chú

Đầu kì
98
40
40,8
48
59,2
Chưa áp dụng SKKN
1
Cuối
98
93
94,9
5
5,1
Đã Áp dụng SKKN
kì 1
+ Nội dung khảo sát 3: hoạt động xử lý tình huống:
Khảo sát qua quan sát HS hoạt động xử lý tình huống trong một môn Tự NhiênXã Hội:
Kĩ năng ứng xử trong các tình huống
Biết cách ứng xử phù
Chưa biết cách
Khối 3 TSHS
hợp
ứng xử phù hợp
Ghi chú
TS
%

TS
%
Đầu kì
98
45
45,9
43
54,1
Chưa áp dụng SKKN
1
Cuối
98
95
96,9
3
3,1
Đã Áp dụng SKKN
kì 1
Số lượng HS biết ứng ứng xử phù hợp ngày một nhiều hơn so với đầu năm
học:
100% học sinh đều được giáo viên tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tính tò
mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, sáng tạo ,
100% học sinh được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường phổ thông hiệu
quả ngày càng cao.
90% học sinh có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kĩ năng tự lập;
kĩ năng nhận thức; kĩ năng vận động nhỏ, vận động tinh thông qua các hoạt động
hàng ngày trong cuộc sống của học sinh ; ngoài ra có 70% học sinh được rèn kĩ
năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt
động năng khiếu vẽ, thể dục, và các môn học khác .
100% trẻ được rèn luyện kĩ năng xã hội, kĩ năng về cảm xúc, giao tiếp,

chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo lực trẻ em ở trường cũng như
ở gia đình.
100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe,
được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.
75% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua kết quả học tập cũng như
bảng theo dõi ở mỗi lớp , sau mỗi giai đoạn, qua kết quả kiểm tra đánh giá chất
lượng sau mỗi chủ đề đối với từng học sinh đạt khá và tốt: Mạnh dạn tự tin: 91,4
%; kĩ năng hợp tác: 91,4%; kĩ năng giao tiếp 88,6%; tự lập, tự phục vụ: 99 %; lễ
phép: 100%; kĩ năng vệ sinh: 92 %; kĩ năng thích khám phá học hỏi : 86 %; kĩ
14


năng tự kiểm soát bản thân: 90 %
Học sinh đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99% trở lên và ít gặp khó
khăn khi đến lớp, có kĩ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết thương yêu
bạn bè trong cùng một mái trường, biết giúp đỡ bạn cùng tiến .
* Về phía giáo viên
Giáo viên gần gũi chuyện trò với học sinh hơn, giải quyết hợp lý, công
bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các em học sinh trong lớp.
Trong giảng dạy, GV đã chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều
hơn.
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị,
phối hợp chặt chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ các em.
Hiệu quả lớn nhất là nhà trường đã huy động được sự tham gia của cha mẹ các
em, của các tổ chức, các lực lượng xã hội trong việc giáo dục văn hóa, truyền
thống cho học sinh, đồng thời đây là những cơ hội vàng dạy trẻ kỹ năng sống.
Tổ chức thực hành trải nghiệm kinh doanh chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam
20-11 vừa qua với sự tham gia của toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên, phụ
huynh và toàn thể học sinh của trường kết quả thu lời về cho trường 9.100.000
đồng đủ để mua một con bò tặng cho một hộ phụ huynh nghèo của trường.

III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động, để học sinh tự
cảm nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ đó hình thành các kỹ năng;
thực hiện sự phối hợp trong và ngoài nhà trường làm tốt công tác xã hội hoá trong
việc rèn kỹ năng sống cho học sinh.
Giáo dục kỹ năng sống trong trường học góp phần rèn luyện, hình thành cho
học sinh sống có trách nhiệm hơn và biết lựa chọn cách ứng xử phù hợp, ứng phó
với các sức ép, thách thức trong cuộc sống.
Giáo dục kỹ năng sống còn tạo mối quan hệ thân thiện, cởi mở giữa thầy,
trò, sự hứng thú tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập, nâng cao chất lượng, hiệu
quả giáo dục. Học sinh được giáo dục kỹ năng sống xác định được bổn phận và
nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Giáo dục kỹ năng sống còn cần đến vốn sống, tình thương và nhân cách của
người thầy. Học sinh học kiến thức ở thầy trước hết là ở tấm gương sống của người
thầy. Vì vậy, trước hết “mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng
tạo” mà ngành Giáo dục đang vận động.
Kỹ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung, nâng
cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người trưởng thành cũng
vẫn cần học kỹ năng sống.
Rèn kỹ năng sống cho học sinh không phải là công việc “một sớm, một
chiều” mà đòi hỏi phải có quá trình, kiên nhẫn và bằng cả tâm huyết và ở mọi lúc,
mọi nơi, thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Kỹ năng sống rất đa dạng và
mang đặc trưng vùng, miền đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng một cách linh
hoạt, sáng tạo cho phù hợp với nhu cầu, trình độ của học sinh và đặc điểm, hoàn
15


cảnh của nhà trường, địa phương. Rèn kỹ năng sống không phải chỉ là công việc
của giáo viên, nhà trường mà của cả xã hội, cộng đồng, có như vậy mới mong đào

tạo ra được những thế hệ trẻ phát triển toàn diện, chuẩn bị tốt cho việc thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
2. Kiến nghị :
a. Với Phòng Giáo dục và Đào tạo:
Tổ chức hội thảo trao đổi kinh nghiệm về biện pháp rèn kĩ năng sống cho HS
tiểu học, để GV có điều kiện trao đổi học hỏi lẫn nhau nhằm nâng cao chất lượng
GD.
b. Với Lãnh đạo trường:
Phát huy nguồn lực Hội cha mẹ học sinh nhằm hỗ trợ kinh phí đắc lực cho các
hoạt động ngoại khóa.
Tạo điều kiện để GV vận dụng sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ
năng sống cho HS tiểu học vào việc giảng dạy và giáo dục kĩ năng sống cho HS.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm nhỏ của tôi đã đúc rút từ thực tế làm công tác
giáo dục.Tôi rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp.
Người viết

Trần Văn Ban
ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT CỦA BGH NHÀ TRƯỜNG
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
Ngày tháng năm 2019
HIỆU TRƯỞNG

16




×