Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận cuối kỳ GIÁO LÝ VÀ NGHI LỄ CƠ BẢN CỦA KITO GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.6 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
====o0o====

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
HỌC PHẦN: TÔN GIÁO HỌC ĐẠI CƯƠNG

ĐỀ TÀI: GIÁO LÝ VÀ NGHI LỄ CƠ BẢN CỦA
KITO GIÁO

Họ và tên: ………………………..
Đơn vị: ……………………………
Mã sinh viên: …………………….
GVHD:……………………………

HÀ NỘI.2020
1
1


MỤC LỤC

2
2


1.

CHƯƠNG 1: GIÁO LÝ CƠ BẢN CỦA ĐẠO KITÔ
Chúa sáng tạo ra vạn vật


Theo sách Sáng thế kí, Chúa sáng tạo ra thế giới trong 7 ngày: “ Ðầu tiên,
Chúa đã dựng nên trời và đất. Ngày thứ nhất , Ngài dựng nên ánh sáng. Ngày Thứ
hai, Ngài dựng nên nước. Ngày thứ ba, Ngài dựng nên cây cối.Ngày thứ bốn, Ngài
dựng nên ngôi sao. Ngày thứ năm, Ngài dựng nên thú vật.Ngày thứ sáu Ngài dựng
nên loài người. Còn ngày thứ bảy, Chúa nghỉ ngơi.
Chúa Jesus cứu độ nhân loại
Chúa Jesus vừa là Thiên Chúa vừa là người, cả hai bản tính đều trọn vẹn trong
2.

Ngài. Ngài vì còn người mà nhập thể xuống làm người phàm, chết đi như một vật
hiến tế và phục sinh nhằm cứu chuộc con người. Chúa Jesus không bao giờ phạm
tội. Qua cái chết và sự sống lại của Ngài, tín hữu được tha thứ tội lỗi và được hoà
giải với Thiên Chúa. Tín hữu chịu lễ rửa tội như là biểu tượng cho sự cùng chết và
cùng sống lại với Chúa Kitô để nhận lãnh sự sống mới. Qua đức tin, họ nhận lãnh
lời hứa sẽ sống lại từ kẻ chết để được sống đời đời. Trong danh của Chúa Kitô,
Chúa Thánh Thần ngự vào lòng tín hữu, ban cho họ hi vọng, dẫn họ vào sự hiểu
biết chân xác về Thiên Chúa và ý chỉ của Ngài cũng như giúp họ tăng trưởng trong
đời sống thánh khiết.
Chúa Jesus sẽ trở lại để phán xét toàn thể nhân loại, để tiếp rước những người
tin Ngài vào cuộc sống vĩnh cửu kề cận Thiên Chúa.
3. Kinh thánh
3.1.
Kinh thánh Cựu Ước
Cựu Ước ( Giao ước cũ ) là phần đầu của toàn bộ Kinh Thánh Kitô giáo được
tuyển chọn từ phần lớn kinh Tanakh của Do Thái giáo được viết và hoàn chỉnh bởi
nhiều tác giả khác nhau, được hình thành trong khoảng thế kỷ X – I TCN. Sách
được viết muộn nhất là Sách Khôn Ngoan, vào khoảng năm 50-30 trước biến cố
3
3



Chúa Giáng Sinh. Cựu Ước được sắp xếp thành các phần khác nhau như luật pháp,
lịch sử, thi ca (hay các sách về sự khôn ngoan) và tiên tri. Tất cả các sách này đều
được viết trước thời điểm sinh ra của Chúa Jesus người Nazareth, người mà cuộc
đời và tư tưởng là trọng tâm của Tân Ước.
Cựu Ước Kháng Cách có 39 sách trong khi số lượng các sách trong kinh
Tanakh của Do Thái giáo là 24. Có sự khác biệt này là vì theo sự sắp xếp trong
kinh Tanakh, các sách Samuel, Các Vua và Sử ký được gộp thành một sách, 12
sách tiểu tiên tri cũng được tính chung thành một sách.
Công giáo Rôma và Chính thống giáo Đông phương thêm vào Cựu Ước một
số sách tổng cộng là 47 sách (được gọi là thứ kinh (deuterocanonical) ,Công giáo
công nhận 7 sách (Tôbia, Giuđitha, Macabê quyển 1, Macabê quyển 2, Khôn
Ngoan, Huấn Ca, và Barúc) cũng như một vài đoạn trong sách Étte và Đanien. Một
số giáo hội Chính Thống thêm vào một vài sách như Maccabê quyển 3, Thánh
Vịnh 151, Étra quyển 1, Odes, Thánh Vịnh của Solomon và đôi khi là Macabê
quyển 4. Các sách này không được công nhận bởi cộng đồng Kháng cách. Nền
tảng của thứ kinh được tìm thấy trong bản Bảy mươi Hi văn cổ, dịch từ Kinh
Thánh Do Thái. Đây là bản dịch được sử dụng rộng rãi bởi các tín hữu thời kỳ tiên
khởi cũng như được trích dẫn bởi Tân Ước.



Nội Dung Kinh Thánh Cựu Ước
Ngũ Thư
Ngũ Thư ghi lại những dữ kiện lịch sử thể hiện mối tương quan gần gũi giữa
Thiên Chúa và loài người. Nội dung các sách Ngũ Thư xác lập những niềm tin căn
bản:
4
4



– Có một Đấng quyền năng là Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và loài người. Đấng
ấy là duy nhất và hằng sống.
– Thiên Chúa đã chọn tổ phụ Áp-ra-ham để dẫn dắt dân Ít-ra-en, ban cho họ
đất hứa làm gia nghiệp.
– Thông qua các vị thủ lĩnh được chọn, Thiên Chúa ban lề luật và cứu thoát
dân người khỏi tay địch thù. Sứ mạng của dân Ít-ra-en chính là tôn thờ một Thiên
Chúa duy nhất và tuân giữ các lề luật đó.
Các sách Lịch Sử
Các sách Lịch Sử ghi lại lịch sử thăng trầm của dân tộc Ít-ra-en để toát lên
một xác tín: khi Ít-ra-en tôn thờ Thiên Chúa và trung thành với lề luật thì họ được
Thiên Chúa chúc phúc và giúp họ chiến thắng địch thù. Ngược lại, khi họ không
tuân giữ lề luật, lãng quên Thiên Chúa thì họ sẽ lâm cảnh khồn cùng, làm thân nô
lệ cho dân ngoại.
Các sách Giáo Huấn
Các sách Giáo Huấn có mục đích truyền đạt kinh nghiệm sống của các bậc
thánh hiền nhằm giúp dân chúng nhận biết điều hay lẽ phải và sự khôn ngoan phù
hợp với lề luật. Ngoài ra, thông qua sách Thánh Vịnh, các thánh nhân còn dạy độc
giả những lời cầu nguyện lên Thiên Chúa.
Các sách Ngôn Sứ
Ngôn Sứ là những người được Thiên Chúa kêu gọi để nói lời Thiên Chúa và
nói thay cho Thiên Chúa. Các Ngôn Sứ không chỉ loan báo sứ điệp bằng lời mà
còn bằng cả đời sống. Cũng vì những lời chân thật đó mà họ bị người đời căm
ghét, đánh đập, sỉ nhục, bỏ tù, kết án nhục nhã và giết chết.
5
5


Các sách Ngôn Sứ là lời kêu gọi liên lỉ để dân Ít-ra-en sửa đổi đời sống của
mình và trở về với Thiên Chúa. Đồng thời, thông qua các sách này, các Ngôn Sứ

cũng loan báo cho dân Chúa biết việc Người sẽ ban một Đấng Cứu Độ tới cho
nhân loại.
Nội dung của Kinh Thánh Cựu Ước mang nhiều chi tiết tiên báo cho những
sự việc sẽ diễn ra và được làm sáng tỏ trong Tân Ước. Những gì được viết trong
Cựu Ước cũng là Lời Chúa và được Giáo Hội sử dụng trong cử hành Phụng Vụ.
Chính vì thế, chúng ta cần tìm hiểu và đón nhận Cựu Ước với thái độ nghiêm túc
và thành kính.
3.2.

Kinh thánh Tân Ước.

Tân Ước (giao ước mới) là phần cuối của Kinh Thánh Kitô giáo, được viết
bằng tiếng Hy Lạp bởi nhiều tác giả vô danh trong khoảng từ sau năm 45 sau công
nguyên tới trước năm 140 sau công nguyên (sau Cựu Ước) gồm 27 sách.
Tân ước được cả Công Giáo, Chính Thống Giáo và đa số nhóm Kháng Cách
công nhận đầy đủ.


Nội dung Tân Ước
Sách Phúc âm: Gioan, Luca, Mác thêu, Mác cô.
Ghi lại cuộc đời và quãng đường rao giảng tin mừng, sự chết và phục sinh của
Chúa Jesus để cứu độ nhân loại.
Tình yêu của Thiên Chúa với con người, về việc Ngài thiết lập giao ước mới
và vĩnh cửu cùng lời hứa cứu độ được thực hiện một cách trọn vẹn qua cuộc đời
Đức Jesus Kito.
6
6


Sách Lịch sử

Lịch sử hội Thánh tiên khởi, sau khi Chúa Giê-su không còn hiện diện cùng
với các Tông đồ, được ký thuật trong sách Công vụ các Sứ đồ (Công vụ Tông đồ).
Sách thư tín
Các Thư Tín bao gồm nhiều bức thư được viết để gởi các cá nhân hoặc các
giáo đoàn (congregation). Trong nhiều thư tín, các tác giả trình bày những luận
điểm thần học quan trọng cũng như cung cấp một cái nhìn thấu suốt nhằm lý giải
sự phát triển của hội Thánh tiên khởi.
Sách Khải Huyền (sách tiên tri)
Sách tiên tri về ngày Tận thế của thế giới.
4. Màu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
4.1. Ý nghĩa Ba Ngôi

Khi làm toán, 1+1+1 phải bằng 3, nhưng trong Thần học thì chưa chắc như
vậy. Một bài toán nổi tiếng hóc búa của Đức Tin Kito giáo là bài toán mô tả 1+1+1
không phải bẳng 3. Nhiều chuyên môn, nhà thần học đã và đang cố gắng giải thích
trả lời cho câu hỏi tại sao Chúa có 3 ngôi vị ( Cha, Con và Thánh Thần) nhưng lại
đồng thời chỉ là một.
Như chép trong Phúc âm, Chúa Jesus gọi Thiên Chúa là Cha, vậy hẳn rõ ràng
Người xem mình là con Thiên Chúa, cùng thần tính như Chúa. Người nói như sau
về mối quan hệ giữa mình và Chúa Thánh Thần: “Thánh Linh mà Chúa cha sai đến
nhân danh thầy, sẽ dạy anh em về mọi điều và làm anh em nhớ lại mọi điều thầy
nói với anh em” (Ga, 14:26)
7
7


Tư tưởng Ba Ngôi ngụ trong lời của Chúa Jesus ban truyền “ làm cho muôn
dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và
Chúa Thánh thần” (Mt, 28:19).
Khi lý luận về Chúa, ta phải mở rộng hết cỡ ý nghĩa từ vựng để diễn đạt hết

tầm vóc của Thiên Chúa. “Tam vị nhất thể” có nghĩa là: bản thể là nhân loại nói
chung, còn mỗi ngôi là cá nhân. Mỗi cá nhân sở hữu những đặc tính khác nhau;
nhưng dù khác đến đâu, ai ai cũng vẫn cùng nhân tính. Định nghĩa nhân loại kiểu
ấy thì ta có thể tuyên bố “chúng ta có hàng tỉ ngôi, tất cả đều chung một nhân
tính”. Cùng như vậy Tam vị gồm 3 ngôi, mỗi ngôi 1 thần tính. Ba ngôi ấy là: Cha,
Con, và Thánh Thần. Hiểu theo nghĩa này sẽ tránh được sai lầm của Sabellius và
Phái Hình thức. Mỗi người là một cá thể riêng biệt chứ không phải là một người
mang hang triệu cái mặt nạ; Tam vị là 3 ngôi riêng biệt chứ không phải diễn viên
đóng ba vai. Ba ngôi ấy hiệp nhất thành Thiên Chúa.
Tại sao không thờ riêng 3 Chúa mà lại thờ một Chúa 3 ngôi?
Vấn đề là nếu có 3 Chúa khác nhau, Cơ Đốc hữu không thể liệu chắc Chúa
Jesus có phải là vị Chúa đã kiến tạo nên trần gian không. Cũng không biết Chúa
đang cai trị hiện thời là Chúa nào Chúa đang cái trị. Ý nhiệm Ba Ngôi đảm bảo cho
mối quan hệ thường hẵng giữa Chúa và thế giới con người. Chúa Cha được xem là
đấng sang tạo vạn vật, Chúa Con nhập thể để cứu rỗi loài người, Chúa Thánh Thần
biến đổi thế gian theo ý muốn của Chúa. Ba Chúa, không phải mỗi Chúa đi một
ngả, mà là Ba Chúa hành sự theo ba cách khác nhau, hướng đến một mục tiêu:
Chia sẻ tình yêu với Nhân loại.
Biểu dụ về Ba Ngôi
Trải qua nhiều thế kỉ các nhà thần học cố gắng tìm ví dụ dễ hiểu nhất khái
4.2.

niệm tuy ba mà một, tuy một mà ba. Chẳng hạn thánh Patrick, dùng hình ảnh cây
8
8


cỏ ba lá. Một số người khác so sách với cách ta nói chuyện, Chúa Cha là người nói,
Chúa Con là lời nói, Chúa Thánh thần là hơi dùng để nói. Đến thế kỉ 20, Karl Barth
đưa ra lối tư duy mới về Ba Ngôi. Theo ông, Ba Ngôi cũng như một câu chuyện,

câu chuyện này được kể ba lần, mỗi lần từ một khía cạnh, góc nhìn khác nhau, do
đó không dư thừa mà còn bổ sung cho nhau.

Tín điều căn bản
Công đồng Nicea thứ nhất là công đồng gồm những Giám mục cơ đốc giáo
4.3.

được triệu tập tại Nicea thuộc xứ Bithini (ngày nay là xứ Iznik của Thổ Nhĩ Kỳ)
bởi Hoàng đế La Mã Constantine I vào năm 325 công nguyên. Công đồng này có ý
nghĩa lịch sử như là nỗ lực đầu tiên nhằm đạt đến sự thống nhất trong hội
thánh Kitô giáo. Chống lại các học thuyết sai lầm về Chúa Ba Ngôi thời bấy giờ.
Từ đó thiết lập tín điều về Chúa Ba Ngôi (tín điều Nicea)
“Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất,
muôn vật hữu hình và vô hình. Tôi tin kính một Chúa Jesus Kito, Con Một Thiên
Chúa, sinh bởi Ðức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên
Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra
mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Ðức Chúa Cha: nhờ Người mà
muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã
từ trời xuống thế. Bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng
Trinh Nữ Maria, và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta,
thời quan Phongxiô Philatô; Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người
sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Ðức Chúa Cha, và
Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ
không bao giờ cùng. Tôi tin kính Ðức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Ðấng
ban sự sống, Người bởi Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con mà ra, Người được
9
9


phụng thờ và tôn vinh cùng với Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con: Người đã dùng

các tiên tri mà phán dạy. Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và
tông truyền. Tôi tuyên xưng có một Phép Rửa để tha tội. Tôi trông đợi kẻ chết sống
lại và sự sống đời sau.”
Tội tổ tông
Tội Tổ Tông, hay còn gọi là Tội Nguyên Tổ, Tội Tổ Tông truyền,
5.

hoặc nguyên tội là một tín điều của Hội thánh Công giáo, ám chỉ đến tình trạng
mắc tội ngay từ khi sinh ra của tất cả mọi người, xuất phát từ sự sa ngã của
Adam do ăn trái cấm trong Vườn Địa Đàng .Khái niệm Tội Tổ Tông được ám chỉ
đến lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 2 do thánh Irênê, Giám mục thành Lugdunum xứ
Gallia (Gaule), thuộc Đế quốc La Mã (nay là Lyon, Pháp) trong các tác phẩm của
ông tấn công vào thuyết ngộ giáo. Các giáo phụ tiếp theo như Augustinô tiếp tục
phát triển giáo lý này dựa trên các thư của Thánh Phaolô Tông Đồ trong Tân
Ước (Romans 5:12–21 và1 Corinthians 15:22) và Thánh Vịnh 51 trong Cựu ước
Psalm 51:5.
Hội Thánh Công giáo dạy:
Ông Ađam, với tư cách là con người đầu tiên, vì tội của mình, đã đánh mất sự
thánh thiện và công chính nguyên thủy mà ông đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, không
phải cho riêng mình ông nhưng cho tất cả mọi người.
Vì tội đầu tiên của họ, ông Ađam và bà Evà đã lưu truyền cho hậu duệ một
bản tính nhân loại đã bị thương tật, nên đã mất đi sự thánh thiện và sự công chính
nguyên thủy. Sự mất mát đó được gọi là “tội tổ tông”.

10
10


Hậu quả của tội tổ tông là bản tính nhân loại bị suy yếu trong các sức lực tự
nhiên của mình, u mê dốt nát, phải đau khổ, bị sự chết thống trị và hướng chiều về

tội lỗi (sự hướng chiều này được gọi là “dục vọng”).
Theo giáo lý của Hội Thánh Công giáo, mỗi một con người đều được dựng
nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Trong con người "tồn tại một khao khát mãnh liệt
hướng về điều thiện vì được làm từ hình ảnh Thiên Chúa, nhưng cũng có xu hướng
hướng về sự dữ do Tội Tổ Tông." Tuy nhiên, con người không "thừa hưởng" tội từ
bất kỳ ai: "Tội tổ tông, mặc dầu truyền đến mỗi người, nhưng không hề mang tính
cách một tội của bản thân nơi bất kỳ ai trong con cháu ông Ađam." Trái lại, cái mà
ta thừa hưởng chính là cái bản tính con người sa ngã của mình. "Hậu quả của tội tổ
tông là bản tính nhân loại bị suy yếu trong các sức lực tự nhiên của mình, u mê dốt
nát, phải đau khổ, bị sự chết thống trị và hướng chiều về tội lỗi (sự hướng chiều
này được gọi là “dục vọng”)”
Do đó, Hội Thánh ban phép Rửa Tội để tha tội, kể cả cho trẻ em dù chúng
chưa từng phạm tội riêng. Tội mà phép Rửa Tội tha chính là Tội Tổ Tông, và tội
này bị mắc phải đơn thuần chỉ là bởi do sinh ra là con người. Sách Giáo lý của Hội
Thánh Công giáo giải thích thêm: "Khi nghe theo Tên Cám Dỗ, ông Ađam và bà
Evà đã phạm một tội cá nhân, nhưng tội đó ảnh hưởng đến bản tính nhân loại, một
bản tính mà họ sẽ lưu truyền trong tình trạng đã sa ngã. Đó là một tội được lưu
truyền cho toàn thể nhân loại qua việc sinh sản, nghĩa là qua việc lưu truyền một
bản tính nhân loại đã mất sự thánh thiện và công chính nguyên thuỷ. Do đó, tội tổ
tông được gọi là “tội” theo nghĩa loại suy: đó là một thứ tội con người bị “nhiễm”
chứ không phải đã “phạm”; một tình trạng, chứ không phải một hành vi." "Ðó là
một tội mà chúng ta "vướng mắc" chứ không phải là một tội mà chúng ta vấp
phạm; đó là tình trạng lúc chào đời chứ không phải là một hành vi cá nhân. Do sự
11
11


thống nhất của toàn thể loài người, tội này được truyền lại cho con cháu của Ađam
trong bản tính loài người.
Trong thần học Công giáo, Tội Tổ Tông được xem là một tình trạng mang tội,

tức là một sự thiếu vắng tính thánh thiện và hoàn hảo, khác với tội thực là những
tội mà người ta thực sự làm. "Tội tổ tông... không hề mang tính cách một tội của
bản thân nơi bất kỳ ai trong con cháu ông Ađam". Và mặc dù "vì tội tổ tông, ma
quỷ đã có được một quyền thống trị nào đó trên con người" nhưng con người vẫn
được tự do lựa chọn có đi theo nó hay không; "Con người vẫn còn tự do"
Tín điều Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội dạy rằng Đức Mẹ Maria không bị
nhiễm Tội Tổ Tông: "Rất Thánh Trinh Nữ Maria ngay từ lúc đầu tiên tượng thai,
bởi ân sủng và đặc ân của Thiên Chúa toàn năng, trông vào công nghiệp của Đức
Kitô Jesus Đấng Cứu độ loài người, đã được gìn giữ tinh tuyền khỏi mọi vết nhơ
của nguyên tội." Theo Tín điều trên, Đức Mẹ Maria là trường hợp ngoại lệ duy
nhất không mắc phải Tội Tổ Tông.
Cả Chính Thống giáo và đa số nhóm Kháng Cách đều công nhận giáo lý này.
6. Đức mẹ Maria

Bà Maria sớm đã được tôn kính trong đức tin của Kitô giáo, đặc biệt là
trong Giáo hội Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông Phương. Họ gọi bà
là Đức Mẹ. Trong Tin Lành và Hồi Giáo, Maria cũng được nhìn nhận với một vị trí
đặc biệt. Ngày lễ mừng kính bà được Công giáo Roma, Chính thống giáo Đông
phương và Anh giáo đồng cử hành là ngày 8 tháng 9. Ngoài ra, còn có thêm rất
nhiều ngày lễ suy tôn bà Maria, tính theo những tước hiệu và sự kiện, được Giáo
hội Công giáo mừng kính vào các ngày khác trong năm.
12
12


Giáo hội Công giáo Rôma, Chính thống giáo Đông phương, Anh giáo,
Lutheran, Giám lý đều coi Đức Mẹ Maria là mẹ Thiên Chúa ở Công đồng chung
Epheso
Giáo Hội Công giáo Rôma, Chính thống giáo Đông phương, Anh giáo, Kháng
Cách, Mặc Môn tin Mẹ Maria Hồn xác lên trời theo văn kiện Thiên Chúa vô cùng

vinh hiển (Munificentissimus Deus)
Giáo hội Công giáo Rôma, vài nhóm Anh giáo, vài nhóm Lutheran, trước
Martin Luther tin Đức mẹ Vô nhiễm nguyên tội theo văn kiện Thiên Chúa bất khả
ngộ (Ineffabilis Deus)
Giáo hội Công giáo Rôma, Chính thống giáo Đông phương, vài nhóm Anh
giáo, vài nhóm Lutheran, Martin Luther, John Wesley tin Đức mẹ Đồng trinh chọn
đời ở Công đồng Constantinople II.
Giáo Hội Kháng Cách chỉ xem Mẹ Maria đồng trinh cho đến khi sinh Chúa
Jesus và chỉ coi bà là mẹ trần thế của Chúa Kito, nên chỉ tôn trọng chứ không tôn
kính Mẹ Maria như Công giáo.
7. Thẩm quyền Giáo Hội

Trong hầu khắp lịch sử Kito giáo, gia nhập giáo hội được xem là yếu tố căn
bản của đức tin. Thoạt đầu nguyên thủy sau khi Chúa Jesus chết và phục sinh, Cơ
Đốc hữu đơn thuần chỉ ngồi với nhau hội họp và ăn uống với nhau, ca hát, cầu
nguyện, tương tự dân Do Thái.
Dần dần, Tin mừng lan truyền khắp nơi vượt xa cả lãnh thổ Do Thái, dẫn tới
việc hình thành giáo hội.
13
13


Đến thế kỉ 3, nhà thần học Cyprian chỉ rõ: theo Giáo Hội là điều bắt buộc
trong đức tin Cơ Đốc. Ông ví Giáo hội như con thuyền của Noah trong cựu ước:
muốn thoát đại hồng thủy chỉ có cách lên con thuyền của Noah, cũng như vậy, nếu
muốn Chúa cứu độ nhất thiết phải ở trong giáo hội.
Giáo hội có quyền ban giáo huấn, tông huấn, tông thư, văn kiện, sắc lệnh đến
các tín hữu. Đây được gọi là Huấn Quyền.
Đối với các phong trào Kháng cách cho rẳng lời Chúa không cần qua chung
gian. Tự hiểu lời Chúa theo cách của từng Kito hữu. Chính vì vậy hầu hết phần lớn

các phái Kháng cách đều không có thần quyền mà đặt hết thẩm quyền vào Thánh
kinh. Tín đồ Công giáo xưng tội trong phòng kín với Linh Mục, là hình thức chủ
yếu; còn Giáo Hội Kháng Cách thì tín đồ chỉ xưng tội trực tiếp với Thiên Chúa mà
thôi.
Giáo Hội Kháng cách không lập ra một Tổ chức Giáo Hội Trung Ương như
Công giáo, mà lại xây dựng nhiều Giáo hội riêng rẽ, độc lập và tự trị. Dưới Giáo
Hội là các Chi Hội. Đại Hội các cấp của Giáo Hội Kháng Cách được gọi là Đại Hội
Đồng, có toàn quyền quyết định các công việc của toàn Giáo Hội.
Các Mục Sư Kháng Cách không có quyền thay mặt Thiên Chúa ban phước
hay tha tội cho tín đồ, không phải là cầu nối trung gian giữa Thiên Chúa và tín đồ.
Điều này hoàn toàn trái hẳn với các Linh Mục Công giáo La Mã.
8. Mười điều răn

10 điều răn:

14
14


Mười điều răn là danh sách các mệnh lệnh đạo đức và tôn giáo, theo Kinh
thánh, được Thiên Chúa (Gia-hô-vê) phán truyền Môi-sê ở núi Sinai và được khắc
vào hai phiến đá. Mười điều răn đóng vai trò quan trọng trong Do Thái
giáo và Kitô giáo. Bao gồm:
Thứ nhất: Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự
Thư hai: Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ
Thứ ba: Giữ ngày Chúa Nhật
Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ
Thứ năm: Chớ giết người
Thứ sáu: Chớ làm sự dâm dục
Thứ bảy: Chớ lấy của người

Thứ tám: Chớ làm chứng dối
Thứ chín: Chớ muốn vợ chồng người
Thứ mười: Chớ tham của người
XCHƯƠNG 2: NGHI LỄ CƠ BẢN TRONG KITÔ GIÁO
1. Các bí tích Công giáo ( Chính thống giáo gọi là Huyền nhiệm, Giáo hội Kháng

cách gọi là Điển lễ)

15
15


Trong Kitô giáo, các Bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng, do Đức
Kitô thiết lập và uỷ thác cho Hội Thánh, qua các Bí tích, sự sống thần linh được
trao ban cho các tín hữu.
Có 7 bí tích (Huyền nhiệm):
1 Bí tích Rửa Tội
2 Bí tích Thêm Sức
3 Bí tích Thánh Thể
4 Bí tích Hoà Giải
5 Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân
6 Bí tích Truyền Chức Thánh
7 Bí tích Hôn Phối
Bảy Bí tích trên được phân chia thành 3 loại (hoặc 3 nhóm):
Các Bí tích Khai tâm Kitô giáo: Bí tích Rửa Tội, Bí tích Thêm Sức và Bí tích
Thánh Thể. Các Bí tích này tái sinh, củng cố và nuôi dưỡng các tín hữu trong đời
sống mới.
Các Bí tích Chữa lành: Bí tích Hoà Giải và Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân.
Những Bí tích này phục hồi và củng cố đời sống mới của các tín hữu đã bị suy yếu
hoặc mất đi do tội lỗi.


16
16


Các bí tích Phục vụ/Xã hội: Bí tích Truyền Chức Thánh và Bí tích Hôn Phối.
Hai Bí tích này đem lại ân sủng riêng cho mỗi sứ vụ đặc biệt trong Hội Thánh để
xây dựng Dân Thiên Chúa.
Trong các Bí tích thì có những Bí tích mà người Kitô hữu chỉ được lãnh nhận
một lần và cũng có những Bí tích được trao ban nhiều lần cho một người:
Các Bí tích chỉ được lãnh nhận một lần:
Bí tích Rửa Tội, được một người lãnh nhận khi người đó trở thành một Kitô
hữu.
Bí tích Thêm Sức, được người Kitô lãnh nhận sau khi học xong Giáo lý Thêm
Sức.
Bí tích Truyền Chức Thánh, gồm 3 cấp bậc, mỗi cấp bậc chỉ được lãnh nhận
một lần.
Các Bí tích được lãnh nhận nhiều lần:
Bí tích Thánh Thể, được lãnh nhận trong mỗi Thánh lễ mà người Kitô hữu (đã
học xong Giáo lý Rước lễ) tham dự.
Bí tích Hoà Giải, đây là Bí tích mà người Kitô hữu phải lãnh nhận ít nhất một
lần mỗi năm.
Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân.
Bí tích đặc biệt:

17
17


Bí tích Hôn Phối là Bí tích khó có thể xếp vào nhóm lãnh nhận một lần hay

nhiều lần, vì còn tuỳ vào hoàn cảnh gia đình, điều kiện lãnh nhận,... và vấn đề ly
hôn, tái hôn trong Công Giáo vẫn còn rất nhạy cảm.
Phần lớn các nhóm Giáo Hội Kháng cách chỉ nhận 1 hoặc 2 điển lễ là Rửa tội
(Bắp tem) và Thánh thể ( mang tính chấp tượng trưng hơn là theo thuyết nhập thể
như Công giáo và Chính Thống giáo).
2. Thánh lễ

Thánh lễ là phụng vụ thờ phượng Thiên Chúa được thực hiện trong nhiều
dạng của Kitô giáo Tây phương. Thánh lễ (lễ misa) là thuật ngữ dùng chủ yếu
trong Giáo hội Công giáo Rôma, Anh giáo, Giáo hội Luther, Phong trào Giám Lý,
Chính thống giáo kiểu Tây phương và Giáo hội Công giáo Cổ. Thánh lễ được tiến
hành (dâng lễ) bởi một hay nhiều linh mục hay Giám mục với sự tham dự của các
giáo dân. Thánh lễ tiến hành bởi nhiều linh mục/Giám mục gọi là Thánh lễ đồng tế,
trong đó có một vị là Chủ tế. Thông thường Thánh lễ được tiến hành trong nhà thờ,
nhưng cũng có thể tiến hành ở nơi khác như bệnh viện, trường học, nhà riêng.
Không chỉ vậy Thánh lễ còn là ngày tưởng niệm một vị Thánh nào đó trong Thánh
đạo.
3. Năm Phụng vụ

Năm phụng vụ (hay còn gọi là Lịch Kito giáo) là chu kỳ thời gian xác định
bằng các mùa phụng vụ với những nghi thức và lễ hội đặc trưng của Kito giáo,
được tổ chức bám sát với diễn tiến nội dung trong Kinh Thánh. Năm phụng vụ có
sự khác biệt giữa Kitô giáo Tây phương (Công giáo Roma, Anh giáo, Giáo hội
Luther và Kháng Cách) với Chính thống giáo Đông phương, song, diễn tiến và tính
nhất quán là như nhau. Đối với các giáo hội Tây phương lẫn Đông phương, ngày
18
18


tháng tổ chức các lễ hội nhỏ thay đổi từ năm này qua năm khác nhưng đều dựa vào

sự thay đổi của Lễ Phục Sinh. Có thể nhận ra biểu hiện rõ nét nhất về các mùa lễ
hội này bằng việc ăn chay, liên hoan, trang trí nhà thờ v.v.. ở Giáo hội Công giáo
Rôma và Chính thống giáo Đông phương, tuy nhiên, cộng đồng Kháng Cách lại ít
biểu hiện ra điều này.
a. Chu kì Phụng vụ

Năm phụng vụ thực tế dựa vào chu kỳ thời gian của năm Dương lịch để chia
thành các mùa phụng vụ mà từng mùa có tâm trạng, chiều kích thần học và những
nghi thức khác nhau, được biểu hiện qua những đề tài thuyết giáo, các đoạn Kinh
Thánh chọn lọc, màu lễ phục, kiểu trang trí nhà thờ… thậm chí có thể quan sát qua
tâm trạng từng tín đồ. Trong các giáo hội có sử dụng năm phụng vụ, các đoạn Kinh
Thánh được chọn lọc và phân chia để đọc theo ngày (đặc biệt là ngày Chủ nhật)
gọi là Quy điển Thánh Kinh. Năm Phụng Vụ có thể là năm A, năm B hoặc C được
lặp đi lặp lại 3 năm một lần, mỗi năm như vậy sẽ quy định các bài đọc khác nhau.
Nếu số năm của năm đó chia hết cho 3 thì đó là năm C (Các Thánh Lễ Chúa Nhật
sẽ đọc Tin Mừng theo Thánh Luca), nếu chia 3 dư 1 thì đó là năm A (Các Thánh Lễ
Chúa Nhật sẽ đọc Tin Mừng theo Thánh Mátthêu), còn nếu chia 3 dư 2 thì là năm
B (Các Thánh Lễ Chúa Nhật sẽ đọc Tin Mừng theo Thánh Máccô, và một phần Tin
Mừng theo Thánh Gioan; do Phúc Âm Máccô hơi ngắn). Ngoài ra, dựa vào chữ số
tận cùng của năm đó để chia ra năm chẵn (nếu là số chẵn) tương ứng với các bài
đọc 1 của Thánh Lễ ngày thường là các bài đọc của năm chẵn; và năm lẻ (nếu là số
lẻ) tương ứng với các bài đọc 1 của Thánh Lễ ngày thường là các bài đọc của năm
lẻ.
b. Lịch phụng vụ theo Kito giáo Phương Tây.

19
19


Lịch phụng vụ của Kitô giáo Tây phương (hay còn gọi là Lịch Công giáo) hầu

hết dựa vào Lịch Phụng vụ của Hội Thánh Rôma (kể cả giáo hội Luther, Anh giáo
và Tin Lành) trước khi có cuộc cải cách Kháng Cách. Nói chung, các mùa phụng
vụ trong năm của Kitô giáo Tây phương là Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa
Thường Niên (trước đây gọi là Mùa Quanh Năm), Mùa Chay, Mùa Phục Sinh và
Mùa Thường Niên (tiếp theo).
Mùa Vọng
Mùa Vọng (tiếng Việt nghĩa là "sự trông chờ", "hy vọng"; tiếng
Latinh: adventus nghĩa là "đến") là mùa đầu tiên của năm phụng vụ bao gồm
khoảng thời gian phủ kín bốn Chủ nhật trước Lễ Giáng sinh. Mùa Vọng bắt đầu từ
giờ kinh Chiều I ngày thứ bảy trước ngày Chúa nhật nhằm ngày 30 tháng 11, hoặc
nhằm ngày nào gần nhất, và kết thúc trước giờ kinh Chiều I ngày 24/12 (lễ Vọng
Chúa Giáng Sinh). Mùa Vọng được chia ra làm hai giai đoạn, trong đó giai đoạn từ
đầu mùa Vọng cho đến hết ngày 16/12 mang ý nghĩa mong chờ ngày Chúa đến lần
thứ hai, còn giai đoạn hai từ ngày 17/12 đến chiều ngày 24/12 nhằm đón chờ ngày
Chúa Giáng sinh. Bầu không khí của mùa này tuy không buồn bã như Mùa Chay
nhưng được liệu sao để không đi trước niềm vui tột độ của Lễ Giáng Sinh sau đó.
Bằng nhiều hình thức, có thể là bốn vòng hoa hay bốn ngọn nến, nhiều nơi sử dụng
nó để đánh dấu thời gian cho bốn tuần của Mùa Vọng với ý nghĩa tượng trưng: "Hy
vọng", "Tin tưởng", "Niềm vui" và "Tình yêu". Màu lễ phục truyền thống trong
mùa này là màu tím nhưng vào Chủ nhật thứ ba, có thể sử dụng lễ phục màu hồng
và được gọi với cái tên là Chúa Nhật Hãy Vui Lên (Chúa Nhật Gaudete).

Mùa Giáng Sinh
20
20


Mùa Giáng sinh bắt đầu từ giờ Kinh Chiều I ngày 24/12 (lễ Vọng Chúa Giáng
sinh) đến hết ngày Lễ Chúa Jesus chịu Phép rửa với ý nghĩa mừng sự kiện Chúa
Jesus giáng trần năm xưa.


Mùa Thường niên
Mùa Thường niên là mùa phụng vụ không mang ý nghĩa thần học đặc biệt nào
thông thương gồm 33 hoặc 34 tuần lễ (tùy năm) và được chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1 bắt đầu từ sau Lễ Chúa Jesus chịu Phép rửa đến trước Thứ tư Lễ Tro.
Giai đoạn 2 bắt đầu từ sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và kết thúc trước giờ
Kinh Chiều I ngày thứ bảy trước Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng (của năm phụng
vụ tiếp theo). Ngoài dịp Lễ Giáng Sinh và Lễ Phục Sinh là cao điểm của năm
phụng vụ, các lễ quan trọng khác thường được bố trí vào Mùa Thường niên. Màu
lễ phục thường là màu xanh lá, đỏ, tím, vàng.

Mùa Chay
Mùa Chay thực chất là mùa mà nhiều giáo hội Kitô giáo chuẩn bị cho Lễ
Phục Sinh, bắt đầu vào Thứ tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly vào
chiều Thứ năm Tuần Thánh (tròn 40 ngày). Cũng như Mùa Vọng, Kinh Vinh Danh
và Allelujah nói chung không được hát trong mùa này. Mùa Chay với màu tím
truyến thống mang bầu không khí trầm buồn thể hiện hai chiều kích thần học: sự
ăn năn thống hối của từng tín đồ và Cuộc thương khó của Jesus Kito. Công giáo
Rôma quy định không được phép hát Kinh Vinh Danh và "Alleluia" trong mùa này.
Ngày Chúa Nhật thứ tư của mùa Chay có thể mặc lễ phục hồng và được gọi với cái
21
21


tên là Chúa Nhật Mừng Vui Lên (Chúa Nhật Laetare). Kể từ ngày Chúa Nhật thứ
năm mùa Chay, tất cả các ảnh tượng trong nhà thờ sẽ được che phủ bằng vải tím và
sẽ được lột ra vào đêm Vọng Phục Sinh thứ bảy Tuần Thánh. Mùa Chay kết thúc sẽ
được tiếp nối bằng Tam nhật Thánh là đỉnh cao của năm Phụng Vụ bao gồm:
Thứ năm Tuần Thánh (hay Thứ năm Rửa chân)
-


Các nhà thờ chính tòa cử hành Thánh lễ Truyền Dầu vào buổi sáng (các linh mục
trong toàn giáo phận sẽ về nhà thờ chính toà để cử hành, với ý nghĩa tưởng niệm

-

việc Chúa Jesus thiết lập Bí tích Truyền Chức Thánh).
Buổi chiều cử hành Thánh lễ Tiệc Ly.
Có thể có nghi thức rửa chân.
Theo thông lệ, sau Thánh lễ Tiệc Ly sẽ có kiệu Mình Thánh Chúa và chầu Thánh
Thể cho đến nửa đêm.
Thứ sáu Tuần Thánh (hay Thứ sáu Tốt lành)

-

Cử hành nghi thức đi đàng Thánh Giá.
Nghi thức tưởng niệm Cuộc thương khó của Jesus.
Giáo hội Công giáo Roma không cử hành thánh lễ vào ngày này nhưng khuyến
khích việc cầu nguyện. Quy định các tín hữu giữ chay và kiêng thịt.
Thứ bảy Tuần Thánh, là đỉnh cao của Tam Nhật Thánh.

-

Kỷ niệm việc an táng Chúa Jesus trong mồ.
Buổi tối tổ chức Lễ Vọng Phục Sinh với những nghi thức rất long trọng tiên liệu về
sự sống lại của Chúa Jesus.
Mùa Phục Sinh
Mùa Phục Sinh bắt đầu từ Chúa nhật I Phục Sinh đến hết Chúa nhật Chúa
Thánh Thần Hiện xuống (Lễ Ngũ Tuần), thời gian thay đổi theo từng năm. Cách
22

22


tính ngày Lễ Phục Sinh được quy định tại Công đồng Nicaea I và được áp dụng
cho đến tận ngày nay như sau: Lễ Phục Sinh là ngày Chúa Nhật liền kề sau ngày
trăng tròn đầu tiên trong hoặc sau tiết Xuân Phân. Như vậy Lễ Phục Sinh chỉ có thể
rơi vào trong khoảng từ ngày 22/3 đến 25/4. Ngày thứ 40 kể từ Lễ Phục Sinh là lễ
Chúa Jesus lên trời (tức Lễ Thăng Thiên, rơi vào ngày Thứ năm) nhưng thường
được dời vào ngày Chúa nhật kế tiếp. Ngày thứ 50 kể từ ngày Lễ Phục Sinh là
ngày Lễ Ngũ Tuần kỉ niệm Chúa Thánh Thần hiện xuống với các tông đồ theo Tân
Ước, ngày này cũng được coi là ngày khai sinh ra Giáo hội.

Các lễ quan trọng khác
Trong năm phụng vụ, Giáo luật quy định ngoài các ngày Chúa Nhật trong
năm thì còn có 10 ngày lễ trọng buộc khác (buộc các tín hữu phải kiêng việc xác và
phải tham dự thánh lễ vào đúng ngày lễ hoặc chiều hôm trước ngày lễ), tuy nhiên
Giáo hội tại địa phương có quyền lược bớt các ngày lễ buộc hoặc dời nó qua ngày
Chúa Nhật, các ngày lễ đó bao gồm:
Bốn lễ trọng kính Chúa:
Lễ Chúa Giáng Sinh (từ chiều 24/12 cho đến hết 25/12) là một trong những
ngày lễ quan trọng nhất trong Kito Giáo, với việc mừng biến cố Chúa Giáng sinh
làm người, trong dịp lễ này, các nhà thờ và nhiều nơi sẽ trang trí để đón mừng
Giáng sinh, tổ chức các buổi hoà nhạc Thánh ca. Lễ Giáng sinh được hưởng ứng
không chỉ bởi các Kito hữu mà còn bao gồm những người không phải Kito hữu.
Lễ Hiển Linh vào ngày 6/1 hàng năm mừng kính việc Chúa Jesus tỏ mình ra
cho ba nhà đạo sĩ. Tuy nhiên nơi nào lễ Hiển Linh không phải là lễ buộc thì sẽ
23
23



được mừng kính vào ngày Chúa Nhật trong khoảng từ ngày 2 đến ngày 8/1 như
ngày riêng của lễ đó.
Lễ Thăng Thiên được cử hành vào ngày thứ 40 kể từ lễ Phục Sinh, và do đó lễ
này luôn rơi vào ngày thứ năm sau Chúa Nhật thứ sáu mùa Phục Sinh, lễ này mừng
kính việc Chúa Jesus lên trời sau khi đã sống lại và hiện ra với các Tông Đồ. Tuy
nhiên nơi nào lễ Thăng Thiên không phải là lễ buộc thì sẽ được mừng kính vào
ngày Chúa Nhật thứ bảy mùa Phục Sinh như ngày riêng của lễ đó.
Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Jesus Kito được cử hành 60 ngày sau lễ Phục
Sinh, và do đó lễ này luôn rơi vào ngày thứ năm sau Chúa Nhật đầu tiên sau Lễ
Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, lễ này tôn kính dấu chỉ của việc Chúa Jesus hiện
diện trong Bí tích Thánh Thể, và trong ngày này các nhà thờ sẽ tổ chức việc chầu
Mình Thánh Chúa. Ở nhiều nơi trên thế giới, trong ngày lễ này sẽ có các cuộc rước
kiệu Mình Thánh Chúa trọng thể qua các đường phố. Đối với những nơi mà lễ
Mình và Máu Thánh Chúa Kitô không phải là lễ buộc thì sẽ được mừng kính vào
ngày Chúa Nhật thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống như ngày riêng của
lễ đó.
Ba lễ trọng kính Đức Trinh nữ Maria:
Lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa được mừng kính vào ngày 1/1 hàng năm và
cũng là ngày kết thúc tuần Bát nhật Giáng Sinh, lễ này mừng kính tước hiệu Đức
Trinh nữ Maria được gọi là Mẹ Chúa trời vì đã cưu mang và nuôi nấng Đức Kitô,
trong ngày này cũng nhớ đến việc đặt tên cho Chúa Jesus.
Lễ Đức Maria hồn xác Lên trời (hay Mông Triệu, dịch sát nghĩa là "rước về
trời trong giấc mộng") được mừng kính vào ngày 15 tháng 8 hằng năm. Đây là
ngày lễ cổ xưa nhất của Công giáo còn tồn tại với ý nghĩa mừng sự kiện mà họ tin
24
24


rằng Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả linh hồn và thể xác. Niềm tin này
được Giáo hoàng Piô XII định chế thành ‘’tín điều’’ (Munificentissimus Deus) vào

ngày 1 tháng 11 năm 1950. Anh giáo cũng như vài giáo phái Kháng Cách khác
cũng kỉ niệm vào ngày này nhưng với ý nghĩa mừng Thánh Maria.
Lễ Đức Maria vô nhiễm nguyên tội được mừng kính vào ngày 8/12 hàng năm
với niềm tin rằng Đức Maria khi được sinh ra đã không bị mắc phải tội của Tổ tông
do Adam và Eva để lại.
Ba lễ trọng kính các Thánh:
-

Lễ kính Thánh Giuse vào ngày 19/3 hàng năm.
Lễ hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô vào ngày 29/6 hàng năm.
Lễ Các Thánh vào ngày 1/11 hàng năm.
Trong năm phụng vụ cũng có những ngày lễ trọng nhưng không buộc đó là
các ngày:

-

Thứ tư Lễ Tro khởi đầu của mùa Chay, buộc các tín hữu giữ chay và kiêng thịt.
Lễ Truyền Tin vào ngày 25/3 hàng năm.
Lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả vào ngày 24/6 hàng năm.
Lễ kính Trái Tim Đức Chúa Jesus cử hành sau 19 ngày tính từ Lễ Chúa Thánh

-

Thần Hiện Xuống.
Các ngày trong tuần Thánh và tuần Bát nhật Phục Sinh được cử hành như các ngày
lễ trọng (nghĩa là các ngày này được ưu tiên trên mọi lễ trọng khác).

c. Lịch phụng vụ theo Kito giáo phương Đông

Năm phụng vụ của tín đồ Chính thống giáo cũng tương tự như Công giáo

Rôma nhưng nếu Công giáo ăn chay cao điểm vào Mùa Chay sau đó là lễ Phục
Sinh thì Chính thống giáo có sự xen kẽ giữa ăn chay và lễ quanh năm. Tuy nhiên,
25
25


×