Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

HỢP ĐỒNG CUNG CẤP DỊCH VỤ VIỄN THÔNG DI ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN VNPT-VINAPHONE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ MINH THẮNG

HỢP ĐỒNG CUNG CẤP DỊCH VỤ VIỄN THÔNG
DI ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN VNPT-VINAPHONE ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ MINH THẮNG

HỢP ĐỒNG CUNG CẤP DỊCH VỤ VIỄN THÔNG
DI ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN VNPT-VINAPHONE ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 8 38 01 07


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS BÙI NGUYÊN KHÁNH

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, nội
dung trích dẫn nêu trong luận văn là chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn không trùng lặp và chưa từng được công bố ở các công
trình nghiên cứu trước đó.
Tác giả luận văn

HỒ MINH THẮNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG CUNG CẤP
DỊCH VỤ VIỄN THÔNG DI DỘNG ......................................................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di
động .............................................................................................................................6
1.2. Cơ cấu pháp luật đối với hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động................17
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật đối với hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn
thông di động.............................................................................................................22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CUNG CẤP
DỊCH VỤ VIỄN THÔNG DI DỘNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VNPTVINAPHONE ĐÀ NẴNG .......................................................................................26
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di
động tại VNPT-Vinaphone Đà Nẵng ........................................................................26
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di

động tại VNPT-Vinaphone Đà Nẵng ........................................................................35
2.3. Những ưu điểm và hạn chế bất cập về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di
động theo pháp luật Việt Nam tại VNPT-Vinaphone Đà Nẵng................................54
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CUNG CẤP DỊCH VỤ VIỄN THÔNG DI DỘNG TỪ
THỰC TIỄN VNPT-VINAPHONE ĐÀ NẴNG ...................................................59
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông
di động từ thực tiễn VNPT-Vinaphone Đà Nẵng......................................................59
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di
động từ thực tiễn VNPT-Vinaphone Đà Nẵng ..........................................................62
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

BLDS 2015

Bộ luật dân sự năm 2015

2


LTM 2005

Luật Thương mại năm 2005

3

LBVNTD 2010

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010

4

BTTTT

Bộ Thông tin và Truyền thông

5

VNPT

Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam

6

VNPT-Vinaphone Tổng Công ty Dịch vụ Viễn thông

7

DVVT


Dịch vụ viễn thông

8

VT-CNTT

Viễn thông – Công nghệ thông tin


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu

Tên hình

Trang

hình
2.1

Sơ đồ cơ cấu tổ chức VNPT

39

2.2

Sơ đồ kênh bán hàng

40



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viễn thông là một ngành kinh tế kỹ thuật, có vai trò vừa là dịch vụ thông tin
liên lạc, vừa là một phương tiện, nền tảng để chuyền tải các loại hình dịch vụ khác
về thông tin truyền thông. Đây cũng là một ngành đặc biệt quan trọng trong nền
kinh tế và có liên quan đến tất cả các ngành trong quá trình sản xuất, thương mại và
đầu tư,... cũng như liên quan đến đời sống nhân dân và an ninh quốc phòng.
Sự phát triển ngày càng nhanh chóng của ngành dịch vụ viễn thông nói
chung và dịch vụ viễn thông di động nói riêng trong những năm gần đây đã mang
lại những tiện ích và đáp ứng nhu cầu không thể thiếu cho con người trong xã hội.
Không những thế, dịch vụ viễn thông còn là dịch vụ hạ tầng có vai trò quyết định
đối với sự phát triển của các loại hình dịch vụ khác, đặc biệt là dịch vụ viễn
thông di động.
Trong những năm qua, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ, phát
triển doanh nghiệp, tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp viễn thông phát triển,
từ đó thị trường viễn thông đã phát triển mạnh mẽ và tạo ra môi trường cạnh tranh,
dẫn đến các doanh nghiệp viễn thông phải nâng cao chất lượng dịch vụ để đáp ứng
nhu cầu của người sử dụng dịch vụ viễn thông.
Hiện nay, trên địa bàn Thành Phố Đà Nẵng có rất nhiều Doanh nghiệp Viễn
thông cung cấp dịch vụ viễn thông di động. Trong đó, VNPT-Vinaphone Đà Nẵng
là một trong những đơn vị tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông di động có hạ tầng,
mạng lưới và thị phần rộng lớn.
VNPT-Vinaphone Đà Nẵng là đơn vị doanh nghiệp Nhà nước có chức năng
kinh doanh dịch vụ Viễn thông - Công nghệ thông tin. Ngoài việc kinh doanh,
VNPT-Vinaphone Đà Nẵng còn thực hiện trọng trách, đảm bảo an ninh quốc phòng,
phục vụ các cơ quan Đảng, chính quyền địa phương,... Việc nâng cao chất lượng
dịch vụ và đáp ứng nhu cầu sử dụng của khách hàng, luôn được VNPT-Vinaphone
Đà Nẵng quan tâm hàng đầu.


1


Hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động mà VNPT-Vinaphone Đà
Nẵng sử dụng là hợp đồng theo mẫu được soạn sẵn nên rất thuận lợi trong quá trình
giao kết, giúp đơn giản hóa thủ tục, giảm thời gian và chi phí cho hàng triệu thuê
bao trong quá trình xác lập hợp đồng.
Tuy nhiên, VNPT-Vinaphone Đà Nẵng sử dụng hợp đồng theo mẫu với điều
khoản cơ bản, thông tin về sản phẩm dịch vụ, nội dung giải thích không có trong
hợp đồng, nên dễ gây ra sự hiểu nhầm, không công bằng cho người tiêu dùng trong
việc xác lập hợp đồng
Trong thực tiễn việc áp dụng pháp luật Dân sự, pháp luật Viễn thông và các
văn bản hướng dẫn thi hành vào điều chỉnh các quan hệ hợp đồng cung cấp dịch vụ
Viễn thông di động đôi khi còn lúng túng; một số quy định không còn phù hợp với
hoàn cảnh đã thay đổi, còn thiếu cần được bổ sung.
Do đó, việc nghiên cứu, làm sáng tỏ các nội dung, quy định của pháp luật
hiện hành đối với hợp đồng cung cấp dịch vụ Viễn thông di động trong lĩnh vực
viễn thông, nhất là gắn liền với VNPT-Vinaphone Đà Nẵng là có tính cấp thiết, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan đến đề tài này, đã có một số công trình nghiên cứu, như sau:
- Luận văn thạc sĩ luật học (2010) về “Tìm hiểu pháp luật về dịch vụ viễn
thông tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hoàng Hằng, Đại học Luật Hà Nội.
- Luận án tiến sĩ luật học (2017) về “Hợp đồng dịch vụ theo quy định pháp
luật dân sự Việt Nam hiện hành” của tác giả Kiều Thị Thùy Linh, Đại Học Luật
Hà Nội.
- Luận văn thạc sĩ luật học (2018) về “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông di động mặt đất” của tác giả
Đỗ Tuấn Phong, Đại Học Luật Huế.
Ngoài ra, còn có các bài báo, bài bình luận, tạp chí chuyên khảo

nghiên cứu hoặc đề cập đến thực hiện Hợp đồng dịch vụ hay Hợp đồng cung cấp
dịch vụ viễn thông. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu nhất là gắn với

2


một hệ thống cơ quan cụ thể là VNPT-Vinaphone Đà Nẵng. Do đó, đề tài này
không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của
hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động; phân tích, đánh giá thực trạng các
quy định pháp luật về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động ở Việt Nam
hiện nay và thực tiễn thực hiện tại VNPT-Vinaphone Đà Nẵng; để từ đó đề xuất các
phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn
thông di động ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật Hợp đồng cung
cấp dịch vụ viễn thông di động;
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về hợp đồng cung cấp
dịch vụ viễn thông di động ở Việt Nam hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về hợp đồng
cung cấp dịch vụ viễn thông di động tại VNPT-Vinaphone Đà Nẵng;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
cung cấp dịch vụ viễn thông di động ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu các quan điểm, học thuyết pháp lý, kinh tế về dịch vụ
viễn thông và Hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động của VNPT-Vinaphone

Đà Nẵng.
- Nghiên cứu các văn bản pháp luật về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông
di động của Việt Nam như: Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Viễn thông,…
- Nghiên cứu pháp luật về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động
như: nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định và chỉ ra những vướng mắc trong
áp dụng tại VNPT-Vinaphone Đà Nẵng.

3


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp đồng cung cấp dịch vụ
viễn thông di động và thực tiễn thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di
động của VNPT-Vinaphone Đà Nẵng. Được giới hạn trong các quy định của pháp
luật hiện hành (Bộ luật Dân sự 2015, Luật Thương mại 2005, Luật Viễn thông 2009
và các văn bản pháp luật khác có liên quan), các số liệu thực tế từ năm 2015 đến nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở bám sát các quan điểm, chủ trương, đường lối,
định hướng của Đảng và Nhà nước về Hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với điều
kiện kinh tế - văn hóa - xã hội của Việt Nam. Những luận cứ khoa học, các học
thuyết pháp lý đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp sau:
Phương pháp tổng hợp và hệ thống hóa lý thuyết được sử dụng phần lớn
trong nội dung Chương 1 nhằm khái quát chung những vấn đề lý luận hợp đồng
cung cấp dịch vụ viễn thông di động.
Phương pháp phân tích văn bản và phân tích quy phạm được sử dụng trong

cả nội dung Chương 1 và Chương 2, nhằm phân tích các quy định của Bộ luật Dân
sự 2015, Luật Thương mại 2005, Luật Viễn thông 2009 và các văn bản pháp luật
liên quan về quy định hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động.
Phương pháp so sánh được sử dụng trong Chương 2 để so sánh các quy định
về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động giữa Bộ luật Dân sự 2015, Luật
Viễn thông 2009 và các văn bản pháp luật liên quan khác.
Phương pháp đánh giá, bình luận được sử dụng trong Chương 2 để thể hiện
những quan điểm của mình trong các quy định và thực tiễn thực thi pháp luật về
hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động.

4


Vận dụng kết hợp các phương pháp thống kê, phân tích, phương pháp so
sánh trong Chương 3 để đưa ra quan điểm, các giải pháp nhằm hoàn thiện hợp đồng
cung cấp dịch vụ viễn thông di động của VNPT-Vinaphone Đà Nẵng hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Luận văn phát triển một số vấn đề lý luận mới về pháp luật hợp đồng cung
cấp dịch vụ viễn thông di động, và kết quả nghiên cứu góp phần không nhỏ vào việc
nâng cao hiệu quả giao kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di
động. Góp phần vào việc xây dựng luận cứ khoa học trong hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Nhận diện những hạn chế trong thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng
cung cấp dịch vụ viễn thông di động. Góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện
pháp luật về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động và kinh nghiệm thực
tiễn cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ viễn thông bằng các giải
pháp cụ thể.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu gồm có 03 chương, như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông
di động.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di
động và thực tiễn áp dụng tại VNPT-Vinaphone Đà Nẵng.
Chương 3. Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
cung cấp dịch vụ viễn thông di động từ thực tiễn VNPT-Vinaphone Đà Nẵng.

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG
CUNG CẤP DỊCH VỤ VIỄN THÔNG DI DỘNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn
thông di động

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di
động
1.1.1.1. Viễn thông
Khái niệm thuộc lĩnh vực viễn thông được hiểu gồm thiết bị viễn thông, thiết
bị mạng, thiết bị đầu cuối, điểm kết cuối, dịch vụ viễn thông, đường truyền dẫn, tài
nguyên thông tin (kho số viễn thông, phổ tần số vô tuyến điện, tài nguyên internet,
quỹ đạo vệ tinh), sóng vô tuyến điện, thiết bị vô tuyến. Sản phẩm viễn thông rất đa
dạng, bao gồm cả sản phẩm hữu hình là các thiết bị viễn thông và sản phẩm vô hình
là các dịch vụ viễn thông.
Viễn thông được định nghĩa là dịch vụ truyền dữ liệu như tín hiệu, ký hiệu,
số liệu, âm thanh, hình ảnh, chữ viết hoặc các hình thức khác của thông tin giữa các
điểm kết cuối của mạng viễn thông.

Thông thường viễn thông được chia thành các nhóm sau:
 Viễn thông di động (bao gồm các dịch vụ: viễn thông di động mặt đất,
viễn thông di động vệ tinh, viễn thông di động hàng hải, viễn thông di
động hàng không).
 Viễn thông cố định (bao gồm các dịch vụ: viễn thông cố định mặt đất,
viễn thông cố định vệ tinh);
 Viễn thông cộng thêm (là dịch vụ tăng thêm tính năng, tiện ích cho
người sử dụng dịch vụ viễn thông, là một phần không tách rời và được
cung cấp cùng với các dịch vụ viễn thông cơ bản và giá trị gia tăng).
 Các dịch vụ viễn thông khác theo quy định của Bộ Thông tin và
Truyền thông.

6


Như vậy, viễn thông là một dạng trao đổi thông tin, và là hình thức trao đổi
thông tin hiện đại trong xu thế hiện nay. Khi nói đến viễn thông là nói đến một hệ
thống cung cấp dịch vụ viễn thông bao gồm các yếu tố cấu thành nên mạng lưới
cung cấp: Khách hàng, nhà cung cấp dịch vụ và nhà cung cấp mạng (nhà cung cấp
hạ tầng mạng, quản lý và điều hành mạng). Trong đó, người sử dụng dịch vụ viễn
thông có thể là những cá nhân, tập thể, tổ chức doanh nghiệp hay Chính phủ có nhu
cầu trao đổi thông tin. Nhà cung cấp là các doanh nghiệp cung cấp một số hay phần
lớn dịch vụ viễn thông. Môi trường vật chất cần thiết cho việc cung cấp dịch vụ
viễn thông bao gồm hệ thống: tổng đài, nhà trạm, mạng cáp, thiết bị chuyển mạch,
truyền dẫn, các điểm giao dịch và con người trong doanh nghiệp.
1.1.1.2. Dịch vụ
Dịch vụ là hành vi thực hiện công việc nhất định đáp ứng nhu cầu của con
người, được thực hiện có tính chuyên môn hóa, có tổ chức, là một loại hàng hóa
luôn gắn liền với thị trường, chịu sự chi phối của quy luật thị trường và luôn có tính
chất đền bù.

Hiện nay, nhiều quan điểm về dịch vụ tồn tại tương ứng với các góc độ
nghiên cứu khác nhau. Dịch vụ là hoạt động kinh tế nên nhiều nhà kinh tế học coi
dịch vụ "là quá trình lao động, sinh ra và mất đi cùng thời điểm với quá trình lao
động đó, theo đó dịch vụ là một hàng hóa vô hình và có tính chất nhất thời".
Theo Karl, M cho rằng: “Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng
hóa khi mà nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông thông
suốt, trôi chảy, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao đó của con người thì
dịch vụ ngày càng phát triển” (Karl, M.1890, tr 576). Điều này đã phản ánh rõ nét
nguồn gốc ra đời của dịch vụ. Kinh tế loài người trải qua hai giai đoạn sản xuất kinh
tế: Kinh tế sản xuất tự cung tự cấp (còn được gọi là kinh tế tự nhiên) và kinh tế sản
xuất hàng hóa. Khi giai đoạn kinh tế mang tính chất tự cung tự cấp không thể đáp
ứng được, nền kinh tế của loài người chuyển dần sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa
cũng là các điều kiện ra đời của dịch vụ vì dịch vụ được thừa nhận là “con đẻ” của
nền kinh tế sản xuất này.
Từ nguồn gốc ra đời của dịch vụ có thể thấy dịch vụ mang các thuộc tính cơ

7


bản sau:
- Dịch vụ là hành vi của con người thực hiện công việc nhất định đáp ứng
nhu cầu của chủ thể trong xã hội. Dịch vụ là hành vi có ý chí của con người, có thể
được hỗ trợ bởi máy móc, khoa học kỹ thuật với mục tiêu đem lại lợi ích vật chất
(kết quả hoạt động gia công, kết quả hoạt động sửa chữa…) hoặc lợi ích tinh thần
cho con người.
- Dịch vụ là các hoạt động được thực hiện có tính chuyên môn hóa, có tổ
chức. Quá trình phân công lao động xã hội chính là quá trình nâng cao kinh nghiệm,
chuyên môn hóa từng lĩnh vực cụ thể. Các chủ thể thực thi chuyên môn hóa là
những chủ thể làm về một phạm vi, một việc gì đó. Xuất phát từ thuộc tính này nên
giữa người cung ứng dịch vụ với người thuê dịch vụ luôn có sự độc lập trong quá

trình thực hiện công việc.
- Dịch vụ là một hàng hóa luôn gắn liền với thị trường, chịu sự chi phối của
quy luật thị trường. Dịch vụ là một thứ hàng hóa đặc biệt được mua đi bán lại trên
thị trường. Trao đổi dịch vụ trên thị trường được xác định theo hai giá trị là giá trị
sử dụng và giá trị hàng hóa. Các quy luật của kinh tế thị trường trực tiếp chi phối
đến sự ra đời, lưu thông dịch vụ trên thị trường.
- Các giao dịch cung ứng, sử dụng dịch vụ luôn mang tính đền bù. Người
thuê dịch vụ buộc phải trả một khoản tiền nhất định tương đương với giá trị dịch vụ
cho bên cung ứng dịch vụ.
Ở một góc độ nào đó mỗi người có cách nhìn, cảm nhận khác nhau về dịch
vụ, nhưng chung quy lại có thể hiểu về dịch vụ như sau: “Dịch vụ là những hoạt
động lao động mang tính xã hội mà kết quả của chúng không tồn tại dưới hình thái
vật thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu, nhằm thỏa mãn kịp thời các nhu
cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người.”
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tham gia sản xuất dịch vụ cũng đều xây
dựng hệ thống cung ứng về dịch vụ của mình, nếu không có hệ thống này thì không
thể có dịch vụ. Mỗi một loại dịch vụ đều gắn liền với một hệ thống cung ứng đặc
trưng cho loại dịch vụ đó. Hệ thống này là kết quả của sự gắn kết với những ý

8


tưởng, chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp và mức độ cung ứng dịch vụ cho khách
hàng. Do đó khi đề cập đến dịch vụ không thể không nói đến hệ thống cung cấp
dịch vụ.
Hệ thống cung ứng dịch vụ được thực hiện theo một quy trình tổ chức chặt
chẽ bao gồm các yếu tố vật chất và con người phối hợp với nhau, đảm bảo cho việc
cung cấp và sử dụng dịch vụ tới khách hàng một cách có hiệu quả. Các yếu tố trong
hệ thống bao gồm: bên cung ứng dịch vụ, cơ sở vật chất cần thiết cho việc cung cấp
dịch vụ, khách hàng và bản thân dịch vụ. Các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ

với nhau trong hệ thống và hoạt động có định hướng, bao gồm các yếu tố vô hình và
hữu hình, các yếu tố vật chất và tâm lý tình cảm đan xen nhau trong quá trình tạo ra
dịch vụ.
1.1.1.3. Dịch vụ viễn thông di động
Dịch vụ viễn thông di động là một tập hợp các hoạt động bao gồm các nhân
tố không hiện hữu, tạo ra chuỗi giá trị và mang lại lợi ích tổng hợp cho người sử
dụng, giúp người sử dụng liên lạc và kết nối với bạn bè, cộng đồng và thế giới. Dịch
vụ viễn thông di động là một dịch vụ liên lạc, cũng như bản chất chung của dịch vụ,
nó được phân ra 2 loại: Dịch vụ cơ bản và dịch vụ giá trị gia tăng.
- Dịch vụ cơ bản: gồm dịch vụ thoại và tin nhắn thông thường. Hiện tại các
mạng di động tại Việt Nam đang cung cấp dịch vụ cơ bản là thoại dưới hai hình
thức: gói cước trả trước (prepaid) và gói cước trả sau (postpaid).
- Dịch vụ giá trị gia tăng: gồm các dịch vụ gia tăng khác phục vụ các nhu cầu
đa dạng trong liên lạc và giao tiếp của khách hàng như: Internet, giải trí, truyền dữ
liệu,…
1.1.1.4. Hợp đồng dịch vụ
Hợp đồng là thuật ngữ pháp lý được sử dụng để chỉ các giao dịch dân sự,
thông qua việc thỏa thuận nhằm chuyển giao lợi ích giữa các cá nhân và tổ chức với
nhau trong lĩnh vực luật tư mà trước đây thường được gọi là “văn tự”, “văn khế”,
“khế ước” hay “giao kèo”. Năm 1989, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ra đời và đến
năm 1991 thì Pháp lệnh hợp đồng dân sự được ban hành. Theo đó, về mặt pháp lý

9


hợp đồng dân sự là một bộ phận các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình trao đổi các lợi ích
giữa các chủ thể với nhau. Về mặt ý chí, hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân
sự mà các bên tự do thỏa thuận với nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất
định. Hợp đồng là một loại giao dịch dân sự làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của

các bên tham gia. Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Hợp đồng dịch vụ là thuật ngữ được sử dụng trong nhiều bối cảnh khác nhau.
Hợp đồng dịch vụ có thể được dùng dưới góc độ là quan hệ xã hội được pháp luật
điều chỉnh và cũng có thể là tổng hợp các quy định pháp luật do Nhà nước ban hành
nhằm điều chỉnh các vấn đề liên quan đến cung ứng, sử dụng dịch vụ.
Dưới góc độ là quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh giữa bên cung ứng
dịch vụ với bên sử dụng dịch vụ: Hợp đồng dịch vụ là quan hệ giữa bên cung ứng
dịch vụ với bên thuê dịch vụ hướng mà bên cung ứng dịch vụ thực hiện một công
việc nhất định đem lại lợi ích cho bên thuê dịch vụ. Lợi ích của bên thuê dịch vụ có
thể là các lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần. Nội dung quan hệ Hợp đồng dịch vụ
ghi nhận các quyền, nghĩa vụ của hai bên chủ thể. Như vậy, dưới góc độ là một
quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, Hợp đồng dịch vụ được thiết lập dựa trên
ba yếu tố cơ bản: Chủ thể, khách thể và nội dung.
Hợp đồng dịch vụ là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các vấn đề
liên quan đến cung ứng, sử dụng dịch vụ, bao gồm các quy định về quá trình hình
thành, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa các bên cung ứng dịch vụ với bên
sử dụng dịch vụ do Nhà nước ban hành, có tính bắt buộc áp dụng hoặc hướng dẫn
áp dụng đối với các chủ thể, được bảo đảm bởi cơ chế thực thi của Nhà nước.
Hợp đồng dịch vụ trong dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên
cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ
phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.
Hợp đồng dịch vụ trong thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho bên sử dụng dịch vụ (khách

10


hàng), còn bên sử dụng dịch vụ phải thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ. Hợp
đồng dịch vụ trong thương mại là hình thức pháp lý của quan hệ cung ứng dịch vụ

trong thương mại, nó gắn liền với hoạt động thương mại là hoạt động cung ứng dịch
vụ. Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên có nghĩa vụ thực
hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ
thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Cung ứng
dịch vụ được quy định trong LTM 2005 đã phần nào khẳng định được việc xác lập
và thực hiện các quan hệ thương mại trong các hoạt động này còn xác định rõ về
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng cung ứng dịch vụ.
Bản chất pháp lý hợp đồng dịch vụ được quy định trong LTM 2005 có ý
nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên,
LTM 2005 chưa quy định rõ thế nào là hợp đồng dịch vụ mà khái niệm này đã được
quy định tại Điều 513, BLDS 2015 “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên
sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ”. Như vậy, hợp
đồng dịch vụ có đối tượng là một công việc cụ thể, có thể thực hiện được, không bị
pháp luật cấm và không trái với đạo đức xã hội.
Bên cạnh đó, LTM 2005 quy định về cung ứng dịch vụ là hoạt động thương
mại, theo đó bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác
và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng
dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Như vậy hợp đồng dịch vụ thương mại
phải đảm bảo tính thương mại của hợp đồng dịch vụ - thể hiện ở chỗ hoạt động
cung ứng dịch vụ thương mại là một hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bên cung
ứng thực hiện cung ứng dịch vụ là để thu lợi nhuận. Cùng với đó, bên sử dụng dịch
vụ phải thanh toán tiền cung ứng dịch vụ. Thanh toán tiền dịch vụ thực chất là trả
tiền cho dịch vụ được cung ứng, tức là bên thuê cung ứng đã mua dịch vụ đó.
1.1.1.5. Hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động
 Khái niệm:
Hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động là thỏa thuận, theo đó một
bên (bên cung cấp dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện cung cấp dịch vụ cho một bên

11



khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (được gọi là khách hàng) có nghĩa vụ
thanh toán cho bên cung cấp dịch vụ theo thỏa thuận (quy định tại Khoản 9, Điều 3,
Luật Thương mại 2005).
Theo khoản 4 Điều 1 Nghị định số 81/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 07 năm
2016 của Chính phủ “Hợp đồng điều kiện giao dịch chung về cung cấp và sử dụng
dịch vụ viễn thông được giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể”
(Nghị định 81/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
25/2011/NĐ-CP ngày 06 tháng 04 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông). Như vậy, ta có thể nhận thấy
rằng trong hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông có những đặc điểm của hợp đồng
dân sự, nên khi giao kết các bên cũng thể hiện rõ ý chí của mình và được thể hiện
dưới các hình thức khác nhau.
Hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ viễn thông được thực hiện bằng văn
bản thì doanh nghiệp viễn thông phải xây dựng, đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều
kiện giao dịch chung; căn cứ theo danh mục dịch vụ thiết yếu thuộc danh mục dịch
vụ do Thủ tướng chính phủ và Bộ Thông tin và Truyền thông quy định.
Bộ Công Thương chấp thuận đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao
dịch chung của doanh nghiệp viễn thông sau khi đã thống nhất với Bộ Thông tin và
Truyền thông, và cơ quan quản lý chuyên ngành về viễn thông.
Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết về nội dung chuyên ngành
tối thiểu, quy trình thủ tục đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung
đối với các doanh nghiệp viễn thông để đảm bảo quyền lợi của người sử dụng dịch
vụ. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp nào đều có thể giao kết hợp đồng
theo mẫu được, mà còn phụ thuộc vào sự phức tạp và giá trị hợp đồng, do đó pháp
luật cho phép các bên thỏa thuận với nhau về các nội dung khác trong hợp đồng, tuy
nhiên các thỏa thuận này không được vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của các tổ chức cá nhân khác.
Như vậy, hợp đồng dịch vụ viễn thông các hình thức đưa ra phù hợp với thực

tiễn cuộc sống nói chung cũng như hoạt động thương mại nói riêng, thể hiện nguyên

12


tắc pháp luật tôn trọng và bảo vệ quyền tự do, quyền tự định đoạt. Việc thực hiện
hợp đồng theo mẫu sẽ giúp giảm thời gian đàm phán, thống nhất và định hình hóa
nội dung hợp đồng, tạo điều kiện tối đa tới quyền lợi của khách hàng. Tuy nhiên,
việc sử dụng hợp đồng mẫu cũng có những hạn chế nhất định, đó là gây bất lợi cho
người tiêu dùng trong việc giao kết hợp đồng; người tiêu dùng khó có thể nhận thức
được đầy đủ về hợp đồng mẫu bởi thiếu nội dung giải thích và đôi khi không rõ
ràng.
 Đặc điểm:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng
+ Chủ thể cung cấp dịch vụ viễn thông di động:
Chủ thể cung cấp dịch vụ viễn thông di động là các doanh nghiệp viễn thông,
được thành lập theo quy định của pháp luật và được cấp giấy phép kinh doanh dịch
vụ viễn thông. Khác với các dịch vụ thông thường, kinh doanh dịch vụ viễn thông
di động là một ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, đòi hỏi chủ thể đầu tư
kinh doanh đáp ứng những điều kiện kinh doanh cần thiết.
Doanh nghiệp được cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ viễn thông, phải có đủ
các điều kiện về chứng chỉ chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc chứng chỉ chứng
nhận đầu tư kinh doanh dịch vụ viễn thông; phải có đủ khả năng về tài tính, nhân
lực phù hợp với quy mô của các dự án; phải có phương án kỹ thuật, phương án kinh
doanh khả thi phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển viễn thông quốc gia, các
quy định về tài nguyên viễn thông, kết nối, giá cước, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật, chất lượng mạng và dịch vụ viễn thông; chuẩn bị đầy đủ các biện pháp nhằm
bảo đảm an toàn đối với hạ tầng viễn thông và thông tin.
+ Chủ thể sử dụng dịch vụ viễn thông di động:
Không chỉ đối với chủ thể cung cấp dịch vụ, chủ thể sử dụng dịch vụ (khách

hàng) trong một số trường hợp cũng cần áp dụng và tuân theo một số điều kiện cụ
thể và chỉ được cung cấp đến một số đối tượng khách hàng đáp ứng các điều kiện cụ
thể theo quy định của pháp luật.

13


Thứ hai, đối tượng của hợp đồng
Đối tượng của hợp đồng chính là loại hình dịch vụ viễn thông di động. Với
các hợp đồng dịch vụ thông thường, đối tượng của hợp đồng là dịch vụ, hàng hóa
vô hình. Dịch vụ hay sản phẩm vô hình không tồn tại dưới dạng vật chất. Vì vậy,
khi ký kết hợp đồng dịch vụ, các bên không cần quan tâm đến nơi chứa dịch vụ,
không quan tâm tới việc lưu trữ dịch vụ. Vấn đề quan trọng nhất là các bên mua bán
dịch vụ phải mô tả kỹ về dịch vụ, đặt ra những yêu cầu cụ thể mà theo đó khách
hàng (người mua dịch vụ) sẽ hài lòng về dịch vụ mà mình muốn có, còn người bán
(người cung cấp dịch vụ) thì không chỉ phải cố gắng đáp ứng và làm cho khách
hàng hài lòng về dịch vụ do mình cung cấp mà còn phải bảo đảm có các điều kiện
cần thiết liên quan đến việc cung cấp dịch vụ. Nói cách khác, khi hàng hóa vô hình
được đem ra mua và bán thì yếu tố sự hài lòng của khách hàng là tiêu chí quan trọng
để xem xét về chất lượng của dịch vụ. Điều này đòi hỏi các bên phải có sự am hiểu
về tính chất của dịch vụ đó.
Thứ ba, hình thức của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập
bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mà pháp luật quy định phải được
thiết lập bằng văn bản thì phải tuân theo các quy định đó (Điều 74, LTM 2005).
Sự thoả thuận giao kết hợp đồng giữa các bên phải được thực hiện dưới hình
thức bằng văn bản hoặc giấy tờ giao dịch mang tính văn bản có chữ ký xác nhận của
các bên xác nhận nội dung trao đổi như: công văn, phiếu yêu cầu, fax… Ký kết hợp
đồng bằng văn bản là một quy định bắt buộc các chủ thể trong hợp đồng kinh tế
phải tuân theo. Hợp đồng là cơ sở pháp lý trong việc xác định quyền và nghĩa vụ

của các bên, đồng thời là căn cứ pháp lý giải quyết tranh chấp khi có tranh chấp xảy ra.
Thứ tư, mục đích của hợp đồng
Tùy theo mục đích sử dụng dịch vụ của khách hàng mà việc ký kết các hợp
đồng dịch vụ viễn thông di động sẽ có các mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên tựu chung
lại là gồm có 02 mục đích chính:
- Mục đích kinh doanh: khách hàng sử dụng dịch vụ cho hoạt động sản xuất

14


và kinh doanh, ví dụ như dịch vụ thư điện tử; chạy website nhằm bán hàng hoặc
quảng bá thương hiệu; xây dựng tổng đài chăm sóc khách hàng 1800, 1900; gửi tin
nhắn quảng cáo hoặc chăm sóc khách hàng; tìm kiếm tập khách hàng từ ứng dụng
của đơn vị cung ứng dịch vụ;…hướng tới các lợi ích dịch vụ mang lại nhằm mục
đích sinh lợi, và vì thế chủ thể thực hiện hợp đồng với mục đích này là các thương nhân.
- Mục đích tiêu dùng: khách hàng sử dụng dịch vụ viễn thông di động hướng
tới các lợi ích tiêu dùng hoặc nâng cao trải nghiệm dịch vụ, đa phần là các dịch vụ
giá trị tăng trên nền thoại như nhạc chờ, tin nhắn thoại, trả lời tự động,…
1.1.2. Vai trò của hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động
Thứ nhất, hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động là cơ sở pháp lý để
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông thực hiện việc cung cấp dịch vụ cho
khách hàng.
Thứ hai, hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động sẽ bao gồm cả một
quá trình đàm phán liên quan đến rất nhiều điều khoản mà các bên phải tính đến.
Trên cơ sở những thỏa thuận đã đạt được, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn
thông di động sẽ xác định cụ thể về sản phẩm dịch vụ mình cung cấp như thế nào,
từ một sản phẩm “vô hình” như dịch vụ, thông qua hợp đồng “dịch vụ” sẽ được cụ
thể hóa, mô tả hóa giúp cho các bên mường tượng được sản phẩm đó như thế nào.
Sự thỏa thuận đó phải đảm bảo bình đẳng thực sự của các bên, thể hiện ý chí
nguyện vọng của họ và góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh.

Thứ ba, hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động là cơ sở để doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông xác định quyền và nghĩa vụ của mình. Ở một
chừng mực nào đó, hợp đồng cho phép các doanh nghiệp tạo ra một luật lệ riêng
thông qua những điều khoản của thỏa thuận mà các bên đã giao kết, điều chỉnh mối
quan hệ giữa doanh nghiệp và đối tác. Bên cạnh những quyền và nghĩa vụ cơ bản
mà pháp luật quy định về hợp đồng thì các bên sẽ quy định cụ thể về quyền và
nghĩa vụ như cung cấp dịch vụ trong bao lâu, mức độ hài lòng được đánh giá như
thế nào, tiến độ thanh toán, trách nhiệm của các bên nếu không thực hiện cam kết
của mình.

15


Dịch vụ Viễn thông nói chung hay dịch vụ viễn thông di động nói riêng là
ngành dịch vụ công nghệ cao, có cơ sở hạ tầng phục vụ theo kiểu hệ thống lớn, toàn
trình, toàn mạng, liên hoàn trong cả nước, góp phần cho sự phát triển nền kinh tế
ngày nay. Sự phát triển của ngành viễn thông ảnh hưởng tới sự phát triển của xã hội
và phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế. Ngược lại, chính sự phát triển của
nền kinh tế đất nước cũng có tác dụng thúc đẩy và quyết định đến sự phát triển của
ngành viễn thông. Như vậy giữa sự phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của
ngành viễn thông có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ với nhau.
Trong lĩnh vực nhà nước, ngành viễn thông cung cấp các dịch vụ viễn thông
theo yêu cầu của nhà nước để thực hiện chức năng phát triển kinh tế xã hội và đảm
bảo an ninh, quốc phòng. Các dịch vụ viễn thông cơ bản và giá trị gia tăng thường
để phục vụ các cơ quan Đảng, Nhà nước trong công tác an toàn, cứu nạn, phòng
chống thiên tai, truyền đạt các đường lối, chính sách của Đảng, của nhà nước, phổ
cập pháp luật đến nhân dân.
Đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng, các dịch vụ cơ bản mà viễn thông
cung cấp là liên kết thiết yếu đối với cả hai phía người tiêu dùng. Trong mối quan
hệ này, ngành viễn thông đóng vai trò là một ngành sản xuất xã hội, có chức năng

hỗ trợ trực tiếp mọi khâu trong chu trình phát triển kinh tế:
+ Tạo điều kiện cho khách hàng và doanh nghiệp xích lại gần nhau thông qua
truyền thông nhằm trao đổi và nhận thông tin thương mại từ nhiều phía. Cung cấp
các dịch vụ viễn thông giúp cho doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc tìm kiếm
khách hàng và tác động tích cực vào quá trình quản lý với chi phí tối ưu.
+ Sự hội tụ giữa Tin học và Viễn thông đã tạo điều kiện cho ngành viễn
thông cung cấp ngày càng nhiều giải pháp và ứng dụng trong đời sống kinh tế xã
hội, nâng cao trình độ dân trí cho người dân. Mang đến tiện ích cho khách hàng khi
sử dụng sản phẩm dịch vụ để tiếp cận với thị trường và không còn phụ thuộc vào
điều kiện địa lí hay một vùng miền nào trên thế giới.
+ Thúc đẩy các doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh trong điều kiện kinh
doanh ngày càng biến động, tạo điều kiện thuận lợi xây dựng mối quan hệ, phát

16


triển thị trường, cắt giảm chi phí, giảm thời gian… Viễn thông phát triển sẽ tạo điều
kiện thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các
quốc gia trên thế giới.
1.2. Cơ cấu pháp luật đối với hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông di động
1.2.1. Pháp luật về hợp đồng
Có thể hiểu pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được bảo đảm thực hiện bởi nhà
nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích duy trì trật tự và ổn định xã
hội vì sự phát triển bền vững của xã hội.
Pháp luật về hợp đồng là một hệ thống các quy tắc xử sự, do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm bảo vệ quyền và nghĩa
vụ của các bên liên quan trong hợp đồng.
Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng rất đa dạng, tồn tại trong nhiều văn
bản quy phạm pháp luật khác nhau. Ngoài những quy định trực tiếp về hợp đồng

trong Bộ luật dân sự, còn có thể tìm thấy nhiều quy định có liên quan về hợp đồng
trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau thuộc các lĩnh vực kinh tế như: viễn thông,
thương mại,…
Hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng có thể chia thành hai nhóm:
- Nhóm văn bản quy phạm pháp luật quy định các vấn đề chung về hợp
đồng: Bộ luật dân sự 2015 (văn bản pháp luật hiện hành). Văn bản pháp luật này
quy định những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc về mọi loại hợp đồng, không
phân biệt lĩnh vực phát sinh quan hệ hợp đồng.
- Nhóm văn bản quy phạm pháp luật quy định các nội dung về hợp đồng
chuyên ngành: Luật Viễn thông 2009, Luật Thương mại 2005,… (văn bản pháp luật
hiện hành). Bên cạnh những quy định trong các văn bản pháp luật chung về hợp
đồng thì trong từng lĩnh vực kinh tế, có thể có những quy định riêng về từng loại
hợp đồng.
Pháp luật về hợp đồng điều chỉnh các vấn đề chủ yếu sau:
- Điều kiện để các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng

17


- Nội dung quyền và nghĩa vụ của các bên
- Biện pháp bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng và trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng.
- Thủ tục giao kết và thực hiện hợp đồng
1.2.2. Cơ cấu pháp luật về hợp đồng
Cơ cấu pháp luật đối với hợp đồng dịch vụ gồm các nhóm quy phạm pháp
luật điều chỉnh, như sau:
a/ Giao kết hợp đồng dịch vụ
Nguyên tắc cơ bản của giao kết hợp đồng dịch vụ tuân theo các nguyên tắc
của pháp luật dân sự về giao kết đó là: nguyên tắc tự do tự nguyện cam kết, thoả
thuận; nguyên tắc bình đẳng; nguyên tắc thiện chí, trung thực; nguyên tắc chịu trách

nhiệm dân sự; nguyên tắc tôn trọng bảo vệ quyền dân sự; nguyên tắc tôn trọng lợi
ích của nhà nước, lợi ích công cộng; nguyên tắc tuân thủ pháp luật.
Tuy nhiên, hợp đồng dịch vụ do Luật Thương mại điều chỉnh, nên còn phải
tuân theo sáu nguyên tắc do Luật Thương mại quy định:
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt
động thương mại.
Thứ hai, nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại.
Thứ ba, nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết
lập giữa các bên.
Thứ tư, nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại.
Thứ năm, nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng.
Thứ sáu, nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong
hoạt động thương mại.
b/ Nội dung của hợp đồng dịch vụ
Nội dung của hợp đồng dịch vụ chính là toàn bộ các điều khoản mà các bên
đã giao kết trên cơ sở tự nguyện, tự do ý chí, dựa trên các quy định của pháp luật.
LTM 2005 không quy định cụ thể các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng dịch vụ,
Luật để tự các bên tham gia đưa ra các điều khoản trong hợp đồng dịch vụ nhưng

18


các điều khoản do hai bên thoả thuận không được trái pháp luật.
Vận dụng các quy định trong LTM 2005 cũng như xuất phát trong thực tiễn
kinh doanh thì nội dung cơ bản của hợp đồng dịch vụ thường bao gồm: Đối tượng
của hợp đồng, giá dịch vụ, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ,
điều khoản về giải quyết tranh chấp, thời hạn hiệu lực của hợp đồng…
c/ Hình thức hợp đồng dịch vụ
Tại điều 74, LTM năm 2005 quy định “Hợp đồng dịch vụ được thể hiện
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể; Đối với các loại

hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân
theo các quy định đó”.
Như vậy hình thức của hợp đồng dịch vụ là rất đa dạng linh hoạt tuỳ thuộc
vào đối tượng của hợp đồng dịch vụ là loại dịch vụ gì mà có hình thức thích hợp. Ví
dụ: Nếu là hợp đồng bảo hiểm thì phải được lập thành văn bản (điều 14 Luật kinh
doanh bảo hiểm 2000) vì, thời gian thực hiện hợp đồng dài, trong quá trình thực
hiện hợp đồng có rất nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan tác động đến
quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên nếu là hợp đồng dịch vụ vận chuyển hành
khách thì hình thức của hợp đồng có chỉ là một lời nói (điều 523, BLDS 2015) thoả
thuận giữa các bên và bằng chứng của hợp đồng chính là “vé”, quy định này là hợp
lý vì việc cung ứng và sử dụng dịch vụ này diễn ra rất dễ dàng, thời gian nhanh và
trị giá không lớn, nếu như trong trường hợp này mà quy định hợp đồng bằng văn
bản thì là không cần thiết, tốn kém và chắc chắn quy định đó trên thực tế sẽ không
được sử dụng.
d/ Thực hiện hợp đồng dịch vụ
Luật thương mại 2005 quy định nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Trong
đó, bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ cơ bản được quy định tại các Điều từ 78 đến
Điều 84, bên khách hàng có nghĩa vụ cơ bản được quy định tại Điều 85.
- Nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ chính là cung cấp dịch vụ. Bên cung
ứng dịch vụ phải cung ứng dịch vụ và thực hiện công việc có liên quan một cách
đầy đủ, phù hợp với hợp đồng, bảo quản và giao lại cho khách hàng tài liệu, và

19


×