Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

CHƯƠNG III XU HƯỚNG CẢI CÁCH THUẾ QUAN CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.73 KB, 34 trang )

CHƯƠNG III XU HƯỚNG CẢI CÁCH THUẾ QUAN
CỦA VIỆT NAM
I. THUẬN LỢI KHÓ KHĂN KHI VIỆT NAM GIA NHẬP AFTA
Trong quá trình xây dựng các Danh mục hàng hoá và chương trình giảm
thuế theo Hiệp đinh CEPT, chúng ta đã gặp không ít khó khăn do xuất phát
điểm của nền kinh tế Việt Nam còn thấp hơn so với các nước thành viên khác.
Hơn nữa về mặt kỹ thuật, ngoài các điểm còn khác biệt về hệ thống thuế áp
dụng đối với hàng xuất nhậ khẩu và hệ thống mã số của Biểu thuể Việt Nam so
với các nước ASEAN khác. Các thuế suất của biểu mẫu thuế hiện hành cũng
đòi hỏi được điều chỉnh, cơ bản để phù hợp với sự phát triển của cách ngành sản
xuất trong nước. Cụ thể là biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam có một số điểm
không thật sự phù hợp với thông lệ quốc tế, do đó gây khó khăn khi Việt Nam
tham gia thực hiện các hiệp định quốc tế như hiệp định CEPT. Biểu thuế xuất
nhập khẩu của Việt Nam vừa quá đơn giản vừa quá phức tạp.
Tính chất đơn giản thể hiện ở chỗ:
- Hàng xuất nhập khẩu chỉ chịu một sắc thuế là xuất nhập khẩu. ở các
nước ASEAN, ngoài thuế xuất nhập khẩu, đặc biệt đối với hàng nhập khẩu còn
phải chịu thuế giá trị tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Trong biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam chỉ tồn tại các mức thuế
suất duy nhất áp dụng cho mọi hàng hoá nhập khẩu bất kỳ nguồn gốc xuất xứ từ
nước nào. Trong biểu thuế không phân biệt các mức thuế suất ưu đãi, mức thuế
xuất phổ thông hay mức thuế suất tạm thời, mặc dù trong luật thuế xuất nhập
khẩu của Việt Nam cũng đã có điều khoản quy định về các mức thuế suất ưu đãi
theo các Hiệp định quốc tế.
Tính chất phức tạp thể hiện ở chỗ:
- Thuế suất dàn trải quá rộng: thuế suất có 26 mức (từ 0 - 60%) cho hơn
3000 mã nhóm hàng.
- Quá nhiều mức thuế suất dưới 5%, gây hạn chế thu ngân sách.
- Thêm vào đó, ở Việt Nam còn có tình trạng cùng một mặt hàng nhưng
cá cơ quan thương mại, hải quan và doanh nghiệp lại gọi tên khác nhau, gây
nhiều vướng mắc và thiệt hại cho doanh nghiệp. Thông thường giấy phép xuất


nhập khẩu hàng hoá do Bộ thương mại cấp chỉ ghi tên hàng mà không ghi mã số
của hàng hoá. Do đó, khi làm thủ tục, hải quan tiến hành áp mã thì mã này có
thể trùng hoặc không trùng với mã số trong hệ thống theo dõi của Bộ thương
mại.
Tuy nhiên, chúng ta cũng có thuận lợi xuất phát từ khía cạnh kỹ thuật của
biểu thuế:
- Biểu thuế đã được xây dựng trên danh mục điều hoà của Hội đồng hợp
tác Hải quan, tuy mới chỉ trên cấp độ 6 chữ.
- Đồng thời khi so sánh mục tiêu chủ yếu của chương trình cắt giảm thuế
quan CEPT là các nước thành viên sẽ giảm thuế nhập khẩu tối đa với đa số các
mặt hàng nhập khẩu từ các nước thành viên ASEAN khác xuống còn 0 - 5% với
Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam, chúng ta thấy hơn nửa tổng số mặt hàng của
biêu thuế nhập khẩu Việt Nam đã phù hợp với mức thuế tiêu chuẩn đặt ra cho
chương trình cắt giảm thuế quan CEPT, điều đó có nghĩa là về thực chát Việt
Nam chỉ phải thực hiện giảm thuế gần 50% của tổng số nhóm mặt hàng trong
biểu thuế nhập khẩu. So với các nước thành viên ASEAN khác khi bắt đầu thực
hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo Hiệp định về chương trình ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung thì tỷ lệ thuế suất của Việt Nam từ 0 - 5% nhiều
hơn rất nhiều. ( ví dụ Indonesia khi bắt đầu tham gia chương trình CEPT chỉ có
9% tổng số nhóm đặt hàng có thuế suất dưới 5%, Thái Lan có 27%, Philippin
có 32%). Đây là một thuận lợi khi Việt Nam tham gia thực hiện chương trình
cắt giảm thuế theo quy định của HIệp định CEPT.
- Ngoài những khó khăn về phía cạnh tranh kỹ thuật từ biểu thuế, từ khía
cạnh chung của toàn bộ nền kinh tế, chúng ta đều biết khi Việt Nam thực hiện
cải cách thuế quan theo chương trình CEPT sẽ phát sinh hai vấn đề lớn là giảm
số thu ngân sách và giảm mức bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước. Hai
vấn đề này sẽ được nêu rõ hơn trong phần tích các tác động của cải cách thuế
quan đối với nền kinh tế Việt Nam .
Trên cơ sở phân tích ban đầu về những đặc điểm thuận lợi và khó khăn về
khía cạnh kỹ thuật của Biểu thuế xuất nhập khẩu Việt Nam những ảnh hưởng

chung của việc tham gia thực hiện cắt giảm thuế quan theo chương trình CEPT,
đồng thời tham khảo kinh nghiệm trong việc thiết kế các Danh mục hàng hoá
của các nước thành viên khác, các Danh mục hàng hoá CEPT của Việt Nam đã
được nhóm nghiên cứu bộ soạn thảo trong suốt khoảng thơì gian từ tháng
7/1995 đến tháng 12/1995 và hoàn thành theo đúng cam kết. Từ năm 1996,
chúng ta vẫn liên tục tiến hành các hoạt động soạn thảo kế hoạch thực hiện
CEPT, đồng thời rà soát lại những việc đã thực hiện. Cụ thể:
- Ngày 15/11/1995 tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN
(AEM)OSAKA, Việt Nam đã công bố Danh mục giảm thuế đợt 1 áp dụng từ
1/1/1996.
- Ngày 10/12/1995, tại Hội nghị Hội đồng AFTA, Việt Nam đã công bố
về nguyên tắc là cam kết cắt gảim thuế cho toàn bộ quá trình 1996 – 2006.
- Ngày 18/12/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định 91/CP trong nước
quy định việc cải cách thuế quan, thực hiện CEPT.
- Ngày 2/4/1996 Bộ tài chính thành lập cơ quan AFTA quốc gia của Việt
Nam với chức năng là cơ quan đầu mối của Việt Nam thực hiện các vấn đề liên
quan đến AFTA.
- Cũng trong năm 1996, Việt Nam công bố Danh mục thực hiện giảm
thuế theo CEPT trong năm 1997.
- Ngày 12/3/1998, Danh mục hàng hoá Việt Nam thực hiện CEPT do Bộ
tài chính xây dựng đã được Chính phủ thông qua và ban hành kèm Nghị định
số 15/1998/NĐ - CP.
- Cũng trong đầu năm 1998, Bộ Tài chính công bố 1717 mặt hàng tham
gia CEPT năm 1998, đồng thời chuẩn bị Danh mục thuế năm 1990, xem xét để
giảm bớt số mặt hàng trong Danh mục loại trừ tạm thời.
- Nghị định số: 21/2002/NĐ-CP ngày 28 tháng 2 năm 2002 của Chính
phủ về ban hành Danh mục hàng hoá và thuế suất của Việt nam để thực hiện
CEPT/AFTA cho năm 2002.
Trong khoảng thời gian từ 1995 đến nay chúng ta cũng nghiên cứu và
thực hiện cải cách một số thuế nội địa hỗ trợ cho quá tình thực hiện AFTA.

- Thực hiện luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho luật thế lợi tức.
- Thay thế thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng.
- Cải cách luận thuế tiêu thụ đặc biệt.
Bảng 6: Thống kê tình hình giảm thuế, kế hoạch thực hiện AFTA đến năm
2003, theo đó 6 thành viên ban đầu của AFTA mới chỉ đạt 41% số dòng thuế có
thuế suất bằng 0%. Cụ thể như sau:
Nước Thuế xuất đạt
0% vào 2000
Tổng dòng thuế trong
danh mục cắt giảm (IL)
Tỷ lệ số dòng thuế
đạt 0% vào 2000
Brunei 5.071 6.186 82.0%
Indonesia 1.478 6.957 21.2
Malaysia 4.854 8.814 55.1
Philippies 0 5.419 0.0
Singapore 5.739 5.739 100.0
Thaland 167 9.056 1.8
Nguồn : Ban thư ký ASEAN (Jacarta)
Tại hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN không chính thức họp ngày 6 -3 năm
1999 tại Thái Lan, Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ thương mại Thái lan đề ngị
các nước ASEAN nên phấn đấu đạt 100% số dòng thuế có thuế suất bằng 0 vào
năm 2003 (Nguồn: Ban Thư ký ASEAN_).
Về phía Việt nam:
Bộ tài chính vừa hoàn thành việc chuyển biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành
sang biểu thuế quan chung của ASEAN. theo lộ trình chương trình thuế quan
uư đãi có hiệu lực (CEPT), tiến tới gia nhập khu vực mậu dịch tự do thương mại
ASEAN (AFTA).
Như vậy, Nghị định ban hành danh mục hàng hoá và thuế suất của Việt nam để
thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan có khả năng được thực hiện theo

đúng kế hoạch đã đề ra vào tháng 7 tới.
Theo danh mục chuyển đổi biểu thuế quan xuất, nhập khẩu hàng hoá hiện hành
có 6,495 dòng thuế khi chuyển sang danh mục thuế quan khu vực ASEAN sẽ
được nâng lên 10.689 dòng thuế. Trong đó, danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ
nâng từ 5.559 lên 8.807 dòng thuế; danh mục loại trừ tạm thời (TEL) từ 755 lên
1.376 dòng thuế; danh mục nông sản nhạy cảm (SL) từ 52 lên 91 dòng thuế và
danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) từ 139 lên 415 dòng thuế.
Hiện nay, Việt nam đã cắt giảm được thuế suất của 5.500 mặt hàng chiếm gần
85% tổng số nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu hiện hành. Theo lộ
trình, năm nay Việt nam sẽ đưa thêm 760 mặt hàng vào danh mục cắt giảm thuế
với mức thuế suất hạ từ 40 -50% còn 15 - 20% và tiếp tục giảm xuống 0-5% vào
năm 2006, hạn cuối cùng để Việt nam hoàn thành chương trình cắt giảm thuế
quan
Theo Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự, việc cắt giảm thuế này chưa
ảnh hưởng trực tiếp đến trao đổi thương mại giữa Việt nam và ASEAN. Lợi ích
rõ ràng nhất khi tham gia CEPT/AFTA là mở được thị trường tiêu thụ. Sau 6
năm thực hiện CEPT, ASEAN đã trở thành thị trường xuất khẩu chính của Việt
Nam bên cạnh EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ.
II. XU HƯỚNG CẢI CÁCH:
1. Giảm thuế: Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể các danh mục
Lịch trình cắt giảm thuế quan của các danh mục của Việt Nam theo Hiệp
định CEPT/AFTA như trong bảng sau:
Bảng 7: Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể các danh mục
Tên danh mục Thời điểm Thời điểm đưa Thời điểm đưa Thời điểm đưa
đưa vào danh
mục cắt giảm
thuế suất xuống
≤ 20%
thuế suất
xuống ≤ 5%

thuế suất
xuống 0%
Danh mục cắt
giảm (IL)
1996- 1998 2001 2003 – 2006 2015
Danh mục loại
trừ tạm thời
(TEL)
1999 – 2003 2001/2002/2003
(Khi chuyển
vào IL)
2006 2015/2018
Danh mục
nhạy cảm (SL)
2004 – 2006 2010 – 2013 2015 – 2018
Danh mục loại
trừ hoàn toàn
(GEL)
Không cam
kết
Không cam kết Không cam
kết
Không cam kết
Tình hình thực hiện AFTA của Việt Nam
Tính đến năm 2002, Việt Nam đã chuyển thuế suất của 5.550 mặt hàng
vào danh mục cắt giảm thuế ngay (IL) trên tổng số khoảng 6.400 mặt hàng
trong biểu thuế nhập khẩu. Thuế suất trung bình của các mặt hàng đã đưa vào IL
là 7.3% (so với mức thuế MFN trung bình là 13,5%).
Năm 2003, Việt Nam sẽ phải tiếp tục chuyển thuế suất của 760 mặt hàng
đang nằm trong danh mục loại trừ tạm thời (TEL) sang danh mục IL. Các mặt

hàng thuộc danh mục nhạy cảm (SEL) sẽ dần được đưa vào cắt giảm thuế trong
ba năm 2004/2005/2006, đến năm 2013 đạt mức thuế suất từ 0 - 5%. Danh mục
các mặt hàng đưa vào cắt giảm sẽ được Bộ tài chính công bố cụ thể cho từng
năm.
2. Những biện pháp hướng tới nhằm thúc đẩy thực hiện CEPT/ AFTA
2.1 Cải cách cơ cấu thuế xuất nhập khẩu
Việc cắt giảm thuế cần thực hiện đồng thời với cải cách cơ cấu thuế xuất
nhập khẩu.
Trong tiến trình cải cách thuế quan, Việt Nam đã thực hiện tự do hoá có
lựa chọn cơ cấu thuế quan của mình gồm:
- Giảm mức thuế suất trung bình
- Giảm bớt mức thuế suất tối đa xuống còn 60%
- Giảm số lượng các mặt hàng chịu thuế suất hơn 50%.
Tuy nhiên, nhìn chung cơ cấu thuế xuất nhập khẩu vẫn hầu như không
thay đổi. Hai nhược điểm lớn nhất của biểu thuế xuất nhập khẩu Việt Nam hiện
nay vẫn là quá mức thuế xuất nhập khẩu (mức thuế) và thuế suất dàn trải quá
rộng. Việt Nam nên quy định giảm số mức thuế suất còn 4 mức cơ bản.
- Với một số mặt hàng trong biểu thuế có thuế suất ở mức 60% như quần
áo cũ, mỹ phẩm, xăng trừ loại dùng cho máy bay, xe có động cơ nên giảm thuế
xuất nhập khẩu và thay vào đó là thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Với các mặt hàng có thuế suất dưới 5% cần điều chỉnh lên mức 5%. Thứ
nhất, tỷ trọng lớn của các thuế suất dưới 5% chỉ phù hợp với điều kiện của Việt
Nam trong giai đoạn khi nhiêù nguyên vật liệu và đầu vào mà trong nước chưa
đủ khả năng đáp ứng. Nhưng hiện nay, khi nền sản xuất trong nước của Việt
Nam đã phần nào phát triển và đáp ứng được một phần các sản phẩm cần thiết
phục vụ cho sản xuất mà trước đây phải nhập khẩu từ nước ngoài, nhu cầu nâng
cao mức thuế suất nhập khẩu nhằm mục đích bảo hộ cho cách ngành sản xuất
trong nước là thật sự cần thiết. Thứ hai, như đã phân tích trong chương II, Danh
mục GEL của Việt Nam có quá nhiều mặt hàng, gồm 213 nhóm mặt hàng,
chiếm 6,6% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu, nhiều nhất trong

các quốcgia ASEAN. Với danh nghĩa là mặt hằng thuộc Danh mục GEL, Việt
Nam đã không thực hiện giảm thuế theo chương trình. CEPT/AFTA với gần
41% các hoạt động buôn bán của mình với các quốc gia ASEAN, chiếm 62%
tổng thu nhập từ thuế vào NSNN. Do vậy sẽ không có gì lạ khi Việt Nam được
yêu cầu xem xét chuyển một số mặt hàng thuộc danh mục GEL sang Danh mục
Tel. Trong năm 1998, Việt Nam đã chuyển 13 mặt hàng thuộc GEL sang TEL.
Trong tương lai Việt Nam cũng sẽ phải chuyển mặt hàng dầu khí từ GEL sang
TEL. Đây đều là những mặt hàng có thu nhập thuế nhập khẩu rất cao, cần phải
tính đến hạu quả giảm thu ngân sách khi thực hiện cắt giảm thuế quan của
những mặt hang này. Vì vậy, mức thuế suất tối thiểu 5% được áp dụng đối với
thương mại ASEAN là cần thiết để bù đắp khoản thâm hụt ngân sách do thực
hiện cắt giảm thuế quan.
- Điều chỉnh lại thuế xuât nhập khẩu ở dạng nguyên chiếc, dạng SKD,
CKD,IKD, chỉ giữa lại hai mức thuế cho dạng nguyên chiếc và dạng chi tiết đòi
hỏi công nghệ lắp ráp phức tạp. Với dạng nguyên chiếc áp dụng thuế suất cao,
đối với dạng linh kiện áp dụng thuế xuất thấp trong khung.
Việc đơn giản hoá biểu thuế, giảm dần số lượng các mức thuế khac snhau
trong biểu thế sẽ tạo điều kiện quản lý tốt hơn, tranh thất thu thuế đồng thời
khuyến khích các doanh nghiệp trong nươc scải tiến kỹ thuật công nghệ mới để
tạo ra sản phẩm có chất lượng và giá rẻ, có đủ sức cạnh tranh trên thị trường
trong nước cũng như thế giới khi thực hiện cắt giảm thuế quan.
2.2 Chỉ áp dụng giá tính thuế xuât nhập khẩu theo nguyên tắc của
GATT.
Việt Nam cần xoá bỏ chế độ tínhgiá hải quan theo bảng giá tối thiểu do
bộ tài chính quy định và chuyển sang chỉ áp dụng giá tính thuế theo nguyên tắc
của GATT. Việc này sẽ rất khó thực hiện do vẫn tồn tại nhiều hoạt động gian
lận trong thương mại nhằm trốn thuế hay giảm thuế. Nhưng để phù hợp với
thông lệ quốc tế và tạo điều kiện thuận lợi.
Khi cải cách thuế quan tham gia AFTA và trong tương lai là các tổ chức
thương mại lớn trên thế giới như WTO, một trong các điều kiện tiên quyết cần

thực hiện là Việt Nam phải áp dụng phương pháp tính giá hải quan của GATT.
Vì vậy, chính phủ cần có kế hoạch ban hành các điều lệ hải quan cũng như
thương mại nhằm bảo đảm thực hiện việc áp dụng phương pháp định giá ttrong
bản đồ thuận GATT (GTV).
Đồng thời để hỗ trợ cho việc định giá theo GTV, hải quan cũng cần thực
hiện các cán bộ của Tổng cục Hải quan.
- Chuyển từ biện pháp định giá theo từng cuộc mua bán sang một hệ
thống kiểm tra dựa trên sổ sách kế toán.
- Xây dựng các tiêu chí lựa chọn nhằm quyết định những tờ khai nào sẽ
là đối tượng phải kiểm tra kỹ khi định giá, xác định các thủ tục nhằm hỗ trợ
kiểm tra định giá trong các cuộc kiểm tra hàng hoá, kiểm tra chứng từ sau khi
giải phóng hàng và kiểm tra sổ sách, báo cáo kế toán của các nhà nhập khẩu.
2.3. Hoàn thiện công tác quản lý việc cải cách thuế quan.
- Phải chủ động xây dựng được lộ trình cắt giảm thuế quan trong khuôn
khổ AFTA của Việt Nam theo các tiêu chí của CEPT và những ưu đãi giành cho
một quốc gia đi sau, có xuất phát điểm thấp hơn như Việt Nam,. Khi nghiên cứu
tiến trình thực hiện cải cách quan thuế của ác nước ASEAN, có thể thấy được
những kinh nghiệm chung nhất, phổ biến nhất nhưng không thể có một đơn
thuốc hay một con đường đã vạch sẵn cho Việt Nam để đảm bảo thành công và
hiệu quả của quá trình cải cách thuế quan. Việt Nam phải xuất phát từ thực tế
đất nước, căn cứ vào những mục tiêu và định hướng kinh tế của mình để có thể
có một lịch trình giảm thuế cụ thểcho từng năm, cho từng mức thuế góp phần hỗ
trợ cho chiến lược tự do hoá thương mại, mở cửa thị trường trong nước mà
không gây ra một sự thay đổi bất thường nào cho nền kinh tế.
- Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện các hệ thống thuế nộ địa cũng như công tác
quản lý thực thi các sắc thuế đó. Cụ thể, hàng năm nên tổ chức xem xét việc
chấp hành các chính sách thuế, tình hình thực hiện chế độ nghiệp vụ quản lý
tổng hợp của ngành thuế, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các trường
hợp vi phạm pháp lệnh thuế.
- Cần ban hành các văn bản thông tư chỉ dẫn rõ ràng và chi tiết về những

thay đổi thuế quan. Qua đó, các doanh nghiệp trong nước cũng như các nhà đầu
tư nước ngoài có thể dự kiến được các khả năng và mức độ ảnh hưởng và tác
động tới tình hình sản xuất kinh doanh của mình mà có những định hướng đầu
tư lâu dài phù hợp.
2.4. Đẩy nhanh tiến trình thực hiện cải cách thuế quan theo CEPT.
Theo tính toán của Bộ tài chính thì thuế suất bình quân cho các mặt hàng
nhập khẩu từ ASEAN vào Việt Nam hiện là 13%. Nếu từ nay đến 2003 giảm
xuống còn 5% thì mức thu ngân sách chỉ giảm 8%, hơn nữa mức giảm này chỉ
áp dụng cho khoảng 50% số hàng nhập khẩu, do vậy sẽ không lớn. Vậy là
phương án hoàn thành cắt giam thuế quan theo CEPT vào năm 2003 sớm hơn
phương án 2006 nhưng không gây tác hại gì lớn. Nhưng những lợi ích mà
phương án 2003 mang lại cho Việt Nam sẽ lớn hơn.
Trước hết, các cơ sở sản xuất do chịu áp lực sinh tồn căng thẳng, quyết
liệt từ sự tác động của cải cách thuế sẽ khẩn trương nâng cao năng suất và chất
lượng, thay đổi mẫu mã hàng hoá để đối phó có hiệu quả với việc giảm dần
thuế quan bảo hộ, bắt kịp với thuế thương trường cạnh tranh của các đối thủ
láng giềng và sau đó là với tất cả các nước trên thế giới.
Thư hai, nếu hoàn thành cắt giảm thuế quan để thực hiện AFTA vào năm
2006 thì các nhà đầu tư sẽ phải có sự lựa chọn: một là đầu tư vào việc để phải
chờ tới năm 2006 mới được hưởng những ưu đãi thuế quan do CEPT mang lại
nghĩa là quá lâu và kém hiệu quả; hai là đầu tư vào các nước ASEAN khác để
có thể hưởng những ưu đãi thuế quan của CEPT ngay từ năm 2000 (tại hội nghị
Bộ trưởng kinh tế ASEAN không chính thức tổ chức Phuket – Thái lan ngày
8/3/1999, các bộ trưởng kinh tế ASEAN đã nhất trí về phương hướng khẩn
trương thực hiện việc giảm thuế quan theo CEPT với khoản thuận sẽ giảm thuế
tất cả các loại hàng hoá xuống mức 0 – 5% vào năm 2000 và giảm xuống 0%
vào năm 2001. Quy định này chỉ áp dụng cho ASEAN6). Như vậy, Việt Nam sẽ
rơi vào thế bất lợi so với các nước ASEAN khác và bỏ lỡ thời cơ thu hút đầu tư
trực tiếp ngước ngoài.
Đồng thời, trong phạm vi lớn nhất có thể, Việt Nam nên thực hiện cải

cách thuế quan trong khuôn khổ AFTA trên cơ sở chế độ MFN, tức là các mức
thuế suất thấp sẽ được áp dụng cho tất cả các mặt hàng nhập khẩu từ mọi quốc
gia. Điều này có thể được giải thích như sau:.
- Thứ nhất, nế thực hiện chế độ ưu đãi thuế quan đặc biệt với các quốc
gia ASEAN, Việt Nam sẽ phải chịu những chi phí không tranh khỏi dưới dạng “
chệch hướng thương mại” và những gánh nặng thủ tục nhập khẩu do phải áp
dụng các quy tắc thuế quan khác nhau phụ thuộc vào nguồn gốc xuất xứ hàng
hoá nhập khẩu từ nước nào. Có thể lấy một ví dụ về “chệch hướng thương mại”
như sau:
“ Giả sử nhu cầu hàng năm đối với lốp xe ô tô mới của Việt Nam ổn định
ở mức 962.000chiếc. Coi giá mỗi chiếc lốp không đổi trong hai năm và giá lốp
của các nước ASEAN đắ hơn 10. USD so với giá lốp cuả các quốc gia khác trên
thế giới và ở mức 100 USD. Với thuế suất trung bình đánh vào mặt hàng lốp xe
ô tô năm 1997 và 32,5%, thì Việt Nam trả 87,7% triệu USD cho 963.000 chiếc
lốp và Chính phủ thu 28.5 triệu USD tiền thuế. Nhưng khi thuế quan đánh vào
mặt hàng lốp ô tô nhập từ ASEAN giảm, ví dụ ở mức 15% với người tiêu dùng
Việt Nam giá một chiếc lốp ôtô nhập từ ASEAN (100USD + 15USD thuế = 115
USD) sẽ rẻ hơn giá sản phẩm cùng loại nhưng nhập từ các nước ngoài ASEAN
(90USD + 29,25USD thuế = 119,25USD). Như vậy, chắc chắn số mặt hàng lốp
ô tô nhập từ ASEAN sẽ tănglên (350.000 chiếc năm 1998 so với 112.000 chiếc
so với năm 1997). Thương mại bị chệch hướng. Điều này đồng nghĩa với việc
thực hiện phải bỏ ra một khoản tiền nhiều hơn để chi trả cho cùng một số lượng
lốp xe ô tô và thu ngân sách cũng giảm. Đây là những chi phí không tranh khỏi
của “thương mại chệch hướng”.
- Lý do thứ hai là hiện tượng các nước ASEAN khác đang nhanh chóng
thực hiện tiến trình tự do hoá thương mại đa phương do đó, Việt Nam cần xoá
bỏ hàng rào thuế quan thương mại với tất cả các quốc gia trên thế giới trên cơ sở
chế độ ưu đãi tối huệ quuốc (MFN) nếu muốn duy trì khả năng cạnh tranh của
mình trong khu vực.
2.5. Xây dựng thị trường trong nước thích ứng với các yêu cầu cầu

cải cách thuế quan.
- Để hỗ trợ cho việc hoàn thành cải cách quan thuế trước thời hạn, Việt
Nam cần thực hiện một số biện pháp bảo hộ thị trường khác ngoài thuế đối với
các sản phẩm trong nước , đặc biệt là sản phẩm của các ngành thiết yếu như
nông nghiệp, chế tạo máy, ô tô, điện tử, hàng dệt, các lĩnh vực dịch vụ, nhất là
ngân sách và viễn thông. Theo đánhgiá của Bộ tài chính thì những biện pháp
bảo hộ phi quan thuế của Việt Nam hiện còn rất đơn gỉan, chủ yếu chỉ gồm các
biện pháp giấy phép và hạn ngạch, các biện pháp khác hầu như không đáng kể.
Việt Nam cần nghiên cứu ban hành bổ xung các biện pháp phi quan thuế tương
tự như các nước ASEAN đang áp dụng như chế ddộ cấp giấy phép đặc biệt, thủ
tục giám định hàng hoá nhập khẩu… và sau đó tính đến việc xoá bỏ dần theo
quy định thực hiện AFTA. Nghĩa là Việt Nam cần nghiên cứu ban hanhè các
biện pháp boả hộ phi quan thuế nhưng theo hướng sẽ bãi bỏ chứ không duy
trìchún và chỉ nên bảo hộ những mặt hàng mà sản xuất trong nước đáp nứg
được nhu cầu tăng trưởng kinh tế, có tiêm năng phát triển vè sau, tạo được
nguồn thu ngân sách và giải quyết lao động. Việc bảo hộ này cần được thống
nhất cho mọi thành phần kinh tế, kể cả xí nghiệp của vốn đầu tư nước ngoài.
- Cần đảm bảo cho hàng hoá sản xuất tại Việt Nam đạt được tiêu chuẩn
hoá về chủng loại, mẫu mã và có giá cả cạnh tranh tốt để có thể xác lập đowcj
chỗ đứng trên thị trường ASEAN. Điều này liên quan đến công việc sản xuất và
do đó là sự hỗ trợ từ phía nhà nước về mặt tín dụng, sự duy trì tỷ giá hối đoái
dưới giá trị của đồng bản tệ… để giúp cádoanh nghiệp sản xuất trong nước theo
định hướng xuất khẩu đủ mạnh, có năng lực chuyển hoá cao và thích nghi được
với các điều kiện biến đổi của thị trường khu vực khi thực hiện cải cách thuế
quan.
- Phải lượng hoá được những tác động của nhập khẩu từ ASEAN vào
Việt Nam khi các hàng rào thuế quan bị xoá bỏ . Đây là phương thức thẩm định
chuẩn xác từng tác động cụ thể đến từng mặt hàng trong Danh mục CEPT để có
thể phân định xem đầu những tác động dài hạn, có khả năng làm thay đổi cả cục
diện cơ cấu thương mại và cơ cấu sản xuất đất nước, đâu là những tác động

ngắn hạn, tạm thời và có thể khắc phục được ngay. Từ đó vạch ra những hiến
lược thị trường phù hợp.
- Do kích thích xuât khẩu chủ yếu của CEPT là đối với những mặt hàng
công nghiệp chế biến, trong khi tỷ lệ các mặt hàng này của Việt Nam trong tổng
kim ngạch xuất khẩu hãy còn quá nhỏ còn nông sản, thực phẩm và nhiên liệu
lại chiếm tỷ trọng lớn. Thì sự dịch chuyển cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam theo
hướng hội nhập thị trường khu vực tất yếu cần phải nâng cao tỷ phần các mặt
hàng công nghiệp chế biến theo CEPT.
2.6. Cải cách thuế cần chú ý mục tiêu kích cầu, đảm bảo thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Một trong các vấn đề mà nhiều nước trong khu vực hiện nay đang phải
đối mặt là hiện tượng giảm câù, dẫn tới giảm sản xuất và giảm tốc độ phát triển
kinh tế. Do đó, cải cách thuế quan cần chú ý mục tiêu kích càu. Cụ thể.
- Cải cách thuế quan phải dựa trên khung thuế xuất hơp lý, góp phần hạ
giá thành các sản phẩm xuất nhập khẩu gồm cả nguyên liệu đầu vào và hàng
tiêu dùng cuốicùng. Trước hết, giá nguyên liệu đầu vào giảm các doanh nghiệp
Việt Nam có cơ hội cắt giảm chi phí sản xuất, từ đó giảm giá tiêu thụ sản phẩm,
góp phần kích thích xuất khẩu. Đồng thời, giá hàng tiêu dùng nhập khẩu đòi hỏi
các nhà sản xuất Việt Nam phải cố gắng tìm cách nâng cao năng suất lao động,
tối thiểu hoá chi phí sản xuất, sử dụng hiệu qủ hơn các yếu tố đầu vào đẻ có thể
cạnh tranh với hàng hoá nướ ngoài ngay ở thị trường trong nước cũng như ở các
thị trường quốc tế. Như vậy, giá thành chung các mặt hàng tiêu thụ trong nước
sẽ giảm, nhu cầu tiêu dùng tăng.
- Đối với những cải cách thuế nội địa, khi ban hành một sắc thuế mới như
thuế GTGT, cần có phương án xử lý đồng bộ trong quá trình thực hiện thuế,
tranh cách làm ăn chắp vá, nhất là những tình trạng đưa ra những quy định theo
kiểu “ xem xét xử lý” bở thực tế đây là mọt hình thức xin cho. Theo ý kiến các
giám đốc doanh nghiệp Việt Nam, thuế GTGT có ưu điểm là giảm bớt sắc thuế,
song khi áp dụng cần phải căn cứ vào thực tế của từng loại hinh sản xuất. Chẳng
hạn, việc quy định thuế suất 10% đối với các sản phẩm cơ khí là không hợp lý.

Với mức thuế suất này, nhiều công ty cơ khí bị thiệt thòi, thậm chí có thể bị
thua lỗ. Tuy gần đây, nhà nước đã cho phép áp dụng mức thuế xuất 5% đối với
một số sản phẩm khi như máy động lực, máy công cụ và máy nông nghiệp ,

×