CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU.
I. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH KINH DOANH DỊCH VỤ VÀ DỊCH VỤ QUỐC
TẾ.
I.1. Giới thiệu chung về ngành dịch vụ.
1. Sự phát triển của ngành dịch vụ trên thế giới.
Bản thân con người khi sinh ra đã ẩn chứa trong mình một tập hợp những
nhu cầu, mong muốn hết sức đa dạng và phong phú. Trong tập hợp đó, có
những nhu cầu có thể được thoả mãn bằng những sản phẩm vật chất như kem
đánh răng, ô tô, thép và thiết bị nhưng có những nhu cầu khơng thể được thoả
mãn bằng những sản phẩm vật chất đó, đó là nhu cầu dịch vụ. Dịch vụ ra đời
ngay khi nền sản xuất hàng hóa xuất hiện và cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, lĩnh vực hoạt động của ngành dịch vụ cũng ngày càng được mở rộng
không ngừng. Thời gian đầu khi nền kinh tế còn chưa phát triển, ngành dịch vụ
chỉ đóng góp khoảng 10% – 15% trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) về sau
ngành dịch vụ có sự tăng trưởng phi thường và ngày càng đóng góp một
phần đáng kể vào GDP, GNP của các quốc gia. Ngày nay ở Hoa Kỳ các công
việc kinh doanh dịch vụ chiếm 77% tổng số việc làm và 70% GNP và dự kiến
sẽ sẽ tạo 90% tổng số việc làm mới trong thời gian tới. Cũng như vậy, ở các
nước công nghiệp phát triển như Anh, Pháp, Đức, Nhật … ngành dịch vụ hết
sức phát triển và đóng góp vào GDP một tỷ trọng tuyệt đối từ 60% - 90%.
Các ngành dịch vụ hoàn toàn khác nhau. Khu vực nhà nước với toà án, cơ
quan giới thiệu việc làm, bệnh viện quỹ tín dụng, các cơ quan hậu cần quân đội,
cảnh sát và đội cứu hoả, bưu điện các cơ quan hoà giải và trường học, đều thuộc
lĩnh vực dịch vụ. Khu vực phi lợi nhuận tư nhân với các viện bảo tàng, các tổ
chức từ thiện, nhà thờ, các trường cao đẳng và đại học, các quỹ tài trợ và bệnh
viện đều thuộc lĩnh vực dịch vụ. Một phần không nhỏ trong lĩnh vực kinh doanh
với các công ty hàng khơng, ngân hàng, văn phịng dịch vụ máy tính, khách sạn
các công ty bảo hiểm, công ty tư vấn pháp luật, cơng ty tư vấn quản lý, các
phịng mạch, các hãng điện ảnh, công ty sửa chữa hệ thống cấp nước và các
công ty buôn bán bất động sản cũng thuộc lĩnh vực dịch vụ.
Nhiều công nhân trong khu vực sản suất cũng làm dịch vụ, như thao tác viên
máy tính, nhân viên kế tốn và những người làm cơng tác pháp lý. Trên thực tế
họ đã hợp thành “phân xưởng dịch vụ” đảm bảo dịch vụ cho “phân xưởng hàng
hóa”.
Khơng chỉ có những ngành dịch vụ truyền thống mà luôn xuất hiện những
ngành dịch vụ mới: với một khoản chi phí nhất định, giờ đây đã có những cơng
ty giúp bạn cân đối ngân sách của mình, chăm sóc cây cảnh của bạn vào những
buổi sáng, chở bạn đi làm hay giúp bạn tìm một căn nhà mới, một việc làm, một
chiếc xe, một người chăm sóc mèo hay một người chơi vĩ cầm lang thang. Có lẽ
bạn muốn thuê một chiếc máy kéo làm vườn chăng? một vài con gia súc chăng?
một vài bức tranh độc đáo chăng? hay có thể là vài người hippi để trang điểm
cho bữa tiệc rượu cooktail sắp tới chăng? Nếu đó là những dịch vụ kinh doanh
mà bạn đang cần, thì có một cơng ty sẽ thu xếp giúp bạn các cuộc hội nghị, các
cuộc thương thảo, thiết kế các sản phẩm của bạn, xử lý những số liệu cho bạn
hay cung cấp cho bạn những thư ký, thậm chí cả những cán bộ điều hành làm
việc tạm thời.
Với sự giới thiệu trên đây về ngành dịch vụ trên thế giới, ta có thể hình dung
ngành dịch vụ đã đang và sẽ phát triển như thế nào. Vậy cịn ở Việt Nam?
Ngành
Cơng nghiệp
và xây dựng
Dịch vụ
Nông lâm ngư
nghiệp
2002
38.5%
38.5%
23%
2003
39.9%
37.8%
22.3%
Năm
2. Sự phát triển của ngành dịch vụ Việt Nam.
Trước kia khi nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc, phát triển chủ
yếu dựa vào nông nghiệp và cây lúa, ngành dịch vụ của nước ta lúc đó phát triển
hết sức mờ nhạt và trì trệ. Kể từ sau đổi mới, kinh tế nước ta khởi sắc, nhiều
ngành kinh doanh mới ra đời đóng góp khơng nhỏ vào sự phát triển chung của
nền kinh tế. Nông nghiệp nước ta được khôi phục và phát triển, ngành công
nghiệp và xây dựng được mở mang, tăng trưởng nhanh chóng nhưng đặc biệt
hơn cả, quan trọng hơn cả là sự tăng trưởng phi thường trong lĩnh vực dịch vụ.
Nền kinh tế có sự chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu ngành, tỷ trọng đóng góp
vào GDP của ngành Nông lâm ngư nghiệp giảm xuống, ngành công nghiệp và
xây dựng, ngành dịch vụ tăng lên theo hướng tích cực.
Theo nguồn tin từ bộ thương mại, đóng góp của từng ngành vào GDP trong 2
năm 2002 và 2003 là như sau:
Bảng số 1 – Cơ cấu ngành kinh tế trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm
2002 và 2003
Kế hoạch năm 2004: GDP tăng trưởng: 7.5%-8%, Nông lâm ngư nghiệp
tăng: 4.6%, ngành Công nghiệp tăng: 15% và ngành dịch vụ tăng: 8%.
Ngành dịch vụ trong thời gian vừa qua, tốc độ tăng trưởng liên tục gia tăng
năm này qua năm khác: năm 2001 tăng 6.1%, năm 2002 tăng 6.54%, năm 2003
tăng 7%.
Những thông tin trên đây đã cho thấy dấu hiệu khả quan trong tăng trưởng
phát triển nền kinh tế nói chung và ngành dịch vụ nói riêng tại Việt Nam. Chắc
chắn rằng ngành dịch vụ trong tương lai sẽ phát triển mạnh mẽ không chỉ ở các
quốc gia phát triển trên thế giới mà còn mạnh mẽ hơn ở các quốc gia đang phát
triển như Việt Nam.
I.2. Khái niệm chung về dịch vụ.
1. Định nghĩa dịch vụ
Từ trước đến nay có rất nhiều khái niệm về dịch vụ, đây là vấn đề đã được
quan tâm từ rất sớm, tuy ngành kinh doanh này ra đời muộn hơn so với các
ngành kinh doanh khác nhưng hoạt động dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trong lớn
hơn trong tổng thu nhập quốc dân.
Các Mác cho rằng: “ Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, khi
mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh địi hỏi một sự lưu thơng hàng hóa trơi
chảy, thơng suốt, liên tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì
dịch vụ phát triển.”
Theo kinh tế học: “Dịch vụ là một khu vực kinh tế, bao gồm một tổ hợp rộng
rãi các ngành nhằm cung cấp các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của sản xuất, của
đời sống vật chất và tinh thần của dân cư, đảm bảo sự hoạt động bình thường,
liên tục, đều đặn và có hiệu quả của nền kinh tế.”
Theo nghĩa rộng dịch vụ được coi là ngành kinh tế thứ 3. Như vậy ngành kinh
tế như hàng không, thông tin đều thuộc dịch vụ.
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là phần mềm của sản phẩm, hỗ trợ khách hàng trước,
trong và sau khi bán.
Một số người lại cho rằng:
Theo nghĩa rộng dịch vụ là khái niệm chỉ tồn bộ các hoạt động mà kết quả
của chúng khơng tồn tại dưới dạng hành thái vật thể. Hoạt động dịch vụ bao
trùm lên tất cả các lĩnh vực với trình độ cao chi phối rất lớn đến quá trình phát
triển kinh tế xã hội của từng quốc gia khu vực nói riêng và thế giới nói chung
Theo nghĩa hẹp: dịch vụ là làm một công việc cho người khác hay công việc
cộng đồng, là một việc mà hướng của nó đáp ứng nhu cầu nào đó của con người
như vận chuyển, cung cấp nước, đón tiếp sửa chữa và bảo dưỡng. Vì vậy dịch
vụ là những hoạt động mang tính xã hội tạo ra những sản phẩm hàng hóa khơng
tồn tại dưới hình thái vật thể, khơng dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm
thoả mãn kịp thời các nhu cầu về sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người.
Theo Marketing, bản chất của dịch vụ có thể được hiểu như sau:
Dịch vụ là một quá trình bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải quyết các
mối quan hệ giữa người cung cấp với khách hàng hoặc tài sản của khách hàng
mà khơng có sự thay đổi quyền sở hữu. Sản phẩm dịch vụ có thể trong phạm vi
hoặc vượt quá phạm vi của sản phẩm vật chất.
2. Đặc điểm của dịch vụ.
Dịch vụ là một loại hàng hóa đặc biệt nó có những nét đặc trưng riêng mà
hàng hóa hiện hữu khơng có. Dịch vụ có những đặc điểm nổi bật đó là:
- Dịch vụ có đặc tính khơng hiện hữu: đây là đặc điểm cơ bản của dịch vụ.
Với đặc điểm này cho thấy dịch vụ là vơ hình, khơng tồn tại dưới dạng vật thể.
Tuy vậy sản phẩm dịch vụ vẫn mang nặng tính vật chất ( chẳng hạn nghe bài hát
hay, bài hát không tồn tại dưới dạng vật thể nào, nhưng âm thanh là vật chất).
Tính khơng hiện hữu được biểu lộ khác nhau đối với từng loại dịch vụ. Nhờ đó
người ta có thể xác định được mức độ sản phẩm hiện hữu, dịch vụ hoàn hảo và
các mức độ trung gian giữa dịch vụ và hàng hóa hiện hữu.
Tính khơng hiện hữu của dịch vụ gây rất nhiều khó khăn cho quản lý hoạt
động sản xuất cung cấp dịch vụ, khó khăn cho Marketing dịch vụ và cho việc
nhận biết dịch vụ.
Để nhận biết dịch vụ thơng thường phải tìm hiểu qua những đầu mối vật chất
trong môi trường hoạt động dịch vụ, chẳng hạn các trang thiết bị, dụng cụ, trang
trí nội thất, ánh sáng, màu sắc, con người… có quan hệ trực tiếp tới hoạt động
cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp.
- Dịch vụ có tính khơng đồng nhất:
Sản phẩm dịch vụ khơng tiêu chuẩn hố được, lý do trước hết là do hoạt động
cung ứng. Các nhân viên cung ứng không thể tạo được những dịch vụ như nhau
trong những thời gian làm việc khác nhau. Hơn nữa khách hàng tiêu dùng dịch
vụ là người tham gia quyết định chất lượng dịch vụ dựa vào cảm nhận của họ.
Trong những thời gian khác nhau sự cảm nhận cũng khác nhau, những khách
hàng khác nhau cũng có sự cảm nhận khác nhau. Do vậy trong cung cấp dịch vụ
thường thực hiện cá nhân hoá, thoát ly khỏi quy chế. Điều đó càng làm cho dịch
vụ tăng thêm mức độ khác biệt giữa chúng. Dịch vụ vơ hình ở đầu ra nên khơng
thể đo lường và quy chuẩn hố được. Vì những ngun nhân trên mà dịch vụ
ln ln không đồng nhất, không giống nhau giữa một dịch vụ này với một
dịch vụ khác nhưng những dịch vụ cùng loại chúng chỉ khác về lượng trong sự
đồng nhất để phân biệt với loại dịch vụ khác.
- Dịch vụ có tính khơng tách rời:
Sản phẩm dịch vụ gắn liền với hoạt động cung cấp dịch vụ. Các sản phẩm cụ
thể là khơng đồng nhất nhưng đều mang tính hệ thống đều từ cấu trúc dịch vụ
cơ bản phát triển thành. Một sản phẩm dịch vụ cụ thể gắn liền với cấu trúc của
nó và là kết quả của q trình hoạt động của hệ thống cấu trúc đó. Q trình sản
xuất gắn liền với việc tiêu dùng dịch vụ. Người tiêu dùng cũng tham gia vào
hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ cho chính mình.
Từ đặc điểm trên ta thấy việc sản xuất cung ứng dịch vụ không được tuỳ tiện,
trái lại phải rất thận trọng. Phải có nhu cầu, có khách hàng thì q trình sản xuất
mới có thể thực hiện được.
- Sản phẩm dịch vụ có tính mau hỏng:
Dịch vụ khơng thể tồn kho, không thể cất trữ và không thể vận chuyển từ
khu vực này sang khu vực khác được. Dịch vụ có tính mau hỏng như vậy việc
sản xuất, mua bán và tiêu dùng dịch vụ bị giới hạn bởi thời gian. Cũng vì đặc
điểm này mà làm mất cân đối quan hệ cung cầu cục bộ giữa các thời điểm
khác nhau trong ngày trong tuần hoặc trong tháng.
Đặc tính mau hỏng của dịch vụ quy định sản xuất và tiêu dùng dịch vụ phải
đồng thời, trực tiếp trong một thời gian giới hạn. Nếu không tuân thủ những
điều kiện đó sẽ khơng có cơ hội mua bán và tiêu dùng chúng.
3. Vai trò của dịch vụ.
3.1. Vai trò chung.
- Vai trò phục vụ xã hội của dịch vụ, phục vụ con người, vì sự tốt đẹp của xã
hội. Dịch vụ mà con người tạo ra khơng vì mục đích gì khác là để thoả mãn, để
đáp ứng, phục vụ nhu cầu của chính con người. Xã hội càng phát triển, nhu cầu
con người càng phức tạp và tinh vi dẫn đến sự đa dạng của các ngành dịch vụ.
Dịch vụ, như vậy, đã đóng một vai trị hết sức to lớn trong việc nâng cao chất
lượng cuộc sống của loài người, nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần
của nhân loại. Dịch vụ cùng với tất cả những sản phẩm khác mà con người sáng
tạo ra đã đưa con người vượt lên ngày càng xa hơn với mn lồi, làm chủ
mn lồi và vũ trụ.
- Vai trị kinh tế của dịch vụ: bên cạnh vai trò phục vụ xã hội, dịch vụ cịn có
một vai trị quan trọng khác là vai trò kinh tế. Ngành dịch vụ ra đời đã thúc đẩy
nền kinh tế phát triển, ngành dịch vụ phát triển và trở nên đa dạng đã làm tăng
thu nhập của dân cư, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Thêm vào nữa, sự
phát triển của các ngành sản xuất vật chất đã trở thành động lực cho sự phát
triển của ngành dịch vụ và ngược lại ngành dịch vụ càng phát triển càng thúc
đẩy các ngành sản xuất vật chất khác phát triển theo. Ngày nay ở một số quốc
gia phát triển, tỷ trọng ngành dịch vụ đóng góp vào tổng thu nhập quốc dân là
hết sức lớn 80%-90% và người ta gọi các quốc gia này là những quốc gia ở
trong thời đại hậu công nghiệp, điều này một phần đã khẳng định vai trò kinh tế
lớn lao của ngành dịch vụ.
3.2. Vai trò cụ thể.
- Dịch vụ là cầu nối giữa đầu ra và đầu vào trong quá trình sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Dịch vụ phát triển thúc đẩy phân công lao động xã hội, thúc đẩy q trình
chun mơn hố, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất tăng năng suất lao động,
đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của đời sống xã hội, nâng
cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng.
- Phát triển dịch vụ tạo ra nhiều ngành kinh doanh mới, tạo nhiều việc làm.
- Dịch vụ phát triển làm biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tối ưu, đảm bảo sự
tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước.
- Dịch vụ đóng vai trị to lớn trong việc giải phóng phụ nữ, một lực lượng
quan trọng mà các nước văn minh hiện đang có xu hướng tiến tới bình đẳng
giữa nam và nữ, khai thác tiềm năng lao động lớn lao này.
- Dịch vụ đóng vai trị thúc đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố hiện đại hố,
nâng cao dân chí và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
- Phát triển dịch vụ quốc tế trong hoạt động thương mại có vai trị là cầu nối
giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho quá trình
hợp tác hội nhập.
I.3. Dịch vụ quốc tế.
1. Sự mở rộng giới hạn địa lý trong kinh doanh dịch vụ.
Hoạt động giao lưu kinh tế quốc tế, buôn bán ngoại thương đã xuất hiện từ rất
lâu trên thế giới. Từ thời kỳ “con đường tơ lụa” với hoạt động buôn bán giao
lưu giữa Trung Quốc và Ấn Độ cho đến thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản
chủ nghĩa, rồi thời kỳ khai thác các nước thuộc địa Á, Phi, Mỹ La Tinh của đế
quốc thực dân Anh, Pháp và cho đến ngày nay hoạt động buôn bán quốc tế, hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa ngoại thương giữa các quốc gia trên thế giới diễn
ra hết sức sôi động và trở thành một phần tất yếu trong phát triển kinh tế của các
quốc gia.
Giờ đây một quốc qia muốn phát triển không thể tách mình ra khỏi các quốc
gia khác mà trái lại muốn phát triển các quốc gia phải dựa vào nhau, quan hệ
chặt chẽ với nhau như một thể thống nhất trên toàn thế giới. Sản phẩm, dịch vụ
của quốc gia này không chỉ được sản xuất, phân phối, tiêu thụ ở chính quốc gia
đó mà cịn được sản xuất, phân phối, tiêu thụ cả ở những quốc gia khác, thị
trường ở đây khơng chỉ của riêng ai mà nó là thị trường chung của tồn thế giới.
Chính q trình tồn cầu hoá nền kinh tế thế giới này đã thúc đẩy cho các hoạt
động kinh doanh dịch vụ quốc tế phát triển.
2. Đặc điểm của dịch vụ quốc tế.
Dịch vụ quốc tế là các hoạt động dịch vụ nhưng phạm vi hoạt động của dịch
vụ này khơng cịn bó gọn trong một nước mà nó mà nó được thực hiện giữa các
nước khác nhau, bên thực hiện cung cấp dịch vụ cho một cá nhân, một tổ chức ở
nước khác hay thực hiện cung ứng dịch vụ cho một công ty trong nước với điều
kiện hàng hoá của họ được vận chuyển qua biên giới. Những người tiêu dùng,
các công ty, các tổ chức tài chính và chính phủ tất cả đều có vai trị quan trọng
đối với hoạt động dịch vụ quốc tế. Các tổ chức giúp đỡ công ty tham gia vào
hoạt động dịch vụ quốc tế thơng qua trao đổi hàng hóa, trao đổi ngoại tệ, và
chuyển tiền khắp toàn cầu.
- Dịch vụ quốc tế mang đầy đủ ngững đặc điểm của dịch vụ như: tính vơ hình,
tính khơng đồng nhất, tính khơng tách rời và tính mau hỏng.
- Trong dịch vụ quốc tế chắc chắn có sự liên quan đến các nhân tố nước ngồi,
khơng bó gọn trong phạm vi một quốc gia: hoặc thị trường nước ngoài hoặc
người cung ứng, người phân phối ở nước ngoài.
- Người kinh doanh dịch vụ quốc tế phải có đủ những điều kiện: quy mơ đủ
lớn, tài chính mạnh, có quan hệ rộng rãi, có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế..
- Sẩn phẩm thường có chất lượng cao, khả năng cạnh tranh mạnh đủ sức
chống trọi dược với canh tranh quốc tế.
- Ở nước ta, người kinh doanh dịch vụ quốc tế thường là đại lý của các hãng
lớn, các công ty đa quốc gia của nước ngồi kinh doanh tại Việt Nam.
3. Vai trị của dịch vụ quốc tế.
Nó mang đầy đủ vai trị của ngành dịch vụ nói chung như vai trị phục vụ xã
hội, vai trị kinh tế bên cạnh đó nó dịch vụ quốc tế còn một số vai trò đặc trưng
như:
- Thúc đẩy quá trình hội nhập hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, các khu vực
trên thế giới.
- Là chất xúc tác thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, buôn bán ngoại thương
phát triển.
- Giúp các quốc gia triệt để tận dụng những lợi thế của mình so với các quốc
gia khác đem lại hiệu quả kinh tế chung cho toàn thế giới.
-Rút ngắn sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc gia đã phát
triển với các quốc gia kém phát triển.
- Đẩy nhanh sự phân công lao động quốc tế, tạo nhiều việc làm với thu nhập
cao góp phần nâng cao mức sống của dân cư.
- Tăng cường các hoạt động giao lưu văn hố giữa các quốc gia có nền văn
hố khác nhau trên thế giới.
- Thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các hiệp hội hợp tác kinh tế trong khu
vực và trên thế giới.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP
KHẨU.
II.1. Khái niệm chung về dịch vụ vận tải quốc tế.
1. Định nghĩa phân loại vận tải.
1.1. Định nghĩa.
Vận tải là một hoạt động kinh tế có mục đích của con người nhằm đáp ứng
nhu cầu di chuyển vị trí của đối tượng vận chuyển. Đối tượng vận chuyển gồm
con người và vật phẩm (hàng hóa). Sự di chuyển vị trí của con người và vật
phẩm trong không gian rất đa dạng phong phú và không phải mọi di chuyển
đều là vận tải. Vận tải chỉ bao gồm những di chuyển do con người tạo ra nhằm
mục đích kinh tế (lợi nhuận) để đáp ứng nhu cầu về sự di chuyển đó mà thơi.
(theo sách Vận tải- Giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của PGS,TS Hồng Văn
Châu).
1.2. Phân loại vận tải.
Có nhiều cách phân loại vận tải, phụ thuộc vào các tiêu chuẩn lựa chọn:
- Nếu căn cứ vào tính chất của vận tải, có thể phân ra: vận tải nội bộ xí ngiệp
và vận tải công cộng.
- Căn cứ vào môi trường sản xuất, có thể chia vận tải thành các phương thức
sau đây: vận tải đường biển, vận tải thuỷ, vận tải hàng không, vận tải ô tô, vận
tải đường sắt, vận tải đường ống, vận tải vũ trụ.
- Căn cứ vào đối tượng vận chuyển có thể chia thành hai loại: vận tải hành
khách và vận tải hàng hóa.
- Căn cứ vào cách tổ chức q trình vận tải, có: vận tải đơn phương thức, vận
tải đa phương thức và vận tải đứt đoạn. Trong đó vận tải đơn phương thức là
trường hợp hàng hóa hay con người được vận chuyển từ nơi đi đến nơi đến bằng
một phương thức vận tải duy nhất. Vận tải đa phương thức là việc vận chuyển
từ nơi đi đến nơi đến bằng ít nhất hai phương thức vận tải, sử dụng một chứng
từ duy nhất và chỉ một người chịu trách nhiệm trong quá trình vận chuyển. Vận
tải đứt đoạn là việc vận chuyển hàng hóa từ nơi đi đến nơi đến bằng hai hay
nhiều phương thức vận tải, sử dụng hai hay nhiều chứng từ vận tải và hai hay
nhiều người phải chịu trách nhiệm về hàng hóa trong q trình vận chuyển.
2. Vận tải là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt.
Đối với một ngành sản xuất vật chất, ví dụ như cơng nghiệp, nơng nghiệp …
thì trong q trình sản xuất đều có sự kết hợp của ba yếu tố: cơng cụ lao động,
đối tượng lao động và sức lao động. Vận tải là một ngành sản xuất vật chất vì
trong q trình sản xuất của ngành vận tải có sự kết hợp của ba yếu tố đó. Ngồi
ra, trong q trình sản xuất của ngành vận tải cũng đã tiêu thụ một lượng vật
chất nhất định, như vật liệu, nhiên liệu, hao mòn phương tiện vận tải… Hơn nữa
đối tượng lao động (hàng hóa ) trong q trình sản xuất của ngành vận tải cũng
trải qua sự thay đổi vật chất nhất định.Vì vậy, C. Mác nói: “ Ngồi ngành khai
khống, ngành nơng nghiệp và cơng nghiệp chế biến ra, cịn có một ngành sản
xuất vật chất thứ tư nữa, ngành đó cũng trải qua ba giai đoạn sản xuất khác nhau
là thủ công nghiệp, công trường thủ công và cơ khí. Đó là ngành vận tải khơng
vận tải người hay vận tải hàng hóa”
Là ngành sản xuất vật chất nên vận tải cũng có sản phẩm của riêng mình đó là
sự di chuyển của con người và vật phẩm trong khơng gian. Sản phẩm vận tải
cũng là hàng hóa, cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa là
lượng lao động xã hội cần thiết kết tinh trong hàng hóa đó. Giá trị sử dụng của
sản phẩm vận tải là khả năng đáp ứng nhu cầu di chuyển. Tuy nhiên so với các
ngành sản xuất vật chất khác, ngành vận tải có những điểm khác biệt về quá
trình sản xuất, về sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm, thể hiện ở các điểm sau đây:
- Môi trường sản xuất của vận tải là không gian, luôn di động chứ không cố
định như các ngành khác;
- Sản xuất trong vận tải là quá trình tác động về mặt không gian vào đối tượng
lao động chứ không phải là sự tác động về mặt kỹ thuật, do đó khơng làm thay
đổi hình dáng kích thước của đối tượng.
- Sản phẩm của vận tải mang tính vơ hình.
- Q trình sản xuất của ngành vận tải khơng tạo ra sản phẩm vật chất mới mà
chỉ làm thay đổi vị trí của hàng hóa và qua đó cũng làm tăng giá trị của hàng
hóa.
Từ những đặc điểm trên C. Mác cho rằng vận tải là một ngành sản xuất đặc
biệt.
3. Vai trò tác dụng của vận tải trong nền kinh tế quốc dân.
Vận tải giữ vai trò rất quan trọng và có tác dụng to lớn đối với nền kinh tế
quốc dân của mỗi nước. Hệ thống vận tải được ví như mạch máu của cơ thể con
người, nó phản ánh trình độ phát triển của một nước. Vận tải phục vụ tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội: sản xuất, lưu thơng, tiêu dùng, quốc phịng. Trong
sản xuất ngành vận tải vận chuyển nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm,
thành phẩm, lao động để phục vụ quá trình sản xuất. Vận tải là yếu tố quan
trọng của lưu thơng. C. Mác nói “ Lưu thơng có nghĩa là hành trình thực tế của
hàng hóa trong khơng gian được giải quyết bằng vận tải. Vận tải là sự tiếp tục
của quá trình sản xuất ở bên trong q trình lưu thơng và vì q trình lưu thơng
đó”. Ngành vận tải có nhiệm vụ đưa hàng hóa tới nơi tiêu dùng. Vận tải tạo ra
khả năng thực hiện giá trị sử dụng của hàng hóa. C. Mác nói “ Sản phẩm chỉ sẵn
sàng để tiêu dùng khi nó kết thúc q trình di chuyển đó”
Tác dụng của vận tải đối với nền kinh tế quốc dân thể hiện ở những mặt sau:
- Ngành vận tải sáng tạo ra một phần đáng kể tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân;
- Vận tải đáp ứng nhu cầu di chuyển ngày càng tăng của hàng hóa và con
người trong xã hội;
- Vận tải góp phần khắc phục sự phát triển không đều giữa các địa phương,
mở rộng giao lưu trao đổi hàng hóa trong nước và quốc tế;
-Rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền
núi, góp phần cải thiện đời sống nhân dân;
- Mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài;
- Tăng cường khả năng quốc phòng và bảo vệ đất nước.
4. Mối quan hệ giữa vận tải và ngoại thương.
Vận tải, đặc biệt là vận tải quốc tế và ngoại thương có mối quan hệ chặt chẽ và
khăng khít với nhau, có tác dụng thúc đẩy nhau cùng phát triển. Vận tải quốc tế
là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để buôn bán quốc tế ra đời và phát triển. Lênin
nói “Vận tải là phương tiện vật chất của mối liên hệ kinh tế với nước ngồi”.
Khi bn bán quốc tế phát triển lại tạo ra yêu cầu để thúc đẩy vận tải phát triển.
Vận tải phát triển làm cho giá thành vận chuyển hạ, tạo điều kiện để nhiều mặt
hàng có giá trị thấp có thể tham gia bn bán quốc tế. Đối với thương mại quốc
tế, vận tải có những tác dụng sau đây:
- Đảm bảo chuyên chở khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng tăng
trong thương mại quốc tế;
- Làm thay đổi cơ cấu hàng hóa và cơ cấu thị trường trong bn bán quốc tế;
- Vận tải quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân thanh toán của một nước.
Vận tải quốc tế được coi là lĩnh vực xuất nhập khẩu vơ hình, nó có thể góp phần
cải thiện hoặc làm trầm trọng thêm cán cân thanh toán quốc tế của một nước.
II.2. Dịch vụ giao nhận ra đời từ sự chuyên môn hoá trong cung ứng dịch
vụ vận tải quốc tế
Đặc điểm nổi bật của buôn bán quốc tế là người mua và người bán ở những
nước khác nhau. Sau khi hợp đồng mua bán được ký kết, người bán thực hiện
việc giao hàng, tức hàng hóa được vận chuyển tứ người bán sang người mua.
Để q trình vận chuyển đó bắt đầu được, tiếp tục và kết thúc được, tức hàng
hóa đến tay người mua được, cần phải thực hiện hàng loạt các cơng việc khác
liên quan đến q trình chun chở, như bao gói, đóng gói, lưu kho, đưa hàng ra
cảng, làm thủ tục gửi hàng, xếp hàng lên tàu, chuyển tải hàng hóa dọc đường,
dỡ hàng hóa ra khỏi tàu và giao cho người nhận.
Lúc đầu khi hoạt động buôn bán ngoại thương chưa phát triển, những công
việc trên được các hãng cung ứng dịch vụ vận tải quốc tế đảm nhận. Đến khi
thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ, lượng hàng xuất nhập khẩu lớn, các
hãng cung ứng dịch vụ vận tải quốc tế nhận thấy rằng: nếu chỉ chun mơn hố
vào việc vận tải hàng hóa thơi thì hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn bởi vì hai lý do,
thứ nhất là: thương mại quốc tế phát triển, lượng hàng hóa xuất nhập khẩu nhiều
địi hỏi hãng vận tải phải mở rộng quy mô, quy mô lớn lên dẫn đến chi phí cố
định phân bổ giảm dần và đạt tới điểm tối ưu. Thứ hai là: theo hiệu ứng đường
cong kinh nghiệm, nếu chỉ chuyên vào việc vận tải hàng hóa sẽ làm giảm tiếp cả
chi phí biến đổi dẫn đến việc đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh. Chính vì
vậy những cơng việc giao nhận trên đã tách ra và phát triển thành một ngành
kinh doanh riêng và do người giao nhận đảm nhiệm. Từ đó, trong vận tải hàng
hóa quốc tế xuất hiện sự chun mơn hoá gồm hai ngành kinh doanh, ngành vận
tải quốc tế và ngành giao nhận.
II.3. Định nghĩa giao nhận và người giao nhận.
1. Định nghĩa về giao nhận.
Dịch vụ giao nhận, theo “ Quy tắc mẫu của FIATA (Liên đoàn quốc tế các
hiệp hội giao nhận) về dịch vụ giao nhận, là bất kỳ loại dịch vụ nào liên quan
đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hóa
cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả các vấn
đề hải quan, tài chính, mua bảo hiểm, thanh tốn, thu thập chứng từ liên quan
đến hàng hóa.
Theo luật thương mại Việt Nam thì giao nhận hàng hóa là hành vi thương mại,
theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức
vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên
quan để giao hàng cho người nhận theo sự uỷ thác của chủ hàng, của người vận
tải hoặc người giao nhận khác.
2. Định nghĩa về người giao nhận.
Người kinh doanh dịch vụ giao nhận gọi là người giao nhận( forwarder,
freight forwarder, forwarding agent). Người giao nhận có thể là chủ hàng, chủ
tàu, công ty xếp dỡ hay kho hàng, người giao nhận chuyên nghiệp hay bất kỳ
một người nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa. Theo
luật thương mại Việt Nam thì người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa là thương
nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa.
Trước đây người giao nhận thường chỉ làm đại lý thực hiện một số công việc
do các nhà xuất nhập khẩu uỷ thác như xếp dỡ, lưu kho hàng hóa, làm thủ tục
giấy tờ, lo liệu vận tải nội địa, thủ tục thanh toán tiền hàng…
Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế và tiến bộ kỹ thuật trong ngành
vận tải mà dịch vụ giao nhận cũng được mở rộng hơn. Ngày nay người giao
nhận đóng vai trị quan trọng trong thương mại và vận tải quốc tế. Người giao
nhận không chỉ làm thủ tục hải quan, hoặc thuê tàu mà cung cấp dịch vụ trọn
gói về tồn bộ q trình vận tải và phân phối hàng hóa.
II.4. Đối tượng và phạm vi của dịch vụ giao nhận.
1. Đối tượng của dịch vụ giao nhận.
Hàng hoá là đối tượng của hoạt động giao nhận. Có nhiều loại hàng hóa khác
nhau, mỗi hàng hóa lại có đặc điểm riêng và được giao nhận theo nhưng phương
thức cụ thể. Tuy vậy tất cả đều có yêu cầu chung khi giao nhận đó là giao nhận
hàng hóa phải nhanh gọn, giao nhận phải bảo đảm tính chính xác và an tồn,
phải đảm bảo chi phí giao nhận thấp.
2. Phạm vi của dịch vụ giao nhận.
Phạm vi của dịch vụ giao nhận là nội dung cơ bản của dịch vụ giao nhận. Trừ
khi bản thân người gửi hàng muốn trực tiếp tự mình thực hiện dịch vụ giao
nhận, thông thường người giao nhận thay mặt người gửi hàng (hoặc người nhận
hàng) lo liệu quá trình vận chuyển hàng hóa qua các cơng đoạn cho đến tay
người nhận cuối cùng. Người giao nhận có thể làm dịch vụ một cách trực tiếp
hoặc thông qua đại lý và thuê dịch vụ của người thứ ba khác. Phạm vi của dịch
vụ giao nhận được thể hiện ở các công việc sau: tính cước, gom hàng, bảo hiểm
vận tải, giám định chất lượng, lên kế hoạch xếp hàng theo lịch tàu, lưu kho, dịch
vụ vận chuyển bằng ô tô, cấp chứng từ xuất, đóng gói (đối với lơ hàng xuất);
th tàu lưu khoang, thông báo cho người nhận, dỡ hàng và xử lý hàng nhập,
khai báo hải quan hay chuyển tiếp hàng quá cảnh, lưu kho và phân phối hàng,
giao hàng tại địa phương, gián nhãn hiệu, khảo sát đơn hàng (đối với lơ hàng
nhập).
Tiếp sau đây sẽ trình bày về những dịch vụ mà người giao nhận tiến hành:
- Chuẩn bị hàng để chở
- Tổ chức chuyên chở hàng hóa trong phạm vi ga cảng
- Tổ chức xếp dỡ hàng hóa
- Làm tư vấn cho chủ hàng trong việc chuyên chở hàng hóa
- Ký kết hợp đồng vận tải với người chuyên chở, thuê tàu, lưu cước
- Làm các thủ tục gửi hàng, nhận hàng
- Làm thủ tục hải quan kiểm nghiệm kiểm dịch
- Mua bảo hiểm cho hàng hóa
- Lập chứng từ cần thiết trong quá trình gửi hàng, nhận hàng, thanh toán
- Thanh toán, thu đổi ngoại tệ
- Nhận hàng từ chủ hàng giao cho người chuyên chở và giao cho người nhận
- Thu xếp chuyển tải hàng hóa
- Nhận hàng từ người chuyên chở và giao cho người nhận hàng
- Gom hàng, lựa chọn tuyến đường vận tải, phương thức vận tải và người
chun chở thích hợp
- Đóng gói bao bì, phân loại, tái chế hàng hóa
- Lưu kho, bảo quản hàng hóa
- Nhận và kiểm tra các chứng từ cần thiết liên quan đến sự vận động của hàng
hóa
- Thanh tốn cước phí, chi phí lưu kho lưu bãi…
- Thơng báo tình hình đi, đến của các phương tiện vận tải
- Thông báo tổn thất tới người chuyên chở
- Giúp chủ hàng trong việc khiếu nại đòi bồi thường.
II.5. Đặc điểm và vai trò của dịch vụ giao nhận.
1. Đặc điểm.
Dịch vụ giao nhận mang những đặc điểm chính của dịch vụ vận tải quốc tế bởi
vì thực chất của dịch vụ giao nhận nó đã bao gồm cả dịch vụ vận tải.
- Dịch vụ giao nhận gắn liền với đặc điểm của hàng hoá vận chuyển trao đổi
vượt quá phạm vi biên giới một quốc gia.
- Do dịch vụ phụ thuộc rất nhiều các yếu tố bên ngoài như gửi hàng, người vận
chuyển, người nhận hàng… nên trong quá trình thực hiện khơng hồn tồn chủ
động được.
- Ngồi những công việc như làm thủ tục hải quan, môi giới… còn tiến hành
các dịch vụ khác như gom hàng, chia hàng, vận chuyển, bốc xếp… nên để hồn
thành tốt cơng việc phải phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở vật chất kĩ thuật và kinh
nghiệm của người giao nhận.
- Hoạt động giao nhận là hoạt động nhằm thực hiện các hợp dồng xuất nhập
khẩu nên phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động xuất nhập khẩu. Mà thường hoạt
động xuất nhập khẩu mang tính thời vụ nên hoạt động giao nhận cũng chịu ảnh
hưởng của tính thời vụ.
2.Vai trị.
Ngày nay do sự phát triển container, vận tải đa phương thức, người giao nhận
không chỉ làm đại lý, người nhận uỷ thác mà cịn cung cấp dịch vụ vận tải và
đóng vai trị như một bên chính (principal) – người chun chở (carrier).
Người giao nhận đã làm chức năng và công việc của những người sau đây:
- Môi giới hải quan
Thuở ban đầu người giao nhận chỉ hoạt động ở trong nước. Nhiệm vụ của
người giao nhận lúc bấy giờ là làm thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu.
Sau đó anh ta mở rộng hoạt động phục vụ cả hàng xuất khẩu và dành chỗ chở
hàng trong vận tải quốc tế hoặc lưu cước với các hãng tàu theo uỷ thác của
người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu tuỳ thuộc vào quy định của hợp đồng
mua bán. trên cơ sở được Nhà nước cho phép, người giao nhận thay mặt người
xuất khẩu, nhập khẩu để khai báo, làm thủ tục hải quan như một môi giới hải
quan.
- Đại lý (Agent)
Trước đây người giao nhận không đảm nhận trách nhiệm của người chuyên
chở. Anh ta chỉ hoạt động như một cầu nối giữa người gửi hàng và người
chuyên chở như là một đại lý của người chuyên chở hoặc của người gửi hàng.
Người giao nhận nhận uỷ thác từ chủ hàng hoặc từ người chuyên chở để thực
hiện các công việc khác nhau như nhận hàng, giao hàng, làm thủ tục hải quan,
lưu kho… trên cơ sở hợp đồng uỷ thác.
- Người gom hàng (Consolidator).
Ở châu Âu, người giao nhận từ lâu đã cung cấp dịch vụ gom hàng để phục vụ
cho vận tải đường sắt. Đặc biệt trong vận tải hàng hóa bằng container dịch vụ
gom hàng là khơng thể thiếu được nhằm biến hàng lẻ thành hàng nguyên để tận
dụng sức chở của container và giảm cước phí vận tải. Khi là người gom hàng
người giao nhận có thể đóng vai trị là người chun chở hoặc chỉ làm đại lý.
- Người chuyên chở (Carrier).
Ngày nay trong nhiều trường hợp người giao nhận đóng vai trị là người
chun chở, tức người giao nhận trực tiếp ký hợp đồng vận tải với chủ hàng và
chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hóa từ một nơi này đến một nơi khác. Người
giao nhận đóng vai trị là người thầu chun chở nếu anh ta ký hợp đồng mà
không trực tiếp chuyên chở. Nếu anh ta trực tiếp chuyên chở thì anh ta là người
chuyên chở thực tế.
- Người kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức (Multimodal Transport
Operator).
Trong trường hợp người giao nhận cung cấp dịch vụ vận tải đi suốt hay còn
gọi là vận tải từ cửa đến cửa thì người giao nhận đã đóng vai trị là người kinh
doanh vận tải đa phương thức ( MTO ).
MTO cũng là người chuyên chở và phải chịu trách nhiệm với hàng hóa
Người giao nhận cịn được gọi là “kiến trúc sư của vận tải” vì người giao
nhận có khả năng tổ chức quá trình vận tải một cách tốt nhất, an toàn nhất và
tiết kiệm nhất.
II.6. Nội dung của hoạt động giao nhận.
Thơng thường thì người làm cơng tác giao nhận sẽ làm tất cả các thủ tục, giải
quyết các vấn đề liên quan đến vận chuyển hàng hóa quốc tế từ tay người bán
đến tay người mua, ngoại trừ trường hợp người bán hoặc người mua trực tiếp
can thiệp vào một khâu thủ tục, chứng từ nào đó. Doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ giao nhận quốc tế có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tiến hành các hoạt động
giao nhận. Các dịch vụ mà người giao nhận đảm nhiệm bao gồm:
1. Thay mặt người gửi hàng.
Theo các chỉ thị của người xuất khẩu, người giao nhận phải:
- Chọn một tuyến đường vận tải và người người vận tải thích hợp.
- Lưu khoang với hãng tàu đã lựa chọn.
- Nhận hàng và cung cấp chứng từ thích hợp như: giấy chứng nhận hàng của
người giao nhận, giấy chứng nhận vận chuyển của người giao nhận.
- Nghiên cứu các điều khoản của tín dụng thư và các quy định của chính
quyền được áp dụng cho việc gửi hàng của nước xuất khẩu, nước nhập khẩu,
cũng như ở bất cứ nước quá cảnh nào, cũng cần chuẩn bị mọi chứng từ cần
thiết.
- Đóng gói hàng (trừ khi việc này do người gửi hàng thực hiện trước khi giao
hàng cho người giao nhận) có tính đến tuyến đường, phương thức vận tải, bản
chất hàng hố và các luật lệ áp dụng nếu có ở nước xuất khẩu, các nước chuyển
tải và nước đến.
- Sắp xếp việc lưu khoang hàng hoá nếu cần.
- Cân, đo hàng.
- Lưu ý người gửi hàng về nhu cầu mua bảo hiểm và nếu người gửi hàng yêu
cầu, sẽ lo liệu mua bảo hiểm hàng.
- Vận chuyển hàng vào cảng, sắp xếp việc khai hải quan, lo các thủ tục chứng
từ liên hệ và giao hàng cho người vận tải.
- Lo việc giao dịch hối đối nếu có.
- Thanh tốn chi phí và các phí tổn khác, bao gồm cước phí.
- Nhận vận đơn có ký tên của hãng tàu và giao cho người nhận hàng.
- Thu xếp việc chuyển tải trên đường đi nếu cần.
- Giám sát việc dịch chuyển hàng trên đường tới người nhận hàng thông qua
các cuộc tiếp xúc với hãng tàu và đại lý của người giao nhận ở nước ngoài đối
với hàng.
- Ghi nhận các tổn thất hoặc mất mát hư hỏng đối với hàng hố(nếu có).
- Giúp đỡ người gửi hàng tiến hành việc khiếu nại với người vận chuyển về
tổn thất hàng(nếu có).
2. Thay mặt người nhận hàng hay người nhập khẩu.
- Thay mặt người nhận hàng giám sát việc chuyển dịch hàng khi người nhận
hàng lo việc vận tải hàng như nhập khẩu theo FOB chẳng hạn.
- Nhận và kiểm sốt mọi chứng từ thích hợp liên quan đến việc chuyển dịch
hàng.
- Nhận hàng từ người vận tải và nếu cần, trả cước phí.
- Sắp xếp việc khai hải quan và trả thuế, lệ phí và các chi phí khác cho hải
quan và các cơ quan công quyền khác.
- Sắp xếp việc lưu kho quá cảnh nếu cần.
- Giao hàng đã làm thủ tục hải quan cho người nhận.
- Giúp đỡ người nhận hàng tiến hành khiếu nại đối với hãng tàu về mất mát
hàng hay bất cứ hư hại nào đối với hàng.
- Giúp người nhận hàng trong việc lưu kho và phân phối hàng nếu cần.
3. Các dịch vụ khác.
Ngoài các dịch vụ đã nêu ở trên, tuỳ thuộc vào yêu cầu của khách hàng của
mình, người giao nhận cũng có thể làm các dịch vụ khác phát sinh trong các
nghiệp vụ quá cảnh và các dịch vụ đặc biệt khác như các dịch vụ gom hàng hay
tập trung hàng liên hệ đến hàng hóa theo dự án, các dự án chìa khố trao
tay( cung cấp thiết bị, nhà xưởng…) sẵn sàng cho vận hành. Người giao nhận
cũng có thể thơng báo cho khách hàng của mình về nhu cầu tiêu dùng, các thị
trường mới, tình hình cạnh tranh, chiến lược xuất khẩu, các điều khoản thương
mại thích hợp cần phải có trong hợp đồng ngoại thương và tóm lại mọi việc liên
quan đến việc kinh doanh của mình.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH
VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU.
Cũng như các ngành kinh doanh khác, ngành dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất
nhập khẩu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô và
vi mô.
III.1. Những nhân tố thuộc môi trường vĩ mô.
Những nhân tố thuộc môi trường vĩ mô là những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt
động kinh doanh của công ty mà cơng ty khơng thể kiểm sốt, điều khiển được.
Nó bao gồm:
1. Môi trường nhân khẩu học:
Những yếu tố thuộc môi trường nhân khẩu học ảnh hưởng tới tổng cầu và cơ
cấu của cầu thị trường vì vậy nó ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh
của mọi doanh nghiệp.
Cầu của thị trường giao nhận là cầu công nghiệp nó xuất phát từ cầu của thị
trường hàng tiêu dùng, sinh hoạt đặc biệt là những hàng hóa có nhu cầu xuất
nhập khẩu. Trong kinh doanh dịch vụ giao nhận, có hai yếu tố mơi trường nhân
khẩu học ảnh hưởng tới đó là mơi trường nhân khẩu học trong nước và mơi
trường nhân khẩu học ngồi nước (Những nước có mối quan hệ ngoại thương
với Việt Nam).
Môi trường nhân khẩu trong nước như: tổng số dân, cơ cấu dân số theo: giới
tính, tuổi, nghề nghiệp… có ảnh hưởng tới tổng kim ngạch nhập khẩu và cơ cấu
các mặt hàng nhập khẩu do đó ảnh hưởng tới cầu và cơ cấu cầu của thị trường
giao nhận.
Tổng số dân và cơ cấu dân cư của các nước có mối quan hệ ngoại thương với
Việt Nam ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu và cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu
do đó nó ảnh hưởng mạnh tới hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa
xuất nhập khẩu.
Khi xem xét các yếu tố thuộc môi trường nhân khẩu với vai trò là người kinh
doanh trên thị trường công nghiệp không thể bỏ qua những yếu tố nhân khẩu
của tổ chức khách hàng.
Những Thông tin về tổng số lượng cán bộ công nhân viên, cơ cấu tuổi, giới
tính của tổ chức khách hàng có ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ tới quyết định
mua của tổ chức đó. Chính vì vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu về tổ chức khách
hàng theo các chỉ tiêu của nhân khẩu học là hết sức cần thiết và hữu ích.
2. Mơi trường tự nhiên
Những yếu tố thuộc môi trường tự nhiên như: địa hình, khí hậu, thời tiết, tình
trạng ơ nhiễm mơi trường, khan hiếm nhiên liệu năng lượng ... có sự ảnh hưởng
mạnh mẽ tới ngành kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu.
Sự ảnh hưởng đầu tiên thể hiện ở chỗ: yếu tố tự nhiên ảnh hưởng tới lợi thế so
sánh về các sản phẩm xuất nhập khẩu do đó nó ảnh hưởng đến ngành dịch vụ
giao nhận.
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng quyết định tới các hình thức vận tải có thể
được sử dụng.Việt Nam có bờ biển dài thuận lợi phát triển phương thức vận tải
hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển, có mật độ sơng ngịi lớn phát triển
vận tải thuỷ nội địa, có đường biên giới kế cận nhiều nước và với địa hình dài,
hẹp thuận lợi phát triển vận tải đường sắt Bắc Nam, đường sắt xuyên Việt.
Kinh doanh dịch vụ giao nhận chịu ảnh hưởng trực tiếp của sự phát triển
ngành vận tải, ngành vận tải tới lượt mình chịu sự tác động mạnh mẽ bởi giá
xăng dầu, nhiên liệu, năng lượng.
Ngày nay, sự thiếu hụt tài nguyên, nhiên liệu năng lượng đang là một vấn đề
bức xúc trên toàn thế giới, giá nhiên liệu năng lượng liên tục gia tăng ảnh hưởng
mạnh mẽ tới ngành vận tải và do đó cũng ảnh hưởng khơng nhỏ tới ngành dịch
vụ giao nhận.
Yếu tố khí hậu, thời tiết có ảnh hưởng tới hoạt động giao nhận thông qua sự
tác động của nó tới ngành vận tải. Khí hậu, thời tiết ảnh hưởng tới tuyến đường
vận tải, phương thức vận tải thích hợp, thời gian vận chuyển…
3. Mơi trường kinh tế.
Mơi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của doanh nghiệp. Sự
biến động hay thay đổi trong nền kinh tế có ảnh hưởng đến tất cả các doanh
nghiệp, song mức độ ảnh hưởng đối với mỗi doanh nghiệp là không giống nhau.
Khi một nền kinh tế đang trên đà phát triển, mặc dù có sự cạnh tranh gay gắt
trên thị trường, nhưng các nhà Marketing vẫn tìm được nhiều cơ hội phát triển.
Ngược lại khi nền kinh tế suy yếu, thất nghiệp gia tăng, lãi suất tăng, doanh số
bán hàng giảm kèm theo số lượng và chất lượng dịch vụ giảm. Trong điều kiện
đó thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp rất hạn chế.
Dịch vụ vận tải quốc tế hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển nói chung
và dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển nói riêng là một
ngành chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam,
đặc biệt là chính sách kinh tế, mức độ tăng trưởng GDP, hoat động và hiệu quả
xuất nhập khẩu hàng hóa trên thị trường Việt Nam. Ngoại thương có phát triển
thì các nhu cầu vận chuyển hàng hóa quốc tế mới gia tăng và do đó hoạt động
giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu mới có cơ hội phát triển.
4. Mơi trường chính trị, luật pháp.
Những sự kiện xảy ra trong mơi trường chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
những quyết định Marketing. Môi trường này bao gồm luật lệ, các cơ quan nhà
nước, các nhóm xã hội có uy tín có ảnh hưởng đến các tổ chức cùng các cá nhân
và hạn chế tự do hành động của họ trong khuôn khổ xã hội.
Pháp luật do nhà nước ban hành, nó hồn tồn phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của các nhà làm luật. Luật pháp điều tiết hoạt động kinh doanh. Luật pháp là cơ
sở cho tất cả mọi thành viên trong xã hội thực hiện, điều chỉnh hành vi của mình
sao cho phù hợp, đồng thời nó cũng thể hiện lợi ích của giai cấp lãnh đạo của
đất nước.
Tóm lại, một quốc gia có nền chính trị và pháp luật ổn định, trật tự xã hội
dược duy trì thì đây chính là một mơi trường thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế, các doanh nghiệp trong và ngoài nước yên tâm mạnh dạn đầu tư,
phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh mà không lo gặp những rủi ro bất khả
kháng xuất phát từ sự mất ổn định về chính trị và pháp luật.
5. Môi trường công nghệ.
Môi trường công nghệ tác động tới vận tải biển, vận tải đường không, vận tải
ô tô, vận tải đường sắt, tới việc xếp dỡ hàng hóa, tới bảo quản hàng hóa… do đó
ảnh hưởng nhiều mặt tới hoạt động giao nhận.
Sự ra đời của những tàu biển công suất lớn, những máy bay chuyên dụng chở
những hàng hóa đặc biệt, hệ thống giao thơng phát triển thúc đẩy vận tải ô tô, sự
ra đời của đường sắt cao tốc rút ngắn thời gian vận chuyển bằng đường sắt… tất
cả những tiến bộ cơng nghệ đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
ngành dịch vụ giao nhận.
Một cuộc cách mạng cơng nghệ có ý nghĩa hết sức to lớn đối với ngành giao
nhận đó là cuộc cách mạng container trong những năm 60, sự ra đời của tàu
chuyên dụng chở container kiểu tổ ong( cellular container vessels), tàu Ro- Ro,
cần cẩu giàn (gantry cranes )… đã tạo ra năng suất lao động cao trong ngành
vận tải biển, giải quyết được tình trạng ùn tắc tại các cảng.
6. Mơi trường văn hố.
Văn hố là một trong hai lực lượng quyết định tới mong muốn của khách
hàng. Xã hội mà con người lớn lên trong đó đã định hình niềm tin cơ bản, giá trị
và các chuẩn mực đạo đức của họ. Con người hấp thụ, hầu như một cách khơng
có ý thức, một thế giới quan xác định mối quan hệ của họ với chính bản thân
mình, với người khác, với tự nhiên và với vũ trụ.
Trong kinh doanh dịch vụ giao nhận, các đối tác có liên quan đến hoạt động
của cơng ty có thể ở những quốc gia khác nhau với nền văn hố khơng giống
nhau. Chính vì lẽ đó, để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao, công ty nhất
thiết trong từng mối quan hệ phải tìm hiểu văn hố của đối tác có như vậy mới
biết được đâu là những giá trị văn hoá cơ bản, những niềm tin bất biến, những
điều cấm kỵ và những điều nên tránh, bên cạnh đó cần tìm ra những nét tương
đồng và những điều khác biệt giữa văn hoá của các nước khác nhau từ đó đưa ra
những biện pháp phù hợp đáp ứng, thoả mãn nhu cầu của từng đối tác trong
từng mối quan hệ của cơng ty.
Ngồi ra, trong cùng một nền văn hố cịn có những nhánh văn hố khác nhau,
do vậy trong kinh doanh cơng ty khơng những chỉ tìm hiểu về nền văn hố mà
cịn phải có những hiểu biết về từng nhánh văn hố khác nhau có như vậy mới
không phạm vào điều cấm kỵ của từng nhánh văn hố, mới có những chính sách
thích hợp với từng nhánh văn hố khác nhau.
Tóm lại muốn có được mối quan hệ bền chặt với đối tác, khơng cịn cách nào
khác là cơng ty phải hiểu và học theo văn hố của đối tác đó.
III.2. Những nhân tố thuộc về mơi trường vi mô.
1.Bản thân doanh nghiệp:
Doanh nghiệp bản thân là chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, tự đưa ra
những quyết định kinh doanh và quyết định Marketing. Doanh nghiệp bao gồm
một hệ thống khác nhau những hoạt động, những mối quan hệ giữa các bộ phận
tạo ra môi trường Marketing trong nội bộ doanh nghiệp.
Tiềm lực bên trong của doanh nghiệp có ảnh hưởng quyết định tới khả năng
khai thác thị trường tới năng lực cạnh tranh của mình. Cơng ty tiềm lực có mạnh
mới thắng trong cạnh tranh, tiềm lực mạnh là tiền đề cho sự phát triển trong
tương lai của doanh nghiệp.
Trình độ, kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng bán hàng của đội ngũ nhân viên cung
ứng của cơng ty có ảnh hưởng trực tiếp tới việc thoả mãn khách hàng, thoả mãn
các đối tác trong kinh doanh và ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động kinh
doanh của công ty.
Mối quan hệ giữa các bộ phận trong công ty cần được xây dựng và củng cố
thường xuyên tạo ra một mục tiêu chung thống nhất, các bộ phận mặc dù đều có
những mục tiêu riêng nhưng luôn luôn sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu chung của
tồn cơng ty có như vậy công ty mới trở thành một thể thống nhất, một khối
đồn kết phấn đấu đưa cơng ty phát triển ngày càng cao xa hơn.
2. Nhà cung ứng.
Bản thân công ty TOP cung ứng dịch vụ cho khách hàng thông qua việc thuê
các nhà cung ứng khác như: các hãng tàu, hãng hàng không cung cấp dịch vụ
vận tải từ cảng tới cảng, hãng vận tải ô tô, hãng đường sắt, vận tải thuỷ nội địa
để vận chuyển hàng hóa từ kho tới cảng và ngược lại từ cảng về kho. Ngồi ra,
trong q trình đó tuỳ theo u cầu của khách hàng, cơng ty có thể sẽ sử dụng
thêm các dịch vụ kho bãi kiểm dịch, đóng gói hàng hóa… của các hãng cung
ứng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Như vậy là hoạt động kinh doanh của cơng ty gần như phụ thuộc hồn tồn
vào các nhà cung ứng, cơng ty có rất ít quyền chủ động do đó chịu sự chi phối
mạnh mẽ của các nhà cung ứng. Những hoạt động làm thiệt hại cho nhà cung
ứng đối với công ty như một thảm hoạ, nếu nhà cung ứng quyết định tẩy chay
cơng ty thì khơng khác gì một án tử hình với cơng ty.
Ảnh hưởng của nhà cung ứng, có thể nói là vừa mang tính trực tiếp, liên tục
vừa mang tính quyết định tới hoạt động kinh doanh của công ty giao nhận.
3. Đối thủ cạnh tranh.
Trong kinh doanh, khơng có một ngành nào là khơng phải đối mặt với cạnh
tranh chính cạnh tranh sẽ thúc đẩy ngành ngày càng phát triển và cạnh tranh
giống như một chiếc máy chọn lọc tự nhiên, ai thắng trong cạnh tranh thì tồn
tại, bại thì tất yếu sẽ bị đào thải và kết quả là những doanh nghiệp còn tồn tại
trên thị trường là những doanh nghiệp có đầy đủ năng lực, có khả năng thoả
mãn tốt nhu cầu và mong muốn của khách hàng.
Trong kinh doanh dịch vụ giao nhận, bên cạnh việc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp giao nhận với nhau cịn có sự cạnh tranh giữa ngành giao nhận và ngành
vận tải. Các hãng cung cấp dịch vụ vận tải như các hãng tàu, hãng hàng
không… cũng kiêm luôn cả việc kinh doanh dịch vụ giao nhận. Do vậy số
lượng các đối thủ cạnh tranh trong thị trường giao nhận là rất lớn, tiềm lực
thường mạnh, với những biện pháp, chiến lược kinh doanh tinh vi và biến đổi
khôn lường luôn là thử thách đầy cam go cho mỗi doanh nghiệp kinh doanh
trong ngành.
4. Những nhà phân phối.
Phạm vi kinh doanh trong dịch vụ giao nhận không chỉ giới hạn trong một
quốc gia mà nó vượt ra ngồi biên giới của quốc gia đó. Lý do là người mua và
người bán trong quan hệ ngoại thương ở những quốc gia khác nhau. Chính vì
vậy, muốn kinh doanh trong ngành dịch vụ giao nhận bắt buộc cơng ty phải có
một mạng lưới các đại lý rộng khắp ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Các đại lý này vừa là nguồn hàng của công ty vừa là những nhà phân phối
giúp hoàn tất các khâu dịch vụ mà công ty đã đảm nhận với khách hàng.
Mạng đại lý vừa là điều kiện tồn tại của công ty vừa là động lực giúp công ty
phát triển. Với vai trị quan trọng đó, cơng ty cần phải tìm hiểu nhu cầu, ước
muốn của các đại lý, có chính sách khuyến khích hỗ trợ, tìm hiểu mục tiêu và
giải quyết các mâu thuẫn giữa các thành viên… nhằm tăng cường sự hợp tác
giữa công ty với mạng đại lý tạo điều kiện cho công ty tồn tại và phát triển.
5. Khách hàng.
Khách hàng là lực lượng quan trọng nhất mà công ty hướng tới, muốn tồn tại
và phát triển công ty phải thoả mãn được nhu cầu của khách hàng và tất nhiên
sự thoả mãn đó phải tốt hơn đối thủ cạnh tranh.
Trong ngành giao nhận, khách hàng là những tổ chức có tham gia hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hóa, nó mang đầy đủ những đặc điểm của một khách hàng
công nghiệp.
Muốn tồn tại và phát triển, công ty nhất thiết phải hiểu rõ nhu cầu ước muốn
của từng khách hàng, biết được quá trình quyết định mua của họ, phát hiện
những nhân tố ảnh hưởng tới quyết định mua, nhận dạng các trung tâm mua và
nhu cầu của họ… qua đó tìm cách thoả mãn, đáp ứng nhu cầu của khách hàng
một cách tốt nhất có thể. Có như vậy khách hàng mới tin tưởng, mới tiếp tục sử
dụng dịch vụ của công ty, công ty từ đó mới có được uy tín và sẽ thu hút được
nhiều khách hàng mới.
Tóm lại, khách hàng có ảnh hưởng quyết định tới hoạt động kinh doanh của
công ty, công ty cần phải hướng mọi hoạt động của mình tới khách hàng, vì
khách hàng và sự thoả mãn của họ.
IV. CÁC TỔ CHỨC GIAO NHẬN TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM.
IV.1. Trên thế giới.
1. Tổ chức các cơ quan giao nhận trên thế giới.
Ngay từ năm 1522, hãng giao nhận đầu tiên trên thế gới đã xuất hiện ở
Badiley, Thuỵ Sỹ, với tên gọi E. Vansai. Hãng này kinh doanh cả vận tải giao
nhận và thu phí giao nhận rất cao, khoảng 1/3 giá trị hàng hóa.
Cùng với sự phát triển của vận tải và buôn bán quốc tế, giao nhận được tách
khỏi vận tải và buôn bán, dần dần trở thành một ngành kinh doanh độc lập. Đặc
điểm chính của các tổ chức giao nhận thời kỳ này là: hầu hết là các tổ chức tư
nhân, đa số các hãng kinh doanh giao nhận tổng hợp, các hãng thường kết hợp
giữa giao nhận nội địa và quốc tế, các sự chun mơn hố về giao nhận theo
khu vực đại lý hay mặt hàng, cạnh tranh gay gắt lẫn nhau.
Sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty giao nhận dẫn đến sự ra đời các hiệp
hội giao nhận trong phạm vi một cảng, một khu vực hay một nước. Trên phạm
vi quốc tế hình thành các liên đồn giao nhận, ví dụ: liên đồn những người
giao nhận nhận Bỉ, Hà Lan, Mỹ… đặc biệt là “Liên đoàn quốc tế các hiệp hội
giao nhận” gọi tắt là FIATA.
2. Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận.
Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận ( FIATA), thành lập năm 1926 là
một tổ chức giao nhận vận tải lớn nhất thế giới. FIATA là một tổ chức phi chính
trị, tự nguyện, là đại diện của 35.000 công ty giao nhận ở 130 nước trên thế
giới. Thành viên của FIATA là các hội viên chính thức và các hội viên hợp tác.
Hội viên chính thức là liên đồn giao nhận của các nước cịn hội viên hợp tác là
các cơng ty giao nhận riêng lẻ.
FIATA được sự thừa nhận của các cơ quan Liên Hợp Quốc (LHQ), Hội đồng
kinh tế xã hội LHQ, Hội nghị của LHQ về thương mại và phát triển, uỷ ban
Châu Âu của LHQ.
FIATA cũng được các tổ chức liên quan đến buôn bán và vận tải như phịng
thương mại quốc tế, hiệp hội vận chuyển hàng khơng quốc tế và các tổ chức của
người chuyên chở, chủ hàng… thừa nhận.
Mục tiêu chính của FIATA là bảo vệ và tăng cường lợi ích của người giao
nhận trên phạm vi quốc tế; nâng cao chất lượng dịch vụ giao nhận; liên kết nghề
nghiệp; tuyên truyền dịch vụ giao nhận, vận tải; xúc tiến q trình đơn giản hố
và thơng nhất chứng từ và các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn nhằm cải tiến
chất lượng dịch vụ của hội viên; đào tạo nghiệp vụ ở trình độ quốc tế; tăng
cường các quan hệ phối hợp giữa các tổ chức giao nhận với chủ hàng và người
chuyên chở.
IV.2. Tại Việt Nam.
1. Sự ra đời của ngành dịch vụ giao nhận Việt Nam là sự kết hợp của ba nhân
tố.
Sự ra đời của ngành dịch vụ giao nhận kho vận Việt Nam là kết quả của sự kết
hợp giữa ba điều kiện sau:
Sự phát triển của ngành dịch vụ giao nhận trên thế giới:
Bất cứ quốc gia nào trên thế giới so với các quốc gia khác đều có ưu thế trong
việc sản xuất một số mặt hàng nào đó, nó có thể là lợi thế tuyệt đối hoặc lợi thế
so sánh. Đây là một trong nhưng điều kiện đầu tiên quyết định sự ra đời của
hoạt động giao lưu buôn bán quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu. Cùng với sự
phát triển kinh tế thế giới, hoạt động buôn bán ngoại thương cũng phát triển
mạnh mẽ cho đến ngày nay nó tạo ra xu thế tồn cầu hố nền kinh tế quốc tế.
Hoạt động ngoại thương phát triển tất yếu kéo theo sự phát triển của ngành dịch
vụ vận tải quốc tế và sự ra đời của ngành giao nhận, cho đến nay nó đã phát trển
mạnh mẽ ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Đây là một điều kiện quan trọng
thúc đẩy sự ra đời của ngành giao nhận của Việt Nam.
Điều kiện tự nhiên:
Việt Nam với trên 3600 km bờ biển, cùng với khoảng 80 cảng biển lớn nhỏ
trong đó có một số cảng lớn như cảng Sài Gịn, Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy
Nhơn, Cam Ranh… Mặt khác Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm của vùng Đơng
Nam Á - Một vùng đang có sự chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt như: kinh tế,
văn hoá, xã hội -, là đầu mối giao lưu kinh tế quốc tế với hầu khắp các nước
trên thế giới. Đây là yếu tố thu hút các đội tàu lớn trên thế giới neo đậu tại các
bến cảng của Việt Nam tạo diều kiện thuận lợi cho sự ra đời của ngành giao
nhận Việt Nam.
Điều kiện kinh tế:
Sau đại hội Đảng VI, năm 1986, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Nhà
Nước nền kinh tế nước ta chuyển hướng từ một nền kinh tế hoat động theo cơ
chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế hoạt động
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của nhà
nước và sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội VI như một chiếc chìa khố vàng đã mở cánh cửa kinh tế nước ta vốn
vẫn khép chặt từ lâu. Từ đây, quan hệ kinh tế quốc tế nước ta như nắng hạn gặp
mưa, bắt đầu phát triển mạnh mẽ. Hoạt động giao lưu, bn bán với nước ngồi
vì thế mà phát triển, cụ thể là hoạt động xuất nhập khẩu.
Trong quan hệ kinh tế ngoại thương, trong hoạt động xuất nhập khẩu, hàng
hoá được sản xuất ở nước này lại được tiêu thụ bên ngồi biên giới nước đó. Do
vậy hàng hố cần được vận chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác qua
mạng lưới dịch vụ vận tải quốc tế.
Lúc đầu các nhà xuất nhập khẩu có thể tự mình tổ chức ra những bộ phận
chuyên trách để thực hiện các cơng việc liên quan đến vận tải hàng hố xuất
nhập khẩu như: th tàu, đóng gói hàng hố, làm thủ tục hải quan, thuê kho
bãi…
Về sau, cùng với quá trình chun mơn hố sâu rộng, các nhà xuất nhập khẩu
của Việt Nam muốn tập trung nguồn lực của mình vào quá trình sản xuất do họ
nhận thấy việc đầu tư cho q trình phân phối khơng đem lại hiệu quả cao. Từ
đây, nhu cầu về sự ra đời của những chuyên gia giao nhận kho vận xuất hiện.
Ngành dịch vụ giao nhận kho vận ra đời là một tất yếu khách quan, nó đem lại
hiệu quả cho hoạt động xuất nhập khẩu, bn bán ngoại thương nói riêng và
tồn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung.
2. Các cơng ty giao nhận quốc tế ở Việt Nam.
Những năm 60, các tổ chức giao nhận quốc tế ở Việt Nam nang tính chất phân
tán. Các đơn vị xuất nhập khẩu tự đảm nhận việc chuyên chở hàng hóa của
mình, vì vậy các cơng ty xuất nhập khẩu thành lập riêng phòng kho vận, chi
nhánh xuất nhập khẩu, trạm giao nhận ở các cảng ga liên vận đường sắt.
Những năm gần đây nền kinh tế nước ta chuyển dần sang cơ chế thị trường,
dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu khơng cịn do Vietrans ( Tổng cơng
ty giao nhận và kho vận ngoại thương) độc quyền nữa (trong thời kỳ bao cấp
Vietrans là cơ quan duy nhất được phép giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu) mà
do nhiều cơ quan, cơng ty khác tham gia, trong đó có nhiều chủ hàng ngoại
thương tự đảm nhiệm cơng tác giao nhận.
Do sự phát triển mạnh mẽ của thị trường giao nhận Việt Nam, để bảo vệ
quyền lợi của các nhà giao nhận, Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam
(VIFAS) đã được thành lập năm 1994 và đã trở thành viên chính thức của
FIATA.
Cho đến nay, trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng gần 200 doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực giao nhận - vận tải thuộc đủ các thành phần kinh tế: nhà
nước, tư nhân, liên doanh…
V. MARKETING QUAN HỆ, MỘT PHẦN TẤT YẾU TRONG KINH
DOANH DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU.
V.1. Quan hệ và vai trò của các mối quan hệ.
1. Quan hệ là gì?
Quan hệ là một từ hết sức quen thuộc đối với mỗi chúng ta, quan hệ được nói
đến mọi lúc, mọi nơi, trong mọi lĩnh vực. Vậy quan hệ là gì?
Bản thân mỗi cá thể khơng bao giờ và cũng khơng thể tồn tại một cách biệt
lập. Xung quanh nó là tập hợp vơ số những yếu tố có tác động qua lại và ảnh
hưởng tới cá thể đó. Để tồn tại và phát triển mỗi cá thể, một cách tự nhiên, phải
xây dựng cho mình một hệ thống những mối liên kết riêng. Những liên kết đó là
điều kiện tồn tại của mỗi cá thể.
Có thể đưa ra một ví dụ đơn giản như sau: một cây xanh khơng thể tồn tại và
phát triển một cách biệt lập, nó, một cách tự nhiên, phải thiết lập cho mình một
hệ thống các mối liên kết làm điều kiện cho sự tồn tại và phát triển.
Những mối liên kết cơ bản trong hệ thống đó là: quan hệ giữa cây và đất, cây
với nước, với khơng khí, với ánh sáng mặt trời… cây cần được trồng xuống đất
để trao đổi chất với đất, cây cần nước, khơng khí và ánh sáng để quang hợp.
Cây chỉ có thể sống được khi có đầy đủ những mối liên kết cơ bản đó.
Mở rộng ra, trong xã hội lồi người, khơng có một cá nhân nào cá thể tồn tại
một cách biệt lập mà trái lại mỗi cá nhân luôn tự xây dựng, thiết lập cho mình
một hệ thống các mối quan hệ riêng có tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển
của chính mình.
Vậy quan hệ là gì?
Ta có thể hiểu: Quan hệ là khái niệm chỉ sự liên quan, sự ràng buộc, phụ thuộc
và tác động qua lại lẫn nhau, có ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của nhau
giữa hai hoặc nhiều chủ thể quan hệ.
2. Vai trò của các mối quan hệ trong kinh doanh.
Hơn bất kỳ một lĩnh vực nào, trong kinh doanh, quan hệ có vai trị vơ cùng
quan trọng. Một chủ thể sản xuất kinh doanh, muốn tồn tại và phát triển, khơng
thể khơng thiết lập cho mình một hệ thống các mối quan hệ. Với hệ thống các
mối quan hệ đó, doanh nghiệp tác động qua lại với các đối tác kinh doanh phục
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp mình và cả
những đối tác đó. Quan hệ là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển
của bất kỳ một chủ thể kinh tế nào.
Khi mà các chủ thể nhận thấy tầm quan trọng và sự cần thiết phải thiết lập mối
quan hệ với nhau họ sẽ cố gắng cùng nhau xây dựng, duy trì và củng cố mối
quan hệ đó.
Mối quan hệ như một chất kết dính, một thứ keo không màu liên kết các chủ
thể lại với nhau thành một hệ thống. Khi môi trường kinh doanh biến động, hệ
thống nào có sự liên kết bền chặt sẽ tồn tại và vượt qua được những biến động
đó, ngược lại hệ thống nào với sự lỏng lẻo trong các mối quan hệ sẽ tan dã và
các chủ thể trong đó sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh và rất có thể sẽ tiêu vong
(phá sản) khi biến động xảy ra.
Ngày nay cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp đơn lẻ mà nó
diễn ra giữa các hệ thống với nhau. Muốn thắng trong cạnh tranh mỗi hệ thống
cần có được sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên, liên kết càng chặt chẽ bao
nhiêu thì cơ hội thắng càng lớn bấy nhiêu.
Trong mục tiêu thoả mãn khách hàng, mỗi hệ thống đều hướng các hoạt động
của mình tới khách hàng, các thành viên biết hy sinh những lợi ích riêng vì mục
tiêu chung của tồn hệ thống. Tính thống nhất trong hệ thống càng cao, mối liên
kết giữa các thành viên càng chặt chẽ thì khả năng thoả mãn khách hàng càng
hiện thực hơn.
V.2. Những mối quan hệ chính trong kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng
hóa xuất nhập khẩu.
Cũng như các ngành kinh doanh khác, ngành dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất
nhập khẩu cần thiết có được những mối quan hệ với các đối tượng sau: với
khách hàng, với nhà cung ứng, với đại lý phân phối, với cơ quan công quyền và
quan hệ nội bộ.
Hơn nữa, các mối quan hệ đó là vơ cùng quan trọng đối với người kinh doanh
dịch vụ giao nhận vì bản thân người giao nhận khi cung ứng dịch vụ cho khách
hàng họ phải thuê các nhà cung ứng và thơng qua mạng lưới đại lý để hồn tất
các khâu dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng.