Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA KHÁCH SẠN NHỎ TẠI KHU PHỐ CỔ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.25 KB, 38 trang )

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA KHÁCH SẠN NHỎ TẠI KHU PHỐ CỔ HÀ NỘI
(LẤY KHÁCH SẠN HANOI ELEGANCE LÀM VÍ DỤ)
2.1. GIỚI THIỆU VỀ KHU PHỐ CỔ HÀ NỘI
Khu Phố Cổ Hà Nội là khu phố nằm xung
quanh Thành cổ Hà Nội và mang đậm nét văn
hoá cổ xưa của Hà Nội, Việt Nam. Hà Nội xưa
thường được cho là là có “36 phố phường”, mỗi
tên phố thường mang đặc trưng của một ngành
nghề thủ công truyền thống. Hiện nay tên phố và
các hoạt động kinh doanh không còn phù hợp
nữa nhưng cuộc sống của người dân nơi đây vẫn
rất tấp nập, nhộn nhịp, sầm uất đêm ngày với những cửa hàng, phố chợ, những
gánh hàng rong. Yếu tố này cùng các di tích đền, đình, chùa, các khu nhà cổ,
các lễ hội còn được lưu giữ và bảo tồn đã trở thành những nét đặc chưng của Hà
Nội, chính là những tài nguyên du lịch quý báu của Hà Nội đã và đang thu hút
đông đảo du khách năm châu.
Theo quyết định số 70 BXD/KT-QH ngày 30/3/1995 của Bộ Xây dựng, khu
Phố Cổ Hà Nội có phạm vi được xác định như sau: phía Bắc-phố Hàng Đậu;
phía Tây-phố Phùng Hưng; phía Nam-các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ
và Hàng Thùng; phía Đông-các phố Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật.
Như vậy, khu Phố Cổ Hà Nội thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, có 76 tuyến phố
thuộc 10 phường với tổng diện tích quy hoạch là 100 ha: phường Hàng Đào,
Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng
Xuân, Cửa Đông, Lý Thái Tổ.
Phạm vi nghiên cứu quy hoạch được phân chia hai khu vực bảo vệ, tôn tạo
đặc trưng như sau:
Ảnh 1: Sơ đồ Hà Nội
- Khu vực bảo vệ, tôn tạo cấp 1: Được giới hạn bởi các phố Hàng Chiếu,
Hàng Đường, Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Mắm và Trần Nhật Duật
(diện tích khoảng 19 ha)


- Khu vực bảo vệ, tôn tạo cấp 2: Gồm các phần còn lại trong ranh giới khu
Phố Cổ.
Các tài nguyên du lịch của khu Phố Cổ Hà Nội đem lại nhiều thuận lợi và
tiềm năng kinh doanh du lịch trong khu vực này, đặc biệt là dịch vụ lưu trú.
Kinh doanh khách sạn nhỏ ở Phố Cổ là rất thích hợp bởi diện tích nhỏ hẹp được
bảo vệ không cho phép xây dựng những khách sạn quay lớn trong khu trung
tâm. Tuy nhiên, những quy định về bảo vệ các di tích cũng gây ra khó khăn cho
việc thiết kế kiến trúc khách sạn nhưng không đáng kể.
2.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA KHÁCH SẠN NHỎ TẠI KHU PHỐ CỔ HÀ NỘI:
2.2.1. Đặc điểm chung
Phần này trình bày về các đặc điểm chung của khách sạn có quy mô nhỏ.
- Không gian bị hạn chế. Điều này thể hiện rõ ràng ở diện tích mặt bằng sử
dụng của khách sạn nhỏ thường chỉ nằm trong khoảng từ 70-120m². Diện
tích nhỏ hẹp dẫn đến các hệ quả sau:
+ Không thể xây dựng nhiều hạng mục công trình. Rõ ràng với diện tích
nhỏ khách sạn không những bị hạn chế về không gian mà các hoạt động
kinh doanh của khách sạn cũng bị hạn chế. Chẳng hạn không thể xây
dựng khu vực dành riêng cho dịch vụ ăn uống nên chỉ có thể có nhà ăn
Ảnh 2: Sơ đồ khu Phố Cổ Hà Nội
nhỏ phục vụ ăn sáng, các dịch vụ bổ sung như vui chơi giải trí, bể bơi,
phòng tập thể thao, giặt là… khó có thể có được, đặc biệt là không có bãi
đỗ xe. Diện tích chủ yếu chỉ được dùng cho các hạng mục không thể
thiếu như quầy lễ tân, khu vực lưu trú. Ngay cả khu vực lưu trú cũng
không thể có nhiều buồng phòng.
+ Hệ quả trên dẫn đến một hệ quả tất yếu là ở khách sạn nhỏ có ít các
hoạt động kinh doanh và cung cấp dịch vụ hạn chế.
+ Công tác kế toán đơn giản. Các hoạt động kinh doanh và dịch vụ ít
nên việc ghi chép sổ sách, thống kê chi phí khá đơn giản, ít loại sổ sách.
+ Diện tích các khu vực dịch vụ nhỏ hẹp. Bản thân các công trình khách
sạn phải có cũng khó mà có diện tích vừa ý. Muốn khu vực này rộng hơn

khu vực khác sẽ phải bị thu hẹp đi. Trong mỗi phòng diện tích nhỏ gây
khó khăn cho việc bố trí, sắp xếp nội thất.
+ Gây khó khăn cho việc thiết kế. Nhà đầu tư chắc chắn mong muốn
khách sạn của mình có nhiều buồng nhất có thể. Mong muốn này lại mâu
thuẫn với diện tích sử dụng vốn có. Tất nhiên giải pháp ở đây là thiết kế
khách sạn nhiều tầng, nhưng chiều cao của khách sạn cũng chỉ ở mức giới
hạn để đảm bảo an toàn công trình cũng như mĩ quan của khách sạn nói
riêng, của khu vực xung quanh khách sạn nói chung. Tất yếu khách sạn
nhỏ không thể có nhiều phòng. Việc bố trí các khu vực, bộ phận sao cho
hợp lí nhất cũng không đơn giản
+ Không có khu vực dành riêng cho các bộ phận, cho nhân viên. Điều
này gây ra bất tiện trong quá trình phục vụ khách. Chẳng hạn khách có
thể bắt gặp nhân viên đang dọn dẹp hoặc mang rác thải đi làm khách khó
chịu. Các bộ phận không có phòng riêng nên nhiều khi phải bố trí ở nơi
khách hay qua lại, thường xuyên phải gọn gàng ngăn nắp, sạch sẽ. Khi
khách phàn nàn nếu không có phòng riêng đưa khách vào 1 chỗ nói
chuyện thì với không gian nhỏ như vậy thông tin lan truyền đi rất nhanh.
Nhưng đặc điểm này có thể được tận dụng vì việc khách và nhân viên
thường xuyên gặp nhau tạo ra điều kiện tốt cho quá trình phục vụ, tạo
quan hệ giữa nhân viên với khách cũng như kinh doanh các dịch vụ.
+ Khi khách sạn cần bảo dưỡng, bảo trì, sửa chữa gây ảnh hưởng ngay
lập tức tới sinh hoạt của khách hàng như gây tiếng ồn, khách không sử
dụng được dịch vụ và không có thiết bị khác thay thế nhất là khi đi thang
máy chẳng hạn.
Tuy nhiên việc bảo dưỡng cũng gặp thuận lợi do số lượng thiết bị ít, dễ thay
thế, không mất nhiều thời gian và chi phí. Công tác vệ sinh cũng dễ dàng hơn rất
nhiều so với những khách sạn lớn nên có thể thực hiện thường xuyên hơn.
- Các thành phần của hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật được sử dụng khá
cân đối. Lí do đơn giản là bởi khách sạn nhỏ có ít dịch vụ và ít các hoạt
động kinh doanh hơn so với các khách sạn lớn. Vào mùa vụ du lịch hay

ngoài vụ du lịch, các hoạt động kinh doanh vẫn là kinh doanh dịch vụ lưu
trú, ăn uống (thường là ăn sáng) và các dịch vụ bổ sung khác như mua
bán tour, cung cấp thông tin, giặt là… Nói là khá cân đối bởi lí do có một
số dịch vụ không phải khách hàng nào cũng có nhu cầu sử dụng, ví dụ
như internet, đặc biệt là dịch vụ internet không dây wifi.
- Vốn đầu tư tương đối nhỏ. Tại sao lại nói như vậy? Có thể cho rằng khoản
vốn đầu tư từ 1-2 tỷ là con số không lớn với các nhà đầu tư lớn, kinh
doanh các khách sạn trên 3 sao, nhưng với những nhà đầu tư nhỏ, kinh
doanh khách sạn nhỏ đây cũng có thể nói là con số đáng kể. Hơn nữa,
kinh doanh các khách sạn nhỏ thường là cá nhân, gia đình hoặc công ty
trách nhiệm hữu hạn tự đứng ra bỏ vốn đầu tư xây dựng, kinh doanh hoặc
cùng góp vốn. Do đó với mức vốn đầu tư trên khó có thể nói là quá nhiều
nhưng cũng không thể nói là nhỏ. Việc xây dựng hoặc mua lại một toà
nhà lớn cũng là một vấn đề đáng quan tâm bởi số tiền bỏ ra sẽ không chỉ
dừng lại ở con số 1 tỷ. Trên thực tế các nhà đầu tư thường thuê lại trong
ngắn hạn vừa để đảm bảo tránh rủi ro nếu kinh doanh không có lãi sẽ đem
cho thuê lại vừa tiết kiệm được khoản tiền lớn.
- Thời gian hao mòn của cơ sở vật chất kĩ thuật tương đối nhanh. Đặc điểm
này bắt nguồn từ khoản vốn đầu tư ban đầu không nhiều, từ đó dẫn đến
các phương tiện, cơ sở vật chất kĩ thuật mua sắm ban đầu thường có chất
lượng không cao. Lấy ví dụ các thiết bị máy tính chủ yếu là đồ cũ đã qua
sử dụng được mua lại với giá rẻ theo kiểu mua hàng loạt, chưa kể các
thiết bị này là hàng thanh lí đã khấu hao hết, do đó thời gian hao mòn
nhanh, hay hỏng hóc, phải thường xuyên sửa chữa. Riêng về toà nhà được
dùng làm khách sạn, toà nhà này được xây dựng kiên cố và khá tốt nên
thời gian hao mòn lâu dài, có thể lên tới 70 năm. Tuy nhiên với những
chủ đầu tư ưa thích sự thay đổi thì kiến trúc toà nhà có thể được sửa sang
nhiều lần trong quá trình sử dụng. Dẫu sao kiến trúc cơ bản vẫn được giữ
nguyên do khó có thể thay đổi mà không gây ảnh hưởng tới quá trình
kinh doanh.

- Phụ thuộc nhiều vào nguồn khách vãng lai. Đây có thể coi là một yếu
điểm của các khách sạn nhỏ, xuất phát từ lí do cơ sở vật chất của các
khách sạn loại này không đáp ứng tiêu chuẩn của các các hãng công ty du
lịch, các hãng lữ hành nên khó có thể được các hãng này gửi khách
thường xuyên. Lí do nữa là khả năng quảng bá tên tuổi của khách sạn nhỏ
rất yếu kém nên khách ít biết đến sự tồn tại của nó. Nguồn khách của các
khách sạn quy mô nhỏ vì thế phụ thuộc nhiều vào các khách vãng lai tự
tìm đến hoặc nhân viên khách sạn phải tự đi bắt khách tại sân bay, nhà ga
hoặc ngay bên ngoài káhch sạn thông qua quan sát xem có khách nào có
nhu cầu thuê phòng hay không.
- Chất lượng đội ngũ lao động không đồng đều. Trong một khách sạn nhỏ
muốn tìm ra một nhân viên được đào tạo đúng ngành nghề, sử dụng tốt
nhiều ngoại ngữ có lẽ rất khó khăn. Với một người có trình độ cao như
vậy thường họ không lựa chọn làm việc cho khách sạn nhỏ với mức
lương thấp, ít cơ hội thăng tiến. Bản thân người chủ đứng ra kinh doanh
nhiều khi cũng không có chuyên môn trong lĩnh vực kinh doanh khách
sạn. Thêm vào đó, để tiết kiệm chi phí, đa số nhân viên thường là những
người dân địa phương có trình độ không cao, quen lao động chân tay. Ở
những bộ phận giao tiếp trực tiếp với khách hàng chủ yếu có trình độ về
ngoại ngữ, ít ai được đào tạo về nghiẹp vụ lễ tân một cách chính thống
mà làm việc theo kinh nghiệm là chủ yếu. Những bộ phận như bếp,
buồng trình độ chuyên môn, ngoại ngữ cũng thấp. Tại những khách sạn
nhỏ như thế này, yêu cầu đối với lao động chủ yếu là nhanh nhẹn, “được
việc” và không đòi hỏi quá nhiều về ngoại hình.
- Sử dụng lao động chưa hợp lý. Với số nhân viên ít, công việc của từng bộ
phận, nhất là các bộ phận phục vụ, dịch vụ, không nhiều, các nhân viên
thường đảm nhận nhiều công việc không đúng theo chức danh của mình.
Do vậy, từng chức danh không có phân công công việc cụ thể hay không
có bảng mô tả, tiêu chuẩn công việc rõ ràng. Nếu bắt gặp một nhân viên
đeo biển I.T. Staff (nhân viên mạng) kiêm luôn chức danh bảo vệ hay

đang lau dọn, làm vệ sinh cũng không lạ lẫm gì. Tuy rằng những lúc bộ
phận này thiếu người trong khi bộ phận khác ít việc thì có thể trợ giúp
nhau nhưng không thể phối hợp ăn khớp khi làm không đúng chuyên
môn. Việc kiêm nhiệm nhiều công viêc một mặt làm cho công việc của
một nhân viên nhiều và nặng nhọc hơn, mặt khác gây tâm lí khó chịu cho
bản thân nhân viên đó. Ngoài ra, số lượng lao động ít cũng đồng nghĩa
với việc thời gian nghỉ của các nhân viên bị rút ngắn. Làm trong lĩnh vực
khách sạn đã phải chấp nhận không được nghỉ các ngày lễ tết, ngày cuối
tuần, nhưng với khách sạn nhỏ, chế độ của họ cũng không được người
chủ ưu đãi, thậm chí là cố ý không muốn nhân viên có nhiều ngày nghỉ
trong 1 tháng làm việc. Như đã nói ở trên, nhân viên trong khách sạn nhỏ
thường là người dân địa phương trình độ không cao, lương họ được nhận
đối với họ là khá nên họ chấp nhận làm công việc và chế độ lao động này.
Tuy nhiên sức chịu đựng của con người cũng có giới hạn, do vậy mà đây
cũng chính là một trong những lí do khiến nhân viên bỏ việc, làm cho khách
sạn không lâu dài.
- Cơ cấu lao động không hợp lý. Về cơ cấu theo giới, nhân viên nữ thường
ít hơn nhân viên nam bởi lí do công việc phải kiêm nhiệm quá nhiều,
nặng nhọc, khách hàng là những người có thu nhập trung bình, bình dân
nên lối ứng xử không lịch sự cùng nhiều lí do khách khiến lao động nữ ít
trụ lâu ở các khách sạn nhỏ.
- Ở liền kề khu vự dân cư. Đặc điểm này vừa đem lại những ưu điểm cũng
như những nhược điểm cho khách sạn. Khách hàng ở gần khu dân cư có
thể được hưởng bầu không khí của địa phương, trực tiếp ngắm nhìn, tận
mặt chứng kiến những nét đặc sắc riêng có của địa phương ấy, đây cũng
có thể coi là một tài nguyên du lịch. Tuy nhiên, gần khu dân cư cũng
đồng nghĩa với vấn đề an ninh không được đảm bảo, nhiều tiếng ồn, mất
vệ sinh…
Trên đây là 8 đặc điểm chung của khách sạn nhỏ mà trong quá trình trực tiếp
thực tập tế tại khách sạn Hanoi Elegance và quan sát các khách sạn đồng hạng

rồi đưa ra kết luận. Cụ thể với khách sạn nhỏ trong khu Phố Cổ Hà Nội còn có
một số đặc điểm riêng sẽ được trình bày dưới đây.
2.2.2. Đặc điểm riêng của khách sạn nhỏ ở khu Phố Cổ Hà Nội
- Có vị trí tại trung tâm thủ đô Hà Nội. Đây có thể nói là lợi thế rất lớn. Thủ
đô của một quốc gia là trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội của cả
nước, do vậy thu hút được số lượng lớn khách du lịch, tham quan, đặc
biệt là khách công vụ với những sự kiện lớn diễn ra hàng năm cũng như
do nhu cầu công việc. Thủ đô Hà Nội không những thế còn có nền văn
hoá nghìn năm văn hiến, nhiều tài nguyên du lịch, có sức hấp dẫn lớn.
Ngoài ra, các đầu mối giao thông lớn như sân bay, các trục quốc lộ đều
tập trung tại đây, rất thuận tiện cho du khách đi lại giữa các khu vực trong
phạm vi Hà Nội và tới các vùng miền khác. Các yếu tố trên đảm bảo cho
Hà Nội có nguồn khách lớn khá ổn định. Cơ sở vật chất kĩ thuật của Hà
Nội cũng rất hiện đại, ứng dựng nhiều công nghệ tiên tiến phục vụ tốt cho
các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, cũng phải đề cập tới những hạn chế
như giá cả cao gây tác động tới du khách và làm tăng chi phí đối với các
nhà đầu tư kinh doanh nói chung cũng như các nhà đầu tư kinh doanh
khách sạn nói riêng, nhất là các khách sạn nhỏ ít vốn. Hơn nữa với mật độ
dân cư cao, diện tích nhỏ hẹp, lại đang trong quá trình xây dựng nên
không thể tranh khỏi tình trạng ô nhiễm, giao thông lộn xộn, ồn ào...
- Gần nhiều tài nguyên du lịch. Ngoài các khu nhà cổ còn được lưu giữ và
bảo tồn, khu Phố Cổ Hà Nội còn mang trong mình nhiều di tích lịch sử
được xếp hạng như các đình, đền, chùa mang nét riêng của Thăng Long
Hà Nội. Khi du khách quyết định lựa chọn lưu trú tại các khách sạn trong
khu Phố Cổ, họ còn được cảm nhận cuộc sống hàng ngày cùa người dân
nơi đây, cảm nhận sự thanh bình, náo nhiệt, sầm uất của 36 phố phường.
Nhưng vị trí gần các tài nguyên du lịch cũng gây ra nhiều hạn chế. Các
công trình xây dựng trong khu vực này luôn phải đảm bảo giữ gìn cảnh
quan, không gây tổn hại tới các di tích ngay kề bên. Giá trị kinh doanh
của từng mét vuông đất trong khu vực rất lớn làm khó các nhà đầu khi mà

họ không thể có diện tích đủ rộng cho kinh doanh.
2.3. KHÁI QUÁT VỀ KHÁCH SẠN HANOI ELEGANCE
2.3.1. Quá trình hình thành và phát triển
Khách sạn Hanoi Elegance 2
Địa chỉ: Số 85 Mã Mây, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Website: /> Email:
Điện thoại: +844. 926 2854
Fax: +844. 934 2966
Ngoài ra, khách sạn còn có cơ sở 1:
Khách sạn Hanoi Elegance 1
Địa chỉ: Số 8 Hàng Bạc, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Website: /> Email:
Điện thoại: +844. 825 3740
Fax: +844. 825 3741
Hiện tại trụ sở chính đặt tại cơ sở 2, khách sạn Hanoi Elegance 2
Khách sạn Hanoi Elegance có chức năng chính là kinh doanh dịch vụ lưu trú
phục vụ các cá nhân và tổ chức có nhu cầu. Đây là một trong số nhiều lĩnh vực
kinh doanh của Công ty TNHH Du lịch Thương mại Mỹ Việt mà khách sạn
Hanoi Elegance là một chi nhánh của công ty.
Công ty TNHH Du lịch Thương mại Mỹ Việt được thành lập trên cơ sở Giấy
chứng nhận đăng kí kinh doanh số 0102 000728 được cấp ngày 20/06/2000.
Vốn điều lệ là 750.000.000đ. Ngành nghề kinh doanh bao gồm: Buôn bán tư
liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng (chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ, hàng vải sợi,
may mặc; xe gắn máy; vật tư, máy móc, thiết bị); dịch vụ kiều hối, buôn bán
hàng lương thực, thực phẩm; buôn bán nông, lâm, thuỷ, hải sản; lữ hành nội địa;
vận chuyển khách du lịch; khách sạn, nhà nghỉ; ăn uống, giải khát; dịch vụ thu
gom rác thải đô thị và xử lý rác thải làm sạch môi trường.
Tháng 05/2006, giám đốc Công ty TNHH Mỹ Việt, bà Bùi Anh Đào chính
thức thành lập chi nhánh công ty tại cơ sở số 85 Mã Mây và ủy quyền cho ông
Đỗ Văn Đàn toàn quyền điều hành mọi hoạt động của chi nhánh trong lĩnh vực

kinh doanh loại hình dịch vụ khách sạn.
Ngày 09/05/2006, bà Trần Dương Thuỷ, phó giám đốc chi nhánh đã đăng kí
bản quyền thương hiệu và logo Hanoi Elegance. Đây là sự kiện quan trọng đánh
dấu bước khẳng định vị thế của khách sạn trên thương trường.
Ngày 01/06/2006, khách sạn Hanoi Elegance 1 số 8 Hàng Bạc chính thức đi
vào hoạt động. Cơ sở 1 đã nhanh chóng tạo được uy tín và cảm tình nơi khách
hàng nhờ phong cách phục vụ nhiệt tình, hiếu khách, tiêu chuẩn phòng sang
trọng và dịch vụ luôn được đánh giá là tuyệt vời. Nhờ vậy, nguồn khách đến với
khách sạn ngày càng dồi dào, tạo tiền đề cho cơ sở 2, khách sạn Hanoi Elegance
2 số 85 Mã Mây, ngay từ ngày đầu hoạt động, 01/12/2006, đã kín phòng. Trụ sở
giao dịch được đặt tại cơ sở 2 số 85 Mã Mây
Không chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm nguồn khách qua mạng, khách vãng lai,
ban lãnh đạo đã tích cực quảng bá thương hiệu và hình ảnh khách sạn thông qua
các đại lí lữ hành, các công ty du lịch, liên kết với các khách sạn đồng hạng để
nhận và gửi khách.
Mục tiêu, cũng có thể nói là tham vọng, của Giám đốc Đỗ Văn Đàn trong thời
gian tới đây là xây dựng, củng cố hơn nữa thương hiệu Hanoi Elegance, xây
dựng chuỗi khách sạn mang thương hiệu Hanoi Elegance trong phạm vi khu
Phố Cổ Hà Nội và tiếp tục mở thêm các cơ sở mới.
2.3.2. Điều kiện kinh doanh
2.3.2.1. Cơ sở vật chất kĩ thuật
Xét tại cơ sở 2. Đây là toà nhà 8 tầng với diện tích sàn là 90m², mặt tiền 3,1m.
Tuy diện tích nhỏ và chiều dài toà nhà sâu xong đã được bố trí hợp lí, tạo nên sự
thuận lợi trong quá trình hoạt động. Hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật của khách
sạn Hanoi Elegance 2 bao gồm: Tiền sảnh, quầy Lễ tân; Nhà ăn / bếp; Khu vực
lưu trú và Khu vực phụ.
• Tiền sảnh
Khu vực Tiền sảnh làm nơi đón tiếp khách, có diện tích rộng nhất, 33m², được
bài trí sang trọng và hiện đại với:


- 4 bộ bàn ghế gỗ giả cổ để tiếp khách, được bố trí ở các vị trí phù hợp, thuận
tiện cho khách nghỉ ngơi những lúc check-in, check-out hoặc khi đợi xe, chờ
phòng, đến giao dịch.
- 2 máy tính loại đặc biệt, màn hình mỏng gắn trực tiếp với CPU,
vừa tiết kiệm không gian, vừa để khách sử dụng đồng thời gây ấn tượng
với khách. Cả 2 máy đều được nối mạng thông qua hệ thống kết nối không dây
Wifi.
Ảnh 3: Tiền sảnh
- Điều hoà 2 chiều, luôn đặt ở nhiệt độ phù hợp tạo cho khách cảm giác thoải
mái nhất trong bất cứ điều kiện thời tiết nào.
- Hệ thống âm thanh và đèn chiếu sáng cao cấp tạo khoảng không gian ấm
cúng, cảm giác nhẹ nhàng, thư thái mỗi khi khách bước vào khu Tiền sảnh.
- 4 bức tranh Phố Cổ loại lớn và đẹp được treo hài hoà khiến những du khách
sành tranh và yêu nghệ thuật, yêu Hà Nội phải dừng chân ngắm nhìn.
- Giá sách của khách sạn luôn được cập nhật thường xuyên các số báo mới
với đầy đủ thông tin thị trường, thông tin du lịch các vị khách quan tâm.
- Tiền sảnh luôn được trang trí bởi các loại hoa tươi theo mùa với các kiểu
cắm hoa nghệ thuật nhưng cũng mang đậm bản sắc dân tộc.
- 3 thùng đựng rác rất sạch sẽ đảm bảo vệ sinh cho Tiền sảnh.
- Đặc biệt, ngay khi bước vào khách sạn, các du khách sẽ bắt gặp bàn làm
việc của bộ phận cung cấp dịch vụ lữ hành, bán vé cho khách. Bàn bằng gỗ có
lớp kính bên trên, dưới lớp kính gắn ảnh quảng cáo về các Tour du lịch một thu
hút sự quan tâm không chỉ của các khách du lịch đã lưu trú trong khách sạn mà
ngay cả những vị khách tình cờ ghé qua. Chiếc bàn khá dài cũng là nơi làm việc
của bộ phận Kế toán và Giám đốc khách sạn. Khu bàn này được trang bị 3 chiếc
laptop hiện đại, 1 chiếc máy tính để bàn loại mới (cả 3 đều được kết nối ADSL)
và 1 chiếc máy in cùng tập sách quảng cáo Tour được in trang trọng, rõ ràng, chi
tiết bằng tiếng Anh và tiếng Việt.
• Quầy Lễ tân
Quầy Lễ tân rộng 4m², được bố trí đối diện cửa ra vào Tiền sảnh. Mặc dù diện

tích khiêm tốn nhưng nhờ cách sắp xếp, bố trí gọn gàng nên vẫn đảm bảo cho
các nhân viên Lễ tân có thể tác nghiệp một cách thuận lợi nhất.

Ảnh 4: Các trang thiết bị của quầy Lễ tân
Các trang thiết bị bao gồm :

- Tủ đựng chìa khoá các buồng.
- 1 máy tính kết nối ADSL.
- Điện thoại máy chủ liên kết các máy điện thoại trong toàn khách sạn và 1
điện thoại máy nhánh để khách sử dụng.
- Máy ghi lại thông tin các cuộc gọi.
- Máy Fax.
- Bộ đàm liên lạc nội bộ.
- Két an toàn.
- Hộp cứu thương.
- Máy cà thẻ của Techcombank sử dụng để thanh toán 7 loại thẻ: Visa,
MasterCard, American Access, Fast Access, JCB, MB (Thẻ của Ngân hàng
Quân đội), ….
- Tủ dài nhiều ngăn thuận tiện cho việc lưu giữ các tài liệu, chứng từ cũng
như mọi giấy tờ của khách.
Cạnh quầy lễ tân là lối dẫn ra khu chứa đồ khách gửi tạm, khu công trình phụ,
thang bộ, thang máy và lối dẫn ra nhà ăn.
• Nhà ăn / bếp
Giá bán phòng của khách sạn là loại giá kết hợp giữa European Price với
Continental Price, tức là gồm giá buồng và bữa sáng. Theo như menu, bữa sáng
chủ yếu gồm các món ăn kiểu châu Âu nhưng cũng gồm các món ăn Việt Nam
như phở, bánh cuốn. Khu nhà ăn là nơi phục vụ khách ăn sáng từ 6h00 đến
10h00, cũng là nơi nhân viên khách sạn ăn trưa, ăn tối, nghỉ ngơi.
Nhà ăn có diện tích 19,5m², được chia làm 2 phần: khu vực bếp (rộng 3m²) và
khu vực phục vụ ăn uống.

Ảnh 5: Các trang thiết bị của Bộ phận Bếp
- Khu bếp được trang bị khá đầy đủ, gồm:
+ Quầy bar có giá treo ly.
+ Bếp ga.
+ Máy hút mùi.
+ Bồn rửa.
+ Giá đựng bát đĩa.
+ Các dụng cụ nhà bếp đầy đủ.
+ Bát, đĩa, cốc chén bằng sứ trắng, dao, dĩa, thìa inox, đũa tre, ly thuỷ tinh.
+ Lò nướng loại nhỏ 1 chiếc.
+ Máy pha cà phê 1 chiếc.
+ Máy đun và làm lạnh nước.
+ Tủ lạnh (hiện để ở nơi cất hành lý do chiếm quá nhiều diện tích).
+ 1 chiếc điện thoại.
+ Hệ thống đèn gồm 4 chiếc đèn nhỏ đảm bảo ánh sáng và tạo thẩm mĩ.
- Khu vực phục vụ ăn uống được trang trí nhã nhận, lịch sự :
+ Nhà ăn có 6 bộ bàn ghế gỗ, mỗi bộ gồm 1 bàn hình vuông và 3 chiếc ghế.
Mỗi bàn ốp kính, không có khăn phủ. Trên mỗi bàn ăn đều có hoa trang trí, giỏ
khăn, menu, khay đựng các loại gia vị, tăm.
+ Đèn treo tường tạo cảm giác ấm cúng kết hợp với đèn tuýp ẩn trên nền
trần phòng ăn
+ 1 máy điều hoà 2 chiều. 1 chiếc gương lớn đặt cuối phòng tạo cảm giác
rộng rãi và đông người.
+ 4 tranh Phố Cổ loại đẹp.
+ Vô tuyến vệ tinh 1 chiếc.
+ 1 máy điều hoà 2 chiều.
+ 2 giá sách đặt ở góc cuối phòng.
+ Giá treo áo cho khách.
+ Hệ thống loa âm thanh nổi.
• Khu vực lưu trú

Đối với một khách sạn mini, dịch vụ lưu trú là dịch vụ chính đem lại doanh
thu cho khách sạn. Khách sạn Hanoi Elegance 2 được thiết kế thành 8 tầng với
17 phòng phục vụ lưu trú sang trọng, yên tĩnh.
Hiện tại các phòng được phân ra 3 hạng Standard, Superior và Delux với các
loại phòng là Single, Double, Twins, Triple, Minor-Suit và tuỳ chọn. Trên thực
tế, việc phân hạng cũng như phân loại phòng chỉ là tương đối do số phòng ít và
lượng khách vào mùa cao điểm khá đông, yêu cầu cao, nên giữa các phòng có
thể linh hoạt thay đổi số giường và dịch vụ đi kèm để luôn đáp ứng kịp thời mọi
nhu cầu của khách. Cũng chính vì lí do này mà việc thống kê số phòng theo tiêu
chuẩn gặp khó khăn. Thêm vào đó, khách sạn có vị trí ngay cạnh nhà cổ 87 Mã
Mây nên buộc phải thiết kế theo dạng bậc thang khiến cho diện tích các tầng
không đồng đều dẫn đến diện tích các phòng cũng có sự khác biệt.
Bảng 1: Loại phòng và giá phòng công bố trên website chính thức của
khách sạn Hanoi Elegance 2:
Ảnh 6: Nhà hàng phục vụ ăn sáng
(Nguồn tự thu thập)
Như đã đề cập ở trên, giá phòng của Hanoi Elegance 2 là loại giá kết hợp giữa
European Price và Continental Price. Mức giá này có thể được điều chỉnh tuỳ
theo thời vụ du lịch nhưng luôn được giữ giao động trong khoảng từ 28-65 USD
để luôn đảm bảo mức giá hợp lý thu hút khách và nâng cao khả năng cạnh tranh
so với các khách sạn đồng hạng tại khu Phố Cổ.
Dưới đây là bản vẽ mô tả bố cục phổ biến nhất của 1 tầng với diện tích sử
dụng cho dịch vụ lưu trú là lớn nhất.
Trung bình các phòng rộng 23m², riêng phòng nhỏ rộng 15m².
Nhìn chung, diện tích các phòng không lớn nhưng bài trí sang
trọng, hài hoà và 1 phòng Standard có những trang bị sau nên
luôn chiếm được cảm tình của khách:
+ 1 giường đôi hoặc 2 giường đơn với đầy đủ chăn, ga, gối,
đệm.
Ảnh 7: Bản vẽ mô tả bố cục phổ biến nhất của một tầng vói diện tích sử

dụng cho dịch vụ lưu trú là lớn nhất
Ảnh 8: Phòng Standard

×