Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.04 KB, 54 trang )

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI.
I. VÀI NÉT VỀ BHXH Ở VIỆT NAM.

1. Chính sách BHXH giai đoạn trước năm 1995.
Ở nước ta, dưới thời thuộc Pháp, chính quyền Pháp đã thực hiện BHXH
đối với cơng chức và quân nhân Việt nam hưởng lương phục vụ trong bộ máy
hành chính và lực lượng vũ trang của Pháp với các chế độ ốm đau , hưu trí, tử
tuất. Sau khi nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, Chính phủ Việt
nam đã ký và ban hành nhiều văn bản pháp Luật về BHXH: Sắc lệnh 54/SL
ngày1/1/1945 ấn định những điều cho công tác về hưu. Sắc lệnh 165/SL ngày
14/6/1945 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức. Hai sắc lệnh này quy định
công chức phải đóng hưu liểm và trong quỹ hưu bổng phải có thêm phần đóng
góp của Nhà nước. Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể hơn các chế
độ hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn và tiền tuất đối với viên chức. Trong
khu vực sản suất, lúc này chưa thành lập quỹ BHXH, nhưng sắc lệnh 19/SL
ngày 12/3/1947 và sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 đã ấn định các chế độ trợ cấp
ốm đau, thai sản, TNLĐ, hưu trí, tử tuất đối với cơng nhân.
Sau khi hồ bình lập lại ở miền Bắc, thực hiện hiến pháp năm 1959 Hội
đồng Chính phủ ban hành Điều lệnh tạm thời về các chế độ BHXH đối với
công nhân viên chức Nhà nước kèm theo nghị định 218/CP ngày 27/12/1961.
Các chế độ BHXH bao gồm 6 loại trợ cấp: ốm đau, thai sản, TNLĐ và bệnh
nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất.
Theo Điều lệ tạm thời, quỹ BHXH được chính thức thành lập thuộc Ngân
sách Nhà nước. Các cơ quan doanh nghiệp Nhà nước chỉ nộp một tỷ lệ phần
trăm so với tổng quỹ lương. Công nhân viên chức Nhà nước khơng phải đóng
góp cho quỹ BHXH. Có thể chia giai đoạn này thành 2 thời kỳ như sau:
Thời kỳ từ năm 1962 đến quý II năm 1964: Trong giai đoạn này Tổng
cơng đồn Việt nam (nay là Tổng liên đoàn Lao động Việt nam) chịu trách
nhiệm quản lý 6 chế độ BHXH nói trên.
Thời kỳ từ quý II năm 1964 đến Nghị định 12/CP (ngày 26/1/95). Ngày
20/3/63 Chính phủ ra Nghị định 31/CP giao trách nhiệm quản lý BHXH cho 2




tổ chức: Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam tổ chức và thực hiện 3 chế độ ngắn
hạn: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bện nghề nghiệp. Bộ Nội vụ (nay là
Bộ LĐ-TBXH) quản lý và thực hiện 3 chế độ dài hạn còn lại. Ngày 10/4/64 Hội
đồng Chính phủ ra Quyết định 62/CP giao nốt trách nhiệm quản lý một phần
quỹ BHXH cho Bộ Nội vụ.
Ngày 22/6/93 Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời
các chế độ BHXH. Đây là một bước đệm trước hết nhằm xoá bỏ tư duy bao cấp
để lại trong lĩnh vực BHXH. Nghị định này đã quy định rõ đối tượng tham gia,
đối tượng hưởng, các chế độ nguồn hình thành quỹ BHXH. Nghị định này ra
đời, nói chung là phù hợp nguyện vọng của người lao động ở các thành phần
kinh tế và phù hợp với công cuộc đổi mới kinh tế nước ta.Tuy nhiên do tình
hình kinh tế cịn gặp nhiều khó khăn, số lượng hưởng chính sách BHXH lao
động lại đơng, vì vậy chính sách BHXH này chưa thể hoàn toàn hợp lý và để
BHXH đáp ứng được nhu cầu của người dân, đảm bảo an toàn cuộc sống cho
họ. Điều này được biểu hiện ở những hạn chế sau:
- Các chính sách BHXH cũ được thực hiện ở phạm vi đối tượng hạn hẹp
công nhân viên chức Nhà nước, chưa mở rộng ra các thành phần kinh tế khác
ngoài xã hội.
- Các chế độ quản lý BHXH phân tán cho 2 hệ thống thực hiện .
- Nhà nước hỗ trợ số lớn từ ngân sách do thu không đủ chi, cơ chế quản
lý chưa tập trung thống nhất, một số kẻ hở đã hình thành trong cơ chế quản lý
tài chính, quản lý đối tượng tham gia BHXH ngày một nhiều và rõ nét hơn. Đó
là đóng BHXH khơng đầy đủ, khai man về tuổi đời và thời gian công tác. Quản
lý về chế độ ốm đau, thai sản lỏng lẻo theo cơ chế khốn gây lãng phí thất thốt
tài sản của Nhà nước.
- Mối quan hệ giữa người lao động, người SDLĐ và cơ quan BHXH bị
tách rời, thiếu chặt chẽ, chưa phối hợp thực hiện chính sách BHXH.
- Các chính sách BHXH mạng nặng bao cấp, cơ chế tạo nguồn quỹ riêng

chưa có, tất cả trở thành gánh nặng đối với Nhà nước.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước cùng các ngành hữu quan có liên
quan nghiên cứu, sửa đổi nhiều mặt về tổ chức và cơ cấu quản lý BHXH cho
phù hợp với tình hình mới của đất nước.
2. Chính sách BHXH giai đoạn từ năm 1995 đến nay.


Trước sự đổi mới mạnh mẽ về nhiều mặt kinh tế - xã hội, một thực tế
khách quan đặt ra là cơng tác BHXH cũng cần có những đổi mới, điều chỉnh
cho phù hợp với giai đoạn mới. Đáp ứng nhu cầu thực tế khách quan đó, ngày
26/1/1995. Chính phủ ban hành nghị định 12/CP và kèm theo Điều lệ BHXH đã
làm cho hoạt động BHXH ở Việt nam có sự thay đổi lớn.
Điều lệ BHXH mới này cụ thể hoá những nội dung về BHXH đã được
quy định trong Bộ Luật lao động nhằm đảm bảo vật chất, góp phần ổn định đời
sống cho những người tham gia BHXH và gia đình họ trong các trường hợp
người tham gia BHXH bị ốm đau, thai sản, suy giảm khả năng lao động, hết
tuổi lao động hoặc chết. Điều lệ này sửa đổi chỉ còn 5 chế độ BHXH cụ thể là:
- Trợ cấp ốm đau.
- Trợ cấp thai sản.
- Trợ cấp TNLĐ -BNN.
- Trợ cấp hưu trí.
- Trợ cấp tử tuất.
Quy định các đối tượng sau đây phải áp dụng các chế độ BHXH bắt buộc:
+ Người lao động làm việc trong các cơ quan Nhà nước.
+ Người lao đông làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế ngồi quốc doanh có sủ dụng từ 10 lao động trở lên.
+ Người lao động Việt nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngồi, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước
ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt nam, trừ trường hợp điều ước Quốc tế mà
nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt nam ký kết hoặc tham gia có quy định

khác.
+ Ngưịi lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ
quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đồn thể.
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ
thuộc lực lượng vũ trang .
+ Người giữ chức vụ dân cử, dân bầu làm việc trong các cơ quan quản lý
Nhà nước, Đảng, Đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.
+ Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính
sự nghiệp, cơ quan Đảng Đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.


Các đối tượng trên đi học, thực tập,công tác, điều dưỡng trong và ngoài
nước mà vẫn hưởng lương hoặc tiền cơng thì cũng thuộc đối tượng thực hiện
BHXH bắt buộc.
Người lao động và người sử dụng lao động phải đóng phí BHXH để thực
hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. Quỹ BHXH được hình thành từ
các nguồn thu BHXH và sự trợ cấp của Nhà nước và được quản lý thống nhất.
Tiếp theo ngày 16/2/1995 Chính phủ ra Nghị định 19/CP về việc thành
lập BHXH Việt nam. Từ ngày 1/10/1995, hệ thống BHXH Việt nam bước vào
hoạt động trên phạm vi toàn quốc. Sự ra đời của BHXH Việt nam là một bước
ngoặt quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển BHXH Việt nam.
Trong giai đoạn này, sự thay đổi quan trong nhất trong quản lý BHXH là
quỹ BHXH được quản lý tập trung, độc lập, nằm ngoài ngân sách Nhà nước,
toàn bộ hoạt động về thu chi, bảo tồn và phát triển quỹ BHXH đều do cơ quan
BHXH Việt nam thực hiện. BHXH Việt nam chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Thủ
tướng Chính phủ và dưới sự quản lý Nhà nước của Bộ LĐ - TBXH, Bộ Tài
chính và Tổng Liên đồn Lao động Việt nam.
II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ QUỸ BHXH Ở VIỆT NAM .
1. Giai đoạn trước năm 1995.
Sau khi thành lập nước Việt nam Dân chủ Cộng hồ. Chính phủ ta đã có

các sắc lệnh 27/SL, 76/SL và 77/SL ban hành một số chính sách về BHXH
nhằm ổn định tình hình chính trị xã hội lúc bấy giờ, đảm bảo quyền lợi cho cán
bộ công nhân viên chức làm việc cho Nhà nước. Do điều kiện tài chính hạn hẹp,
nên Chính phủ phải quy định 2 chính sách BHXH, đó là trợ cấp hưu trí và trợ
cấp tử tuất. Đồng thời Chính phủ Việt nam đã quy định mức đóng góp để có
nguồn chi cho các chế độ trên, cụ thể:
Nhận xét về chế độ BHXH lúc bấy giờ, các nhà hoạch định chính sách
phát triển xã hội cũng như các nhà kinh tế học Việt nam cho rằng Chính phủ
ta đã sớm tiếp thu những chính sách kinh tế xã hội, trong đó có chính sách
BHXH. Chính sách này tuy sơ khai nhưng đã phản ánh được những mặt tiến
bộ nhất định về mặt hình thành một quỹ BHXH, nguồn tạo quỹ chủ yếu dựa
vào những đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, mức trợ
cấp cũng được tính một tỷ lệ thấp phù hợp với mức đóng góp và khả năng
tài trợ của quỹ.
Sau khi hồ bình lập lại ở miền Bắc, Chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm
thời về BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước (Theo nghị định 218/CP
ngày 27/12/1961) và được áp dụng từ năm 1962, trải qua năm tháng, các nội


dung của BHXH có nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh
tế của đất nước, nhưng nhìn chung vẫn được thực hiện theo cơ chế tập trung bao
cấp. Với cơ chế này quỹ BHXH không tồn tại độc lập mà là một bộ phận nằm
trong ngân sách Nhà nước với các nguồn thu cơ bản là :
+ Các cơ quan, xí nghiệp, các nơng lâm quốc doanh (gọi chung là các đơn
vị Nhà nước) hàng tháng trích nộp vào quỹ BHXH một khoản tiền bằng 4,7 %
so với tổng quỹ lương của đơn vị mình (Phần này được tính trong chi phí giá
thành đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh).
+ Tiền bù cấp của ngân sách Nhà nước trong những trường hợp cần thiết.
+ Các khoản thu khác như tiền ủng hộ, tiền viện trợ .
Như vậy, nếu Qbh là: Quỹ Bảo hiểm thì cơ cấu quỹ như sau:

Qbh =
Đđv + Đns + Tk
Trong đó:
Đđv : Số tiền đóng góp bằng 4,7% quỹ lương của đơn vị Nhà nước.
Đns : Phần bù của ngân sách Nhà nước.
Tk : Các khoản thu khác.
Ở các đơn vị hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang khoản trích này
vào quỹ BHXH do ngân sách Nhà nước cấp, còn ở các đơn vị sản xuất kinh
doanh khoản trích nộp như đã nêu trên được tính vào chi phí giá thành. Nói
chính xác trong cơ chế tập trung bao cấp chỉ có trích nộp của các đơn vị sản
xuất kinh doanh. Nhưng bản thân các xí nghiệp quốc doanh cũng hoạt động theo
cơ chế “Cấp phát giao nộp ”. Cho nên quỹ BHXH suy cho cùng là do ngân sách
Nhà nước đài thọ. Mặt khác trên thực tế trong q trình hoạt động qũy BHXH
ln ln thâm hụt vì số lượng cơng nhân viên chức nghỉ hưu, nghỉ mất sức
tăng nhanh, nên dẫn đến thu BHXH đã mất cân đối. Trong giai đoạn này, chế độ
BHXH dường như là một đặc ân của Nhà nước đối với công nhân viên chức
Nhà nước. Người lao động chỉ cần vào biên chế Nhà nước là đồng nghĩa với
việc được công nhận hưởng chế độ BHXH. Từ đó tạo nên tâm lý “Yên tâm lao
động suốt đời” trong khu vực Nhà nước, tư tưởng đó cùng với chế độ đãi ngộ
bình quân, không thoả đáng đã làm triệt tiêu tinh thần sáng tạo của người lao
động.
Cơ chế quản lý và sử dụng quỹ BHXH ở giai đoạn này theo Nghị định
218/CP ngày 27/12/1961, Chính phủ giao cho Tổng cơng đồn quản lý quỹ
BHXH cũng như toàn bộ sự nghiệp BHXH. Tổng Cơng đồn và Ngân hàng
Việt nam chịu trách nhiệm lập kế hoạch thu chi quỹ BHXH và thực hiện việc
chi trả trợ cấp BHXH theo quy định của Nhà nước. Theo điều lệ thì quỹ BHXH
bao gồm các khoản chi sau:
- Chi trả 6 chế độ trợ cấp BHXH



- Chi cho quản lý và các hoạt động sự nghiệp, bao gồm trả lương và phúc
lợi cho cán bộ, cơng nhân viên phục vụ, chi phí hành chính, chi phí sửa chữa
nhỏ, ni dưỡng thêm cho những người hưởng trợ cấp hưu trí vào các nhà
dưỡng lão, chi phí cho cơng nhân viên chức đi nghỉ mát.
Theo đó cơ cấu chi của quỹ BHXH:
Qbhxh
=
Ctc + Cql + Ck
Trong đó:
Ctc: Là chi trả các trợ cấp BHXH cho các chế độ hưu trí, mất sức lao
động, TNLĐ và BNN, ốm đau, thai sản và tử tuất.
Cql: Là chi quản lý cho các khoản chi phí hành chính, lương cán bộ cơng
nhân viên...
Ck: là các khoản chi khác.
Đến ngày 20/3/1961 Chính phủ đã ra Quyết định 31/CP điều chỉnh lại
trách nhiệm quản lý quỹ BHXH và các chế độ chi trả. Trước đó là chỉ có Tổng
cơng đồn quản lý, nhưng từ ngày 01/01/1964 sẽ giao ba chế độ dài hạn: Hưu
trí, mất sức lao động và tử tuất cho Bộ TB-XH (nay là Bộ LĐTB-XH ) quản lý.
Còn các chế độ ngắn hạn là ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN vẫn do Tổng
Cơng đồn quản lý.
Như vậy, quỹ BHXH do hai cơ quan quản lý và sử dụng vào mục đích chi
trả cho các chế độ nhưng được điều chỉnh theo cơ chế tập chung bao cấp, quỹ là
một bộ phận nằm trong ngân sách Nhà nước, cứ chi cho các chế độ, thiếu bao
nhiêu ngân sách bù bấy nhiêu. Người lao động tức là công nhân viên chức
không cần phải đóng mà chỉ cần vào biên chế Nhà nước là có quyền được
hưởng BHXH. Cịn vấn đề thu của quỹ BHXH, hàng tháng cơ quan, đơn vị nộp
khoảng bằng 1% của tổng quỹ lương của đơn vị cho cơ quan Bộ TB-XH để
phục vụ các chế độ dài hạn, 3,7% nộp cho Tổng Cơng đồn nhưng được giữ lại
cơ sở để trực tiếp đơn vị chi trả cho các chế độ ngắn hạn kịp thời nếu chi không
hết thì nộp lên cho Cơng đồn cấp trên, nếu chi thiếu thì Cơng đồn cấp trên sẽ

bù lại phần thiếu đó. Do vậy trong giai đoạn này quỹ BHXH gặp rất nhiều khó
khăn do những yếu tố bất lợi trên. Để hiểu rõ hơn ta đi tìm hiểu chi tiết hơn từng
cơ quan quản lý trong giai đoạn này.
a. Quỹ BHXH do Tổng liên đoàn lao động Việt nam quản lý.
* Thời kỳ 1962- 1963
Thời kỳ này quỹ BHXH chỉ do Tổng Liên đoàn lao động quản lý, để quản
lý tốt ngày 2/4/1962 Tổng Cơng đồn Việt nam ra Quyết định số 364 xây dựng
các nguyên tắc quản lý và phân cấp chế độ thu chi BHXH theo 3 cấp:
- Tổng cơng đồn Việt nam là cấp tổng dự tốn thu chi BHXH


- Liên hiệp cơng đồn tỉnh, thành phố và một số cơng đồn ngành và Bộ
là đơn vị dự tốn cấp I.
- Cơng đồn cơ sở là đơn vị dự tốn cấp II.
Cơng tác quản lý thu, chi được quy định cụ thể cho từng cấp theo nguyên
tắc trên duyệt dự toán hàng quý, hàng năm cho cấp dưới. Việc thu nộp BHXH
từ các cấp cơng đồn cơ sở lên các đơn vị dự tốn cấp I được tính theo phương
pháp thu chênh lệch giữa số phải nộp với số tạm ứng chi cho các chế độ BHXH
tại các đơn vị dự toán cấp II. Cơ chế hạch toán trên đáp ứng được yêu cầu quản
lý kinh tế, phù hợp với tình hình tổ chức bộ máy và trình độ của cán bộ lúc bấy
giờ. Nhờ vậy mà công tác thu BHXH đã đạt được tỷ lệ cao đáp ứng được nhu
cầu chi lúc bấy giờ, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Tình hình thu- chi quỹ BHXH do Tổng LĐLĐVN quản lý
(1962-1963)
Tổng thu

Ngân sách
NN cấp

Năm


Tổng chi (Đồng)

Thực thu
(đồng)

Tỷ lệ so với
chi(%)

1962

14.900.030

15.397.100

103,34

-

1963

17.900.470

20.597.340

115,06

(Nguồn:Vụ BHXH)

Số liệu bảng trên cho thấy 2 năm 1962 và 1963 quỹ BHXH có số thực

thu lớn hơn số chi do đó ngân sách Nhà nước khơng phải cấp bù. Cụ thể năm
1962 tỷ lệ thu so với chi đạt 103,34%, năm 1963 đạt 115,06%. Nguyên nhân là
do lúc này số người hưởng BHXH cịn ít do vậy việc chi trả các chế độ cho
các đối tượng cũng ít, nhất là số người hưởng chế độ dài hạn chưa nhiều và
mức chi trả còn thấp.
* Thời kỳ 1964- 1986.
Để phù hợp với yêu cầu quản lý mới, Chính phủ giao nốt nhiệm vụ quản
lý quỹ BHXH cho Bộ Nội vụ quản lý (nay là Bộ LĐ- TBXH) Tổng Cơng đồn
chỉ quản lý 3,7% trong 4,7% để chi các chế độ ngắn hạn. Trong năm 1964 Tổng
Cơng đồn đã bàn giao cho Bộ Nội vụ 1 triệu đồng quỹ lương của công nhân
viên chức là 300 người. Việc thực hiện thu của Tổng cơng đồn đã gắn trách
nhiệm cụ thể cho các cơ sở nên kết quả thu 3,7% đạt khá cáo với kế hoạch đề ra
cụ thể là ở bảng 2.


Bảng 2 cho thấy kết quả thực hiện thu đạt khá cao so với kế hoạch. Giai
đoạn 1964- 1974 thu thường không đạt kế hoạch đặt ra, nguyên nhân là vì thời
gian này đang chiến tranh nên sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp gặp
nhiều khó khăn, khơng có khả năng nộp BHXH và ý thức nộp BHXH của một
số doanh nghiệp chưa nghiêm túc. Còn từ năm 1975 trở đi đều đạt 90%, trên
90% so với kế hoạch, có những năm vượt kế hoạch đề ra, cụ thể năm 1975 đạt
101,70%, năm cao nhất 1986 đạt 115,74%. Sở dĩ đạt được như vậy là vì từ năm
1975 nước nhà hoàn toàn thống nhất, các doanh nghiệp đi vào sản xuất với khí
thế hào hứng trong khơng khí chiến thắng nên đã làm ăn tốt và nộp đầy đủ
BHXH. Bên canh đó Tổng Cơng đồn đã trực tiếp thu và quản lý tại cơ sở và
phân định rõ trách nhiệm của các cấp cơng đồn.


Bảng 2: Tình hình thu chi quỹ BHXH do Tổng LĐLĐVN quản lý
(1964- 1986)

Số thu BHXH
Năm

Số chi
BHXH

NSNN cấp

Tỷ lệ
Tỷ lệ
TH so Số cấp
so với
với
(1000đ)
(1000đ) (1000đ) chi(%) KH(%)
Kế
hoạch

Thực
hiện

Tỷ lệ
so với
chi
(%)

1964 20.3311

20.806


20.515

100,41

98,12

-

1965

19.094

22.692

19.190

100,50

84,58

-

-

1966

20.957

26.000


21.149

100,92

81,34

1967

26.038

28.030

23.294

89,46

83,10

3.000

11,52

1968

30.353

29.721

21.364


70,39

71,88

6.000

19,77

1969

38.159

33.086

25.004

65,53

75,57

12.000

31,45

1970

49.942

34.151


29.310

58,69

85,82

20.600

41,25

1971

48.751

35.779

30.639

62,85

85,63

27.000

55,38

1972

24.884


34.398

31.159

72,73

90,58

17.500

40,48

1973

53.504

36.216

34.946

65,31

96,49

17.000

31,77

1974


58.996

43.290

39.180

66,41

90,51

15.000

25,42

1975

63.349

42.376

42.884

67,69

101,20

23.000

36,31


1976

63.067

53.650

47.119

74,84

87,97

22.000

34,88

1977

74.194

63.684

64.764

87,29

101,70

21.000


28,34

1978

89.497

73.402

73.019

81,59

99,48

22.000

24,58

1979

94.307

76.082

79.112

83.89

103,89


13.000

13,78

1980

97.431

79.106

81.547

83,70

103,08

15.000

15,39

1981 172.495 121.474 127.417

73,87

104,89

36.000

20,87


1982 274.073 239.499 219.878

80,23

91,81

21.000

7,92

1983 268.164 294.693 310.303
1984 402.621 410.261 445.857

115,71

105,30

70.000

26,10

110,74

108,68

52.000

12,91

1985 181.359 203.315 208.147

1986 767.447 812.900 940.842

114,77

102,38

19.400

10,70

122,59

115,74 110.000

14,33


(Nguồn :Vụ BHXH)
Còn tỷ lệ thu so với chi thời gian đầu từ 1964- 1966 thu đủ chi nên ngân
sách Nhà nước không phải bù. Càng về sau số thu không đủ bù chi, đơn cử
năm 1971 số thu so với chi chỉ đạt 62,85%, ngân sách Nhà nước phải cấp phát
27 triệu đồng tương ứng 55,38%. Nhưng đến những năm đầu 80 trở đi số thu
đã đạt trên 100% so với chi. Mặc dù vậy Nhà nước vẫn phải cấp phát với một
con số tương đối lớn, cụ thể năm 1983 thu so với chi đạt 115,71%, nhưng
ngân sách Nhà nước cấp 70 triệu đồng tương ứng 26,10%, năm 1986 đạt
122,59% Nhà nước cấp 110 triệu đồng tương ứng 14,33%. Những con số này
quả là không nhỏ, nguyên nhân là do những năm trước Nhà nước cấp bù
chưa đủ nên đến những năm này vẫn phải cấp. Còn một ngun nhân khác là
do Bộ Tài chính khơng quản lý được và vẫn lập dự toán để xin Nhà nước
cấp cho Tổng Cơng đồn đảm bảo chi trả.

Thực tế những năm này Tổng cơng đồn chi cho 3 chế độ ngắn hạn chỉ
hết 2,4% trong số 3,7% tổng quỹ lương nhưng lại chi cho các chế độ không phải
là chế độ BHXH như nghĩ dưỡng sức, nghỉ mát... Chính vì vậy trong những
năm thu đủ để đáp ứng chi vẫn có sự hỗ trợ của Nhà nước.
* Thời kỳ 1987- 9/1995.
Để nâng cao trách nhiệm đóng góp BHXH của các đơn vị tham gia
BHXH, Tổng Liên đồn LĐVN đã có công văn ra ngày 26/4/1989 về việc phân
cấp quản lý quỹ BHXH. Thông qua phân cấp quản lý tỷ lệ chi các chế độ
BHXH nên đã quy định cụ thể việc quản lý quỹ BHXH, xây dựng các định mức
trích nộp kinh phí BHXH lên cơng đồn cấp trên. Quy định này đã có tác dụng
khuyến khích và tăng cường trách nhiệm cho các cấp cơng đồn cơ sở để họ
quản lý tốt hơn. Ta xem xét cụ thể sau:


Bảng 3: Tình hình thu chi quỹ BHXH do Tổng LĐLĐVN quản lý.
(Từ 1987- 9/1995)
Số thu BHXH
Năm

Số chi
(1000 đ )

1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994

9/95

4.471.53
15.914.155
57.587.819
64.841.505
77.163.181
140.908.329
211.989.617
296.890.810
191.213.360

Thực thu
(1000 đ)

Tỷ lệ so với
chi (%)

4.472.560
23.472.170
66.738.600
72.855.590
66.150.000
159.736.000
196.019.000
250.395.000
152.530.000

100,02
147,49

115,89
112,36
85,73
113,36
92,47
84,34
79,77

NSNN cấp
Tỷ lệ so
Thực cấp
với
(1000 đ)
chi(%)
105.000
2,35
100.000
0,63
650.000
0,81
5.000.000
2,36
(Nguồn :Vụ BHXH)

Số liệu bảng 3 cho thấy việc nâng tỷ lệ 3,7% lên 5% trong giai đoạn này
đã có những kết quả bước đầu rất khả quan, sự hỗ trợ của ngân sách Nhà
nước đã giảm đáng kể. Mặc dù phần trăm hoàn thành chỉ tiêu thu nộp chưa
hoàn toàn tốt , nhưng hầu hết số thu đều vượt chi, đặc biệt là từ năm 87- 90
tỷ lệ thu so với chi luôn luôn đạt trên 100%, cụ thể năm 1987 đạt 100,02%
năm 1988 đạt 147,49%... Nhưng từ năm 1991 trở đi tỷ lệ thu so với chi đã có

xu hướng giảm xuống và ngân sách Nhà nước phải cấp bù nhưng với tỷ lệ
nhỏ. Nguyên nhân dẫn đến thu đạt chỉ tiêu cao hơn những năm trước là do
Tổng Liên đoàn LĐVN đã phân cấp quản lý rõ ràng do các đơn vị cơ sở và
đề ra chế độ trích thưởng 1% số thu được để làm quỹ khen thưởng cho đơn
vị cơ sở đã thực hiện tốt cơng tác thu nộp BHXH. Điều đó khuyến khích các
đơn vị thu và đơn đốc thu có trách nhiệm hơn.
Từ năm 1991 thu đạt tỷ lệ cao nhưng vẫn không đủ chi, Nhà nước vẫn
phải trích ngân sách Nhà nước để bù cấp. Nguyên nhân của tình trạng này là do
sự quản lý lỏng lẻo dẫn đến vi phạm của các cá nhân doanh nghiệp như tình
trạng làm hồ sơ giả mạo để được hưởng 2 lần. Nhiều doanh nghiệp làm ăn
không hiệu quả, công nhân phải nghỉ việc nhưng lại làm chế độ nghỉ ốm để họ
được hưởng chế độ BHXH. Một nguyên nhân nữa là khi chi cho 3 chế độ khơng
hết thì đơn vị được phép chi cho các nhu cầu của đơn vị: nghỉ dưỡng sức, nghỉ
mát. Khoản này một mặt có tác dụng là nhằm khôi phục sức khoẻ, tinh thần cho


người lao động, làm cho họ có thể làm việc tốt hơn cống hiến cho xã hội nhiều
hơn. Nhưng đây không phải là một khoản chi của chế độ BHXH. Chính việc chi
khơng đúng mục đích này mà trong những năm đầu thập kỷ 90 phần quỹ BHXH
mà Tổng Liên đồn LĐVN quản lý thu khơng đủ đáp ứng chi.
b. Quỹ BHXH do Bộ LĐTB- XH quản lý.
Trong giai đoạn này Bộ LĐ - TBXH thực hiện việc quản lý 1% tổng quỹ
lương và quản lý 3 chế độ dài hạn: hưu trí, tử tuất, mất sức lao động. Để đánh
giá cụ thể ta xét tình hình thu chi quỹ BHXH do Bộ LĐTB - XH quản lý.

Bảng 4: Tình hình thu - chi quỹ BHXH do Bộ LĐTB- XH quản lý
(Từ 1964- 1986)


Năm


Số chiBHXH

Số thu BHXH

(1000đ)

Số thu(1000đ)

1964

4.418

1965

NSNN cấp

4.418

Tỷ lệ so với
chi (%)
-

Số cấp
(%)
-

Tỷ lệ so
với
-


7.326

4.586

62,60

2.740

37,46

1966

9.719

5.680

58,44

4.039

41,55

1967

11.379

5.978

52,54


5.400

47,46

1968

14.967

6.765

45,20

8.202

54,80

1969

18.676

7.699

41,24

10.971

58,76

1970


26.768

7.955

29,72

18.813

70,28

1971

43.959

8.636

19,65

35.323

80,35

1972

51.104

7.987

15,63


43.117

84,37

1973

57.425

9.016

15,70

48.409

84,30

1974

62.477

9.885

15,82

52.592

84,18

1975


69.174

10.705

15,48

58.469

84,52

1976

74.346

12.521

15,84

61.819

83,16

1977

82.053

13.749

16,76


68.304

83,24

1978

91.585

19.192

20,96

72.393

79,04

1979

115.095

20.560

17,87

94.499

82,13

1980


148.146

23.407

15,80

124.738

84,20

1981

299.256

32.319

10,80

266.936

89,20

1982

513.169

41.515

8,09


471.653

91,91

1983

929.848

56.225

6,05

873.592

93,95

1984

1.627.826

104.669

6,43

1.523.156

93,57

(nguồn: Vụ BHXH)


Số liệu bảng 4 minh chứng rằng trong những năm đầu tiếp nhận và
quản lý để thực hiện các chính sách BHXH quỹ BHXH gần như thu không đủ
chi, ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ rất nhiều. Quỹ BHXH luôn luôn thiếu,
thiếu ngày càng trầm trọng, thu không đủ đáp ứng chi, ngân sách Nhà nước
khơng cịn là trợ cấp khi cần thiết mà buộc phải trợ cấp thường xuyên với số
tiền ngày càng nhiều. Đặc biệt từ năm 1970 trở đi năm nào cũng chỉ đạt một


tỷ lệ nhỏ so với chi, ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ trên 80% số chi BHXH.
Nguyên nhân là do những năm này Nhà nước có chính sách tinh giảm biên
chế và giảm tuổi nghỉ hưu cho nên đối tượng mất sức lao động và nghỉ hưu
hưởng BHXH ngày càng nhiều. Do vậy số chi ngày càng tăng mạnh.
Bước sang thập kỷ 80, quỹ BHXH ngày càng trở nên trầm trọng hơn,
ngân sách Nhà nước phải trợ cấp tới hơn 90% so với số chi BHXH, nhưng năm
1955 và 1986 thu chỉ đạt 3,02% và 3,22% so với chi. Số tiền trợ cấp cho quỹ
BHXH bị bội chi rất lớn. Sự khủng hoảng này do nhiều nguyên nhân gây ra:
những năm này lại có chính sách quy đổi thời gian công tác và những người làm
việc ở những ngành nghề nặng nhọc chỉ cần 25 năm công tác liên tục là có thể
nghỉ hưu. Do vậy có người thời gian công tác quy đổi nhiều hơn cả tuổi đời.
Nguyên nhân nữa là do tăng tỷ lệ hưởng lương hưu từ 75% lên 95%, nên mức
chi các chế độ BHXH ngày càng tăng.
Nói chung trong cả giai đoạn 1964 - 1986, khi xác định tỷ lệ trích nộp
BHXH chỉ dựa vào tình hình thực tế 1960 - 1962. Khi đó cơng nhân viên chức
cịn ít, nhu cầu BHXH phát sinh chưa nhiều, cụ thể càng về những năm sau
1964, số hưu trí và mất sức lao động ngày càng tăng về số tuyệt đối so với đối
tượng giảm đi vì các nguyên nhân khác nhau. Tính đến năm 1970 số hưu trí và
mất sức lao động là 15000 gấp 3,75 lần 1962. Cho đến năm 1985 con số này lên
đến 420000 người gấp 105 lần so với 1962. Do nhu cầu hưởng BHXH ngày
càng tăng lên từ đó kéo theo chi phí quản lý tăng thêm mà trong khi đó mức

đóng góp lại khơng tính tới sự biến động của lạm phát và chi phí quản lý. Bên
cạnh đó khi tính tốn tỷ lệ trích nộp BHXH lại chưa tính đến tốc độ phát triển
của nhu cầu BHXH trong mối quan hệ tất yếu khách quan ln biến động với
tình hình chính trị, kinh tế và xã hội: Lợi ích kinh tế, số lượng và cơ cấu lao
động, tiền lương của nền kinh tế quốc dân ngày càng nhiều mối quan hệ kinh tế
xã hội khác nữa, từ đó thu luôn không đủ chi. Lúc này BHXH; quỹ BHXH gần
như không tồn tại trên thực tế, chỉ tồn tại trên giấy tờ.
Về quản lý sử dụng quỹ BHXH ở giai đoạn này, nguồn tài chính BHXH
do Bộ LĐTB - XH quản lý theo hệ thống 3 cấp quản lý. Đơn vị tài chính cấp 1
của Bộ là Vụ Kế hoạch - Tài chính tổng hợp tập trung việc cấp phát và quyết
tốn tài chính với các đơn vị tài chính cấp 2 và thanh quyết tốn tài chính cấp 3
trực thuộc, sau đó báo cáo với đơn vị tài chính cấp 1. Do trực tiếp quản lý và
chịu trách nhiệm nên báo cáo của Vụ Kế hoạch - Tài chính của Bộ LĐTB - XH
thì ngân sách Nhà nước cấp để phục vụ cho công tác BHXH được quản lý chặt
chẽ, chi tiêu đúng mục đích, tránh được lãng phí vì chi đúng đối tượng, đúng
điều kiện quy định của Nhà nước.


Tiếp theo Nghị định 218/CP là Nghị định 236/HĐBT của Hội đồng Bộ
trưởng theo Nghị định này thì quỹ để chi trả cho các chế độ BHXH với tỷ lệ thu
4,7% trước đây được nâng lên 13% trong đó Bộ LĐTB - XH quản lý 8% để chi
trả 3 chế độ dài hạn, còn 5% do Tổng LĐLĐVN quản lý để chi trả các chế độ
ngắn hạn. Mặc dù nguồn quỹ là 13% nhưng cũng chủ đảm bảo được trong một
số năm đầu khi ban hành chính sách cịn bắt đầu từ năm 1986 đến tháng 9/1995
thu không đủ chi (biểu hiện ở bảng 4).
Số liệu bảng 5 cho thấy: Việc tăng tỷ lệ đóng góp đã làm cho số thu
BHXH tăng lên rõ rệt, đặc biệt là giai đoạn 1993 - 1995. Đồng thời số chi
BHXH cũng tăng nhanh qua các năm. Như vậy mặc dù tăng tỷ lệ thu nhưng số
thu đạt được có tỷ lệ nhỏ so với số chi.Hàng năm tổng thu BHXH chỉ đạt
được 20% - 30%, ngân sách Nhà nước cấp bù trên dưới 80% kinh phí cho

BHXH, chi BHXH năm sau cịn lớn hơn thậm chí cịn gấp đơi năm trước làm
cho ngân sách Nhà nước cấp bù quá lớn. Cụ thể năm 1987 thu bằng 2,34% so
với chi, tỷ lệ thu này quá thấp nguyên nhân là do từ tháng 8/1987 mức thu vào
quỹ BHXH do Bộ LĐ- TBXH quản lý mới được nâng lên từ 1% lên 8% nên số
thu vẫn còn thấp. Mặt khác, các doanh nghiệp trong thời kỳ này gặp nhiều khó
khăn, làm ăn đình đốn hoặc tạm thời ngừng hoạt động nên khơng có khả
năng đóng vào quỹ BHXH .


Bảng 5: Tình hình thu - chi quỹ BHXH do Bộ LĐTB - XH quản lý
(Từ 1987- 9/1995)
ngân sách Nhà nước
cấp

Số thu BHXH
Năm

Số chi
(1000 đ)

Thực thu
(1000 đ)

Tỷ lệ so
với chi
(%)

Thực cấp
(1000 đ)


Tỷ lệ
so với
chi (%)

1987

13.078.810

306.044

2,34

12.772.765

97,66

1988

50.577.151

14.686.605

29,04

35.890.546

70,96

1989


277.341.067

90.403.188

32,06

186.927.879

67,40

1990

382.136.024

95.259.511

24,93

286.876.613

75,07

1991

505.383.146

117.936.426

23,34


387.419.720

76,66

1992

710.346.003

205.143.012

28,88

505.202.991

71,12

1993 2.300.000.128

279.079.128

12,13 2.020.921.000

87,87

1994 4.400.000.205 1.294.000.205

29,41 3.106.000.000

70,59


9/95

27,91 3.342.186.000

72,09

4.636.186.053 1.294.000.053

(Nguồn : Vụ BHXH)
Thêm vào đó, một số cơ quan có đủ điều kiện và các cơ quan hành chính
sự nghiệp trích nộp khơng kịp thời, trong khi đó nguồn để chi trả cho 6 chế độ
BHXH lại bị phân tán do hai cơ quan quản lý nên hạn chế khả năng tăng cường
các biện pháp thu, truy thu quỹ ở các đơn vị cơ sở, việc thu này mang tính chất
hành chính, nộp chậm hay khơng nộp cũng khơng bị xử lý gì nên thất thu quỹ
ngày càng nhiều, năm sau càng lớn hơn năm trước. Mặt khác do chính sách tinh
giảm biên chế cho người lao động nghỉ mất sức, nghỉ hưu sớm nên làm tăng số
lượng các đối tượng hưởng chế độ BHXH làm cho nguồn chi của quỹ tăng lên
nhanh, làm cho tổng chi BHXH hàng năm tăng cao so với quỹ thu được, năm
1993 thu bằng 12,13% so với chi, năm cao nhất là 1989 cũng chỉ thu bằng
32,6% so với chi. Song có thể nói rằng tỷ lệ thu như trên là khả quan nhiều hơn
so với trước năm 1986, trung bình chỉ đáp ứng được 4,71% so với chi, sang giai
đoạn 1988 - 1992 thì con số này là 27,75 % bên cạnh đó, số chi BHXH rất lớn
và tăng dần qua các năm, ngân sách Nhà nước cấp bù cho số chi có giảm chút ít


so với giai đoạn trước năm 1986 nhưng vẫn còn ở mức cao. Năm 1989 là năm
Nhà nước cấp bù với tỷ lệ thấp nhất là 67,405% còn lại các năm khác Nhà nước
cấp bù trên 70%so với chi. Sở dĩ có tình trạng này là do sự thay đổi về mức độ
và điều kiện hưởng BHXH như sửa đổi cách tính thâm niên làm việc để hưởng
hưu trí, giảm tuổi nghỉ hưu ... nên đối tượng hưởng các chế độ dài hạn ngày

càng tăng, cụ thể như sau:
Bảng 6: Đối tượng hưởng BHXH
(năm 1991- 1995)
Năm

(Đơn vị: Người)

1991

1992

1993

1994

1995

Hưu trí

925870

999369

1118436

1195629

1201493

Mất sức LĐ


385290

338667

405372

403186

402081

Tử tuất

116693

159381

172662

173532

174438

4900

3781

5129

5865


6157

1432753

1501198

1769599

1778212

1784169

Chỉ tiêu

Tai nạn LĐ và
bệnh NN
Tổng

(Nguồn : Vụ BHXH)
Số liệu bảng 6 cho thấy: Tổng số đối tượng hưởng BHXH năm sau đều
tăng so với năm trước. Trong đó, số người hưởng chế độ hưởng hưu trí là lớn
nhất và tăng dần qua các năm. Năm 1991 là 925.870 người, đến năm 1995 là
1.201.493 người. Trong thực tế việc áp dụng “Hệ số quy đổi thời gian cơng tác”
thì số thời gian cơng tác khơng có thực của đối tượng BHXH tăng lên mà
BHXH vẫn phải chi trả chế độ cho 1,5 triệu người về nghỉ hưu và mất sức lao
động hàng năm là 3,5 triệu người/năm. ngân sách Nhà nước phải chi tăng thêm
cho quỹ BHXH tới 50 tỷ đồng/năm. Hoặc với việc nâng thời gian nghỉ đẻ của
lao động nữ từ 2 lên 6 tháng theo Thông tư số 06/TCĐ ngày 6/9/86 của Tổng
Liên đoàn LĐVN đã làm ngân sách Nhà nước cấp thêm để thực hiện chế độ

BHXH nay tăng thêm 3 lần so với trước.
Về mặt quản lý quỹ BHXH: từ năm 1988 việc quản lý và sử dụng nguồn
quỹ BHXH do Bộ Tài chính, Bộ LĐTB - XH thực hiện, chính sách BHXH bị
phân tán. Đơn vị tài chính cấp 1 là Bộ LĐTB - XH chỉ là đầu mối tập hợp các
công việc cấp phát, điều hồ và thanh quyết tốn với các đơn vị tài chính cấp 3
của Bộ, cịn các Sở LĐTB - XH là đơn vị tài chính cấp 2 trực tiếp thanh quyết
tốn với ngành tài chính. Sự thay đổi cơ chế quản lý như vậy đã làm nảy sinh


một số vấn đề như: Việc quản lý, điều hành nguồn quỹ chưa đầy đủ, kịp thời
cấp phát và quản lý nguồn quỹ cũng thiếu chặt chẽ. Trong những năm đầu thập
kỷ 90, việc quản lý BHXH vẫn do 2 cơ quan đảm nhận, do đó dẫn đến tình
trạng tổ chức quỹ BHXH bị phân tán, lỏng lẻo và chồng chéo, không kết hợp
được với nhau trong việc xây dựng chính sách quốc gia về BHXH, trong tổ
chức chỉ đạo và kiểm tra thực hiện chế độ BHXH.
Nhận xét :
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, việc thực hiện các chế độ BHXH
trong điều kiện đất nước còn nghèo nàn lạc hậu nhưng đã đạt được một số
kết quả nhất định, trong chừng mực nào đó đảm bảo được đời sống cho cán
bộ công nhân viên chức, quân nhân và các thành viên trong gia đình họ, tạo
điều kiện tiền đề vững chắc góp phần vào chiến thắng chủ nghĩa đế quốc
thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Đứng trên góc độ quỹ thì chính sách BHXH vẫn còn những mặt hạn chế
sau:
- Mức trợ cấp cho các đối tượng hưởng BHXH cịn thấp và mang tính
bình qn do đó đời sống của người về hưu và mất sức lao động cịn gặp nhiều
khó khăn.
- Việc hình thành quỹ BHXH chưa thiết lập được mối quan hệ giữa trách
nhiệm đóng góp và quyền lợi hưởng các chế độ BHXH của người lao động.
Thực chất nguồn quỹ BHXH ở thời kỳ này lấy từ ngân sách Nhà nước để thực

hiện các chế độ BHXH cho công nhân viên chức Nhà nước. Các nguyên tắc cơ
bản để thực hiện sự công bằng xã hội, gắn quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người
hưởng chính sách BHXH chưa được quy định cụ thể. Mặt khác chính sách
BHXH bị chi phối bởi nhiều chính sách khác như tinh giảm biên chế, ưu đãi
người có cơng...đã làm cho nguồn chi quỹ BHXH tăng thêm so với yêu cầu chi
BHXH, thực tế là làm tăng thêm tính phức tạp khi phải khắc phục các tồn tại
thiếu sót. Cơng tác quản lý lỏng lẻo, thiếu sự chặt chẽ phân tán do hai cơ quan là
Tổng Liên đoàn LĐVN và Bộ LĐTBXH cùng quản lý mang tính hành chính
cao.
- Quỹ BHXH là một bộ phận nằm trong ngân sách Nhà nước, hoạt động
chủ yếu của quỹ mới chỉ là trợ cấp cho công nhân viên chức khi họ phát sinh
nhu cầu BHXH dựa vào ngân sách Nhà nước.
- Việc quy định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH cho người LĐ chưa có
căn cứ khoa học và thực tiễn dẫn đến chỗ nhiều vướng mắc và bất hợp lý trong
thực hiên chính sách. Thí dụ, mặc dù cùng hạng thương tật do bị TNLĐ nhưng


đối với người nghỉ việc được hưởng 100% trợ cấp thương tật, còn người đang
làm việc chỉ được hưởng 30% trợ cấp, hoặc việc quy định mức lương hưu cao
nhất bằng 95% tiền lương khi đang làm việc nên không khuyến khích được
người có năng lực trình độ làm việc lâu hơn.
- Quỹ BHXH chưa có phương thức bảo tồn, phát triển vốn, nhiều nội
dung, chức năng cơ bản của quỹ theo kiểu thị trường như các cơ chế quản lý và
hạch toán chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa được đầy đủ.
Những tồn tại nêu trên tuy đã được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với
tình hình mới, phù hợp với cơ chế thị trường nhưng vẫn chưa khắc phục được
tình trạng bội chi của quỹ BHXH, sự thâm hụt ngân sách Nhà nước vì phải
“Bảo trợ” quá nhiều cho quỹ BHXH. Để khắc phục tình trạng này địi hỏi phải
có những thay đổi phù hợp trên mọi phương diện dựa trên những yêu cầu quan
điểm, phương hướng đổi mới, biện pháp hoàn thiện cơ sở khoa học và lý luận

thực tiễn, phù hợp với tình hình cụ thể cần phải xác định được những tồn tại của
các thời kỳ trước đây, đây sẽ là cơ sở lý luận phân tích đề ra biện pháp khắc
phục hữu hiệu.
Vì vậy để đảm bảo cơng bằng xã hội cần phải cải tổ lại cơ chế quản lý
công tác BHXH. Trong đó đổi mới việc hình thanh quỹ BHXH, nguồn thu của
quỹ BHXH, các chế độ trợ cấp, chi trả phải theo đúng nguyên tắc đóng góp và
hưởng cho mỗi thành viên là một yêu cầu cần thiết, nó mang tính chính trị xã
hội quan trọng. Việc Chính phủ ban hành NĐ 12/CP và NĐ 19/CP đã mở ra một
giai đoạn mới đối với chính sách BHXH ở Việt nam.
2. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay.
2.1. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường và yêu cầu đổi mới hoạt động
BHXH.
Đứng trước sự sai lầm, yếu kém của cơ chế quản lý tập trung bao cấp ,
sau Đại hội VI, đất nước ta đã có những bước chuyển mình đáng kể, đó là q
trình chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN
có sự quản lý của Nhà nước với những đặc điểm cơ bản sau:
- Đã chuyển từ hình thức đơn sở hữu - sở hữu Nhà nước sang hình thức
đa sở hữu. Từ nền kinh tế với sự độc quyền của thành phần kinh tế Nhà nước
sang nền kinh tế nhiều thành phần nhằm tận dụng, khuyến khích, phát huy mọi
năng lực sản xuất trong xã hội. Chính điều này thúc đẩy số lao động tham gia
sản xuất trong xã hội tăng nhanh - điều này các nhà làm BHXH phải quan tâm.
- Nhà nước chủ trương xoá bỏ bao cấp đối với các thành phần kinh tế
quốc doanh và thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh trên nguyên tắc tự chịu


trách nhiệm, mở rộng thế chủ động trong kinh doanh cho các doanh nghiệp và
buộc các doanh nghiệp phải hoàn thành đầy đủ các chỉ tiêu, các kế hoạch với
Nhà nước trên cơ sở phải đảm bảo đời sống cho ngưịi lao động. Nếu khơng đáp
ứng được các địi hỏi đó thì phải giải thể hoặc chuyển hướng kinh doanh.
- Đối với cơ chế quản lý các quỹ thuộc ngân sách Nhà nước, tiếp tục bao

cấp đối với những quỹ có ý nghĩa sống cịn với an ninh quốc gia, giảm dần trợ
cấp các quỹ dành cho y tế, giáo dục. Các quỹ khác thuộc ngân sách Nhà nước
buộc phải tách ra thực hiện chế độ tự đảm bảo thu chi và Nhà nước chỉ hỗ trợ
một phần khi gặp khó khăn khơng thể khắc phục hoặc để giải quyết những vấn
đề do lạc hậu của quá khứ để lại và quỹ BHXH nằm trong loại quỹ này.
Để tiến hành các biện pháp cải cách nền kinh tế đạt hiệu quả cao thì yêu
cầu bình đẳng xã hội được đặt ra cấp thiết, bởi vì lúc này đang có sự bất bình
đẳng lớn giữa những ngưịi lao động trong xã hội. Đặc biệt là sự bất bình đẳng
giữa thành phần kinh tế Nhà nước và các thành phần kinh tế khác. Đối với lao
động làm việc trong thành phần kinh tế Nhà nước chỉ cần vào biên chế là được
hưởng mọi quyền lợi trong đó có quyền lợi về BHXH. Trong khi đó người lao
động thuộc các thành phần kinh tế khác vẫn đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước
nhưng không được hưởng quyền lợi như người lao động trong thành phần kinh
tế Nhà nước. Dù nhu cầu đảm bảo quyền lợi khi bị giảm hoặc mất khả năng lao
động như nhau hay nói cách khác nhu cầu BHXH là nhu cầu bức thiết của mọi
người lao động không kể họ thuộc thành phần kinh tế nào. Nhưng để đáp ứng
nhu cầu BHXH thì ngân sách Nhà nước khơng thể bao cấp hoàn toàn như đối
với cán bộ CNVC Nhà nước mà địi hỏi phải nghiên cứu hình thành một cơ chế
đóng góp và hưởng BHXH để người lao động trong tất cả các thành phần kinh
tế đều được hưởng BHXH.
Chính sách BHXH trong cơ chế cũ được coi là phù hợp với tình hình lúc
bấy giờ. Nhưng chuyển sang cơ chế thị trường với mục đích đưa nền kinh tế
thoát khỏi khủng hoảng, từng bước nâng cao đời sống của nguời lao động thì
mức hưởng các chế độ BHXH cũng phải được sửa đổi, đi đơi với nó là thay đổi
tỷ lệ đóng góp cho phù hợp. Địi hỏi ở đây là sự thay đổi đồng bộ về các vấn đề
khác nữa như lương, thời gian đóng BHXH...
2.2 Tình hình thu quỹ BHXH.
Theo NĐ 12/CP ngày 26/1/1995 quy định quỹ BHXH là một quỹ tài
chính độc lập nằm ngồi ngân sách Nhà nước, quỹ được hình thành trên cơ sở
có sự đóng góp của người lao động (5% tiền lương) và của người sử dụng lao

động (15% tổng quỹ tiền lương của đơn vị). Người lao động đóng 5% cho quỹ
BHXH để cho 2 chế độ là hưu trí và tử tuất. Người sử dụng lao động đóng 15%


quỹ lương trong đó có 10% cho các chế độ dài hạn và 5% cho các chế độ ngắn
hạn. Tham gia vào q trình hình thành quỹ BHXH cịn có Nhà nước. Nhà nước
tham gia vào quỹ với 2 tư cách: Với tư cách là người sử dụng lao động Nhà
nước trích từ ngân sách (15% quỹ lương) để nộp vào quỹ BHXH cho những
người hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, với tư cách là người quản lý xã hội
Nhà nước bảo trợ, hỗ trợ cho quỹ BHXH khi cần thiết. Một nguồn thu quan
trọng khác của quỹ BHXH là đầu tư sinh lời để tăng trưởng quỹ. Ngoài ra cịn
có một khoản thu đó là thu từ phần nộp phạt do chậm nộp BHXH của các đơn
vị, doanh nghiệp - nhằm tăng cường tính chặt chẽ và hiệu lực quản lý quỹ
BHXH. Các khoản thu khác như thu từ viện trợ, hỗ trợ... khoản nay không
nhiều và không ổn định.
Như vậy, trong cơ chế thị trường cơ cấu quỹ BHXH biểu hiện như sau :
Qbh = Đlđ + Đsdlđ + Đnn + Tsl + Tnp + Tk
Trong đó :
- Đlđ

: Khoản đóng góp 5% của người LĐ.

- Đsdlđ : Khoản đóng góp 15% của người SDLĐ.
- Đnn

: Khoản đóng góp hỗ trợ của Nhà nước.

- Tsl

: Khoản thu từ hoạt động đầu tư sinh lời


- Tnp

: Khoản thu từ phần nộp phạt của các đơn vị doanh nghiệp

- Tk

: Khoản thu khác của quỹ BHXH

Đối tượng thu BHXH là người sử dụng lao động và người lao động (kể cả
người LĐ được cử đi học tập, thực tập, điều dưỡng, cơng tác ở trong và ngồi
nước mà vẫn hưởng lương) làm việc trong các cơ quan, đơn vị tổ chức sau đây:
1. Các doanh nghiệp Nhà nước.
2. Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử
dụng từ 10 lao động trở lên.
3. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, KCX, KCN.
4. Các doanh nghiệp, tổ chức thuộc lực lượng vũ trang.
5. Các tổ chức, kinh doanh, dịch vụ thuộc đơn vị hành chính sự nghiệp,
cơ quan Đảng, đồn thể.
6. Các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt nam
(Trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt nam ký kết hoặc
tham gia có quy định khác).


7. Các đơn vị sự nghiệp góp thu bù chi, đơn vị hưởng thu bằng viện trợ
nước ngoài (kể cả viện trợ của tổ chức phi Chính phủ) để trả lương cho công
nhân viên chức trong đơn vị.
8. Các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan
Đảng, đoàn thể, hội quần chúng, dân cư từ Trung ương đến cấp huyện.
9. Các cơ quan đơn vị thuộc Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an và ban cơ yếu

của Chính phủ.
Cơ chế hình thành nguồn quỹ như trên đã làm rõ mối quan hệ trách
nhiệm, nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH và làm rõ mối quan hệ bên trong
BHXH. Đồng thời với cơ chế mới này quỹ BHXH từng bước được cân đối các
khoản thu - chi quỹ BHXH.
Thu BHXH là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu quyết định sự tồn tại và phát
triển của tổ chức BHXH Việt Nam. Do hiểu rõ được tầm quan trọng của công
tác thu BHXH nên BHXH Việt Nam đã có những phương hướng chính sách để
đảm bảo cho quyền lợi cho người lao động và đảm bảo an tồn cho các đối
tượng hưởng BHXH. Việc làm này có tác động đến người tham gia BHXH,
nhất là từ năm 1995 trở lại đây, nên việc thu BHXH đã được thực hiện đầy đủ
trong tất cả các đối tượng.
Trên tinh thần khắc phục khó khăn quyết tâm thực hiện kế hoạch được
giao BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã chủ động giao kế hoạch
thu, chi xuống cơ sở. Hệ thống BHXH tiến hành xây dựng một cách đồng bộ và
đầy đủ kế hoach thu - chi BHXH, tổ chức thực hiện các kế hoạch đó theo đúng
quy định Nhà nước đề ra, tiến hành kiểm tra kiểm soát các hoạt động BHXH
theo các văn bản pháp Luật Nhà nước đã ban hành. Riêng công tác thu và quản
lý thu, lần đầu tiên hoạt động BHXH đã được giao kế hoạch thu có căn cứ hợp
lý nên đã trở thành chỉ tiêu pháp lệnh đối với các cơ quan BHXH tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương. Qua hơn 5 năm hoạt động, công tác thu BHXH đã
đảm bảo được phương châm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời và đạt được kết quả
đáng khích lệ, tình hình thu BHXH một số năm như sau:
Bảng 7: Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH
(năm 1996 đến 2000)
(Đơn vị: tỷ đồng)


Năm


Số người

Kế hoạch

Thực hiện

tham gia

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

Tỷ lệ hoàn
thành kế
hoạch (%)

(1000 người)
1996

2821,4

1700

2569,7

151,15

1997

3126,4


2768

3445,6

124,47

1998

3228,1

3540

3875,9

109,48

1999

3744,1

3676

4188,3

113,91

2000

3812,7


5185

5215,2

100,6
(Nguồn vụ BHXH)

Số liệu trong bảng cho thấy số người tham gia BHXH bắt buộc đã tăng
qua các năm, cụ thể về số tuyệt đối năm 1996 số người tham gia BHXH là
2821,4 nghìn người nhưng đến năm 2000 đã là 3812,7 nghìn người tăng so với
năm 1996 là 991,3 nghìn người. Nguyên nhân là do cơ chế kinh tế mới thúc đẩy
số lao động tham gia vào sản xuất kinh doanh ở nhiều đơn vị doanh nghiệp, nên
làm cho số người tham gia BHXH tăng, năm 1998 số người tham gia đã giảm
mạnh xuống còn 2,08% so với năm 1997, nguyên nhân là do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế trong khu vực.
Số thu năm 1996 so với kế hoạch đã có khoảng vượt trội là 51,15% năm
1997 số thu BHXH đã có khoảng vượt trội là 24,47% năm 1998 là 9,48%- năm
này do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế trong khu vực, năm 1999 là 13,91%
và năm 2000 là 6 %.
Như vậy, số thu BHXH của mấy năm qua đã vượt kế hoạch đề ra, tỷ lệ
giữa số thu thực hiện và số thu theo kế hoạch
(Số thu thực hiện/ số thu theo kế hoach) > 100%
Thực tế nguồn thu của các năm qua không những đạt kế hoạch mà còn
vượt mức kế hoạch nên đă có tác động tốt đến chi BHXH. Nguyên nhân của
việc này là do: trước năm 1995 quỹ còn chịu sự quản lý của hai cơ quan nên đối
tượng tham gia thì ít mà cơng việc chi trả cho các đối tượng lại nhiều nên không
thể “Lấy thu bù chi” được vì nguồn thu q ít. Từ khi có Nghị định 19/CP ra
đời, quỹ BHXH đã được hạch toán độc lập với hai cơ quan nói trên. Từ đó đến
nay đã kịp thời đôn đốc các đơn vị sử dụng lao động, các đối tượng tham gia

BHXH nộp đủ và kịp thời vào quỹ BHXH làm cho quỹ BHXH ngày càng khẳng
định được vai trị, tầm quan trọng của mình.


Bên cạnh đó cịn có một số ngun nhân nữa như: Do hàng năm Bộ Tài
chính căn cứ vào số thực hiện của năm trước và tình hình mới để đưa ra số kế
hoạch năm sau để thu cho hợp lý hơn. Chẳng hạn nhìn vào các con số năm 1996
số thực hiện là 2569,7 tỷ và số kế hoạch của năm 1997 là 2768 tỷ đồng, năm
1998 số thực hiện là 3875,9 tỷ đồng và số kế hoạch của năm 1999 là 3676 tỷ
đồng. Như vậy, với số liệu kế hoạch hàng năm đưa ra cho thấy Bộ Tài chính đã
đưa ra số kế hoạch năm sau sát với năm trước, đây là những tính tốn hợp lý có
ý nghĩa tác động đến việc thực hiện công tác thu BHXH. Mặt khác công tác thu
BHXH đã được giao xuống tận BHXH cơ sở. Đạt được kết quả như vậy là do sự
cố gắng nỗ lực của công chức, viên chức trong toàn ngành, mà trước hết là
những người làm công tác thu; BHXH các tỉnh, thành phố đã kết hợp cơng tác
giải quyết chế độ chính sách BHXH với cơng tác thu. Vì vậy đã làm tăng thêm
ý thức trách nhiệm của các đơn vị sử dụng lao động trong việc thực hiện nghĩa
vụ đóng BHXH. Việc triển khai công tác cấp sổ BHXH đã tạo được niềm tin
cho người lao động, đã phát hiện kịp thời các trường hợp khai giảm số lao động
và quỹ lương của các đơn vị sử dụng lao động, tạo điều kiện truy thu một số
lượng lớn tiền đóng BHXH cịn nợ đọng. Đến nay người sử dụng lao động và
người lao động đã nhận thức được nguyên tắc có đúng BHXH mới được hưởng
quyền lợi BHXH và thực hiện đầy đủ.
Quỹ BHXH ngày càng khẳng định được tầm quan trọng của nó trong đời
sống của người lao động. Cụ thể những số liệu sau đây giúp chúng ta thấy rõ
hơn được tình hình thu BHXH qua các năm.


Bảng 8: Tình hình tăng thu BHXH
(1996 - 2000)

(Đơn vị : tỷ đồng)
Năm

Tổng thu

Trong đó

BHXH

Truy thu

Thực thu
trong năm

1996

2569,7

290

2279,7

1997

3445,6

250

1998


3875,9

1999
2000

Tăng so với năm trước
số tuyệt
đối

Số tương
đối (%)

3195,6

875,9

134,08

98

3777,9

430,3

112,48

4188,3

185


4003,3

312,4

108,06

5215,2

215

5000,2

1026,9

124,5

(Nguồn: Vụ BHXH)
Nhìn vào bảng số liệu, thấy số thu BHXH năm sau không ngừng tăng hơn
năm trước cả về số tuyệt đối và số tương đối. Cụ thể năm 1997 tăng so với năm
1996 là 875,9 tỷ tương ứng 34,08%; năm 1998 tăng so với 1997 là 430,3 tỷ
đồng tương ứng 12,48%; năm 1999 tăng so với năm 1998 là 312,4 tỷ tương ứng
8,06%; năm 2000 tăng so với năm 1999 là 1026,9 tương ứng 24,5% .
Như vậy việc thu BHXH không những vượt kết hoạch mà còn năm sau
tăng hơn năm trước đã tạo cho quỹ BHXH có tích luỹ sau khi đã chi trả cho các
đối tượng hưởng BHXH từ 1/1/1995 trở lại đây. Để thấy rõ hơn tình hình thu, ta
xem xét cơ cấu thu BHXH của các loại hình doanh nghiệp.


×