Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Thực trạng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với công nghiệp hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.1 KB, 26 trang )

Thực trạng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam
2.1. Thực trạng về đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI ở Việt Nam trong
thời gian qua (từ 1988 đến nay)
2.1.1. Quá trình hình thành và hoàn thiện chính sách đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn đầu tư nước ngoài hơn 20 năm qua,
đến nay có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực hiện nay, đầu tư
trực tiếp nước ngoài thực sự trở thành hình thức hợp tác kih tế rất hiệu quả
đối với các nước đang phát triển.
Nhìn lại 20 năm trước, trong bối cảnh quốc tế, chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu tan vỡ, các thể lực thù địch tìm mọi cách chống phá
Việt Nam trên nhiều mặt. Thế giới có những diễn biến phức tạp của tình
hình chính trị và an ninh quốc tế, sự phục hồi chậm của nền kinh tế thế giới
và biến động của trên thị trường quốc tế… Các nước đang phát triển ở khu
vực Đông Nam Á và Đông Á thực hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực
năng động của thế giới.
Tình hình trong nước: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hâu, bị tàn
phá nặng nền bởi chiến tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, sản
xuất nhỏ, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế lâm vào
tình trạng khủng hoảng trầm trọng, cơ sở kĩ thuật lạc hậu và thiếu thốn.
Với bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, để khôi phục và phát triển
kinh tế xã hội, Đảng ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công
cuộc đổi mới toàn diện, trong đó có việc hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư
năm 1977 thành Bộ luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã khẳng
định sự đúng đắn của chủ trương, đường lối mở cửa nền kinh tế của Đảng,
góp phần qan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới trong chặng
đường vừa qua.
Sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi
trương pháp lý cao hơn để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam. Luật này đã bổ sung và chi tiết hóa các lĩnh vực cần khuyến khích kêu


gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Mặc dù vậy luật này vẫn không
tránh khỏi một số khiếm khuyết, thiếu đồng bộ.
Để khắc phục những hạn chế đó, năm 1990 Việt Nam đã kịp thời sửa đổi
bổ sung Luật đầu tư nước ngoài theo hướng “khuyến khích và tạo thêm điều
kiện thuận lợi” cho các dự án đầu tư nước ngoài. Luật năm 1990 đã sửa đổi
bổ sung 15 trong số 42 điều của luật năm 1987.
1
1
Sau hơn một năm thực hiện, trước những đòi hỏi mới của yêu cầu phát
triển, việt Nam lại kịp thời (1992) đã bổ sung, sửa đổi luật đầu tư trực tiếp
nước ngoài so với Luật sửa đổi bổ sung lần thứ nhất, Luật sửa đổi bổ sung
lần thứ hai đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung có tính chất căn bản hơn. Đó
là đã mở ra các hình thức thu hút đầu tư và góp vốn đầu tư mới, đã đưa ra
các biện pháp mới để bảo vệ lợi ích của bên Việt nam và nhà nước Việt
nam.
Sau hai lần sửa đổi, bổ sung (1990, 1992) theo chiều hướng tích cực, cùng
với sự vận động sôi nổi của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế đã
tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và rất thuận lợi cho các dự án đầu tư và
kinh doanh.
Bắt đầu từ năm 1994, để hoàn chỉnh hệ thống luật pháp đồng bộ, một số
luật mới được ban hành, trong đó có môi trường đầu tư kih doanh được quy
định chặt chẽ hơn. Và đi cùng với hệ thống này, năm 1996 luật đầu tư nước
ngoài cũng được sửa đổi bổ sung. Tuy nhiên luật sửa đổi bổ sung lần này về
cơ bản theo hướng giảm bớt một số ưu đãi.
Những biến đổi này cùng với những quy định chặt chẽ hơn của một số
luật kinh tế khác đã làm giảm sút động lực kích thích các thành phần kih tế
tham gia đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước tình hình đó đòi hỏi
Việt Nam phải đổi mới hơn nữa cơ chế, chính sách cho phù hợp. Vì vậy,
ngày 09/06/2000, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua” Luật sửa đổi, bổ sung một số đièu của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt

Nam”. Các nội dung sửa đổi bổ sung của luật lần này đã thực sự mang lại
cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam một sự ổn định và
thônng thoáng hơn so với những quy định trước đây.
Nhằm cải thiện hơn nữa mội trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp
lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo “một sân
chơi” bình đẳng không phân biệt đối xử với các nhà đầu tư, đáp ứng yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường sự quản lý của nhà nước với các hoạt
động đầu tư. Năm 2005, Quốc hội đã ban hành Luật đầu tư có hiệu lực từ
ngày 01/07/2006 và thay thế Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích
đầu tư trong nước. sự thay đổi này thể hiện sự quan tâm của Đảng và nhà
nước ta đối với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, một bộ phận
quan trọng trong nền kinh tế. thực tế đã chứng minh việc ban hành Luật đầu
tư đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra những chuyển biến tích cực của
tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài và Việt Nam từ năm 2006 đến nay.
Như vậy, đến nay chúng đã đã có một hệ thống luật và các văn bản dưới
luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy chưa phải hoàn chỉnh nhưng đã đẩy
đủ hơn, có tác dụng khuyến khích hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài
cũng như các đối tác trong nước trong việc tham gia đầu tư. Những kế quả
2
2
đạt được trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua đã chứng
minh cho sự đúng đắn trong quá trình đổi mới các chính sách kinh tế trong
đó có chính sách đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2.1.2. Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam
2.1.2.1. Về tình hình cấp giây phép đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam
Sau năm 1975, nước ta đã ban hành những điều lệ quy định về đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam để điều tiết hoạt động của các dự án đầu tư chủ yếu
từ các nước xã hội chủ nghĩa như: Liên Xô, Trung quốc. Các dự án đầu tư
lúc bấy giờ dựa trên nền tảng hợp tác giúp đỡ Việt Nam khôi phục nền kinh

tế bị tàn phá sau chiến tranh
Cùng với chính sách đổi mới đất nước, tháng 12 năm 1987 Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam được ban hành và có hiệu lực. Tính đến hết tháng
12 năm 2009, cả nước có hơn 11407 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép
đầu tư với tổng số vốn khoảng 183 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Cụ thể
như sau:
Bảng I : Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép giai
đoạn 1988 đến nay
(Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư)
Qua bảng số liệu rút ra được một số nhận xét sau:
Trong 3 năm từ 1988 đến 1990, mới thực hiện Luật đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn ít
(214 dự án với tổng số vốn đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD). Đầu tư nước ngoài
chưa tác động đến tình hình kinhh tế xã hội của đất nước.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng lên ( 1409
dự án với tổng số vốn đăng ký cấp mơi 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực
đến tình hình kinh tế xã hội đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời
kỳ bùng nổ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (có thể coi như là làn
sóng đầu tư nước ngoài đầu tiên vào Việt Nam) với 1781 dự án được cấp
phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD.
Đây là gian đoạn mà môi trường đầu tư kinh doanh thấp so với một số nước
trong khu vực, sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ. Vì vậy, đầu tư
nước ngoài tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa với các thành phần
kinh tế khác và đóng góp tich cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội
của đất nước.
Nếu xét trong suốt cả thời kỳ 1998-2000 thì năm 1996 có thể được xem là
năm đỉnh cao về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam. Năm
1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2
3
3

tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8 tỷ USD vốn đăng ký (8494 triệu USD)
tăng 45% so với năm trước.
Từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu suy giảm
nhất là đến năm 1998, 1999. Trong 3 năm 1997-1999 có 931 dự án được cấp
phép với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 13 tỷ USD nhưng vốn đăng ký năm
sau it hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ
bằng 46,8% năm 1998). Chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ.
Đến năm 2000 tình hình đã có chuyển biến tốt hơn (đầu tư trực tiếp nước
ngoài có xu hướng tăng lên) nhưng số vốn đăng ký cũng đạt mức xấp xỉ năm
1992/ Cũng trong thời gian này nhiều dự án đầu tư nước ngoài được cấp
phép năm trước phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp phải
khó khăn về tài chính. Sự giảm sút này phần nào có thể do tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính khu vực đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để khắc phục tình hình trên, chính phủ đã xây dựng các chính sách mở
cửa đầu tư. Vì vậy hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài đã có chuyển biến rõ
nét. Điều này được thể hiện trong bảng sau
Bảng 2: Đầu tư nước ngoài được cấp phép giai đoạn 2001-2009
Đơn vị: Triệu USD
(Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư)
Qua hai bảng số liệu trên ta thấy: Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn
đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2012,4 tỷ USD tăng 28% so với năm 1999,
năm 2001 tăng18,2% so với năm 2000, năm 2002 vốn đăng ký giảm chỉ
bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 tăng 6% so với năm 2002. và có xu
hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm
trước năm 2005 tăng 50,8%, năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ
lục trong 20 năm qua: 21,3 tỷ USD tăng 71% so với năm 2006 và tăng gấp
đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ khủng hoảng. Năm 2008 như
đã nêu trên, đạt 64,2tỷ USD (tăng trên 3 lần so với năm 2007)
Như vậy trong 3 năm (2006-2008) vốn FDI đămg ký đã có nhiều bước

chuỷen biến mạnh mẽ mang tính đột biến. Tính chung cho cả 3 năm từ 2006-
2008, vốn đăng ký đạt 93,7 tỷ USD, vượt trên 72 % so với mục tiêu đề ra
cho giai đoạn 2006-2010. đồng thời trong 3 năm đó, vốn thực hiện đã tăng
đáng kể. Năm 2006, vốn thực hiện đạt 4,1 tỷ USD (tăng 24% so với năm
2005), năm 2007 đạt 8 tỷ USD (tăng gần gấp 2 lần năm 2006), năm 2008 ,
đạt 11,5 tỷ USD tăng 43,2 % so với năm 2007, đạt mức cao nhất trong sử
dụng vốn FDI hàng năm trong 20 năm thu hút FDI vào việt nam.
4
4
Với kết quả nêu trên trong vòng 3 năm 2006-2008 vốn FDI thực hiện đạt
23,6 tỷ USD bằng trên 92% mục tiêu đề ra cho 5 năm 2006-2010. Năm
2009, vốn FDI đăng ký giảm xuống chỉ bằng 33,5 % so với năm 2008.
Nguyen nhân do suy thoái kinh tế và những khủng hoảng tài chính trên toàn
cầu đã ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào Việt nam trong năm 2009. mặc
dù mức độ thu hút FDI của Việt nam có giảm nhưng so với các nước trong
khu vực thì tìh hình thu hut FDI của chúng ta vẫn rất tốt.
Về quy mô dự án: ta thấy qua các thời kỳ, quy mô dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài có sự biến động, thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan
tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Quy
mô vốn đầu tư bình quân một dự án tăng dần qua các giai đoạn tuy có “trầm
lắng ”trong một vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997. Thời
kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự
án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký của một dự án đạt 11,6 triệu USD
trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng ên 13,2 triệu USD/dự án trong năm năm
1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép
trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong năm năm trước. tuy nhiên quy
mô vốn đăng ký trên giảm xuống 5 triệu USD/dự án trong thời ký năm
2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn
trên có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007 quy mô vố đầu tư
chung là bình quân 1 dự án đều ở mức 14,4 triệu USD cho thấy số dự án có

quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước. Đièu này thể hiện trong năm
2008 quy mô vốn bình quân một dự án là 60 triệu USD/ dự án và năm 2009
là 25,6 triệu USD.
Như vậy với kết quả đạt được như trên đã đưa việt nam trỏ thành nước
đứng vị trí thứ năm ở khu vực Đông nam Á, 11 ở Châu á và đứng thứ 34 thế
giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Qua đó ta thấy được vai trò quan
trọng của nguồn vốn này cùng với vai trò quyết địh của các nguồn vốn trong
nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đât nước.
2.1.2.2. Tình hình tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất ( 1988-2007)
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt
động có hiệu quả đã mở rrộng quy mô sản xuất kinh doanh, tăng thêm vốn
đầu tư, nhât là từ năm 2001 trở lại đây.
Tính đến hết năm 2007 có gần 4100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng
số vốn tăng thêm 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đăng ký mới.
Thời kì 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có, số lượng doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài còn it. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ usd
trong năm năm 1991-1995 thì giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so
với năm năm trước. giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ
USD vượt 18% so với dự kiến là 6 tỷ USD tăng 69% so với 5 năm trước.
5
5
trong đó lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt quá con số 1tỷ USD bắt đầu từ
năm 2002 và từ năm 2004 đến năm 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt tren 2
tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất
công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995,
65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3 % trong thòi kỳ 2001-2005.
Trong hai gian đoạn năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1%
tổng số vốn tăng thêm. Năm 2009 có 213 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với
tổng số vốn tăng thêm là 5,09 tỷ USD bằng 98,3% so với năm 2008.

Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu á (59%) nên trong số vốn
tăng thêm , vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu á cũng chiếm tỷ trọng cao
nhất 66,8% trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000,
đạt khoảng 70,3% trong thời kỳ 20001-2005. trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ
tương ứng là 72% và 80%
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng
kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995,
đạt 68,1% trong thời kỳ 1996 -200 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005.
Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng
điểm phía bắc có tỷ lệ tương ứng là: 36,7%; 20,4%; 21,1%; 24% và 20%
Qua khảo sát của tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật bản- JETRO tại Việt
nam có trên 70% doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài được điều tra có
kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt nam. Điều này chứng tỏ sự tin
tưởng và an tâm của nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường đầu tư kinh
doanh tại Việt Nam.
2.1.2.3. Về các đối tác được cấp phép đầu tư
Thực hiện phương châm của Đảng và chính phủ “đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ hợp tác…Việt nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực
và thế giới…”được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật đầu tư nươc ngoài,
qua 20 năm đã csi 82 quốc ga và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng
số vốn đăng ký trên 83 tỷ USD trong đó các nước châu á chiếm 69%, châu
âu chiếm 24% và khối ASEAN chiếm 19 %, các nước châu mỹ chiếm 5%
riêng mỹ chiếm 3,6%. Tuy nhiên nếu tính cả đầu tư của các chi nháh tại
nước thú 3 của nhà đầu tư Mỹ thì vốn đầu tư của Mỹ tại việt nam sẽ đạt trên
3tỷ USD, đựng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu
tư tại Việt Nam . ví dụ tập đoàn Indel không đầu tư thẳng từ mỹ vào việt
nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước châu úc là
Newzeland và Australia chỉ chiếm 1% tổng số vốn.
6

6
Hiện đã có 15 quốc gia và vùng llãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên
1 tỷ USD tại việt nam theo thứ tự sau:
Bảng 3: Các nước có tổng số vốn đăng ký hơn 1tỷ USD
Nguồn: Cục đâu tư nước ngoài- Bộ kế hoạch và đầu tư
Theo bảng trên ta thấy, nước đứng đầu là Hàn Quốc với 1857 dự án, vốn
đăng ký là 14,3 tỷ USD, đứng thứ 2 là Singapo với 549 dự án, vốn đăng ky
là 11,5 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan với 1801 dự án, vốn đăng ký là 10,7 tỷ
USD(đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3.07 tỷ USD), thứ 4
là Nhật Bản với 934 dự án, vốn đăng ký là 9,1 tỷ USD. Nhưng nếu tính về
vốn thực hiện thì Nhật bản đứng đầu với giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp
theo là Singapo với 3,8 tỷ USD, Hàn quốc đứng thứ 4 với 2,7 tỷ.
Và chỉ với 15 nước (bằng 18,2 % sô nước) đã chiếm tới 93,9% tổng số
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam (Hàn quốc: 18,5 %; Singapo:
14,22%; Đài loan: 13,84%; Nhật Bản: 11,81%; British Virgrin Islands:
10,02%...)
Trong tổng số vốn đầu tư của 15 nước này thì có tới 74,07% (57613 triệu
USD) là của các nước châu á, điều này chứn tỏ môi trường đầu tư của Việt
nam hiện nay đang thu hút được sự qan tâm của các nhà đầu tư chấu á. Và
trình độ, điều kiện khả năng của các nhà đầu tư Châu á cũng đang phù hợp
với điều kiện và yêu cấu phát triển của Việt Nam trong thời gian qua. Do vậy
đee thu hút được nhiều hơn nữa vốn FDI vào việt nam từ các nước có tiềm
năng kinh tế thuộc châu âu và châu mỹ, việc xây dựng và triển khai chiến
lược thu hút vốn FDI từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc các châu lục
này càng trở lên cấp thiết.
2.1.2.4. Hình thức đầu tư
Ngay ở thời kỳ đầu, liên doanh là hình thức phổ biến nhất của đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại việt nam. Năm 2000, hình thức này chiếm tới khoảng
40% dự án và 59% vốn đăng ký (1035 dự án còn hiệu lực với khảng 21,5 tỷ
USD vốn đăng ký). Sở dĩ như vậy là do thời kỳ đầu, các thủ tục để triển khai

thực hiện dự án còn đòi hởi nhiều giấy tờ, và phải thông quan nhiều khâu
nhiều nấc và rất phức tạp, trong khi đó người nước ngòi còn ít hiểu biết về
các điều kiện kinh tế xã hội và pháp luật của Việt Nam, họ thường gặp nhiều
khó khăn trong giao dịch, quan hệ cùng một lúc khá nhiều cơ quan chức
năng Việt Nam để có đầy đủ điều kiện triển khai xây dựng cơ bản cũng như
tổ chức thực hiện dự án. Trong hoàn cảnh nhưvậy, đa số các nhà đầu tư thích
lựa chọn hình thức liên doanh để bên đối tác là Việt Namd dứng ra lo các thủ
tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả hơn.
7
7
Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu tư ở việt am, nhà đầu
tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư châu á có điều kiện hiểu biết hơn
về pháp luật, chính sách, phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh
doanh ở Việt Nam. Sự am hiểu của các nhà đầu tư được nâng lên trong điều
kiện các thủ tục cấp phép của Việt Nam từng bước được cải tiến theo hướng
ngày càng đơn giản hơn trước và cùng với sự xuất hiện của những tổ chức tư
vấn giúp các nhà đầu tư tổ chức thựchiện các thủ tục, tổ chức sản xuất kinh
doanh có hiệu quả. Vì vậy, nhu cầu có đối tác Việt nam để tiến hành thủ tục
đối với nhà đầu tư nước ngoài đã giảm đi nhiều. do đó số dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt nam theo hình thực doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài đang ngày càng có xu hương gia tăng cả tuyệt đối lẫn tươngđối. nếu
thời kỳ đầu chỉ có gần 10% dự án và vốn đăng ký hoạt động theo hình thức
này thì đến hết năm 2007 có6743 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng
ky là 52,4 tỷ USD, chiếm khoảng 77,9% về số dự án và 61,6% số vốn đăng
kí. Năm 2009 có 657 dự án với tổng số vốn đăng ký là 13,7 tỷ USD chiếm
78,3% về số dự án và 64% tổng số vốn đăng ký. Theo hình thức liên doanh
có 1640 dự án với tổng số vốn đăng ký là 25,5tỷ USD, chiếm 18,6% về số
dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký(đên hết năm 2007). Con số tương ứng
theo hình thức khác năm 2009 là 19,18% và 7,47%
Theo hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh có 226 dự án với tổng vốn

đăng ký 4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5 % tổng vốn đăng ký. Số
còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Có thể so sánh tỷ trọng
dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nươc ngoài tính đến hêt năm 2004
là 39,9% theo hình thức liên doanh là 40,6%, và theo hình thức hợp doanh là
19,5% để thâyd được 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư lựa chọn
nhiều hơn.
2.1.2.5. Về địa bàn đầu tư
Với mong muốn thu hút hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần
làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng nên chính phủ ta đã có những
chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào nhưng vùng co
điều kiênk kinh tế xã hội khó khăn, miền núi, vùng sâu vùng xa. Tuy vậy
cho đến nay vốn đầu tư nước ngoài vẫn được đầu tư tập trung chủ yếu vào
những khu vực có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh
tế xã hội. vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các vùng lãnh thổ của Việt
Nam được thể hiện như sau:
Vùng trọng điểm phía bắc có 2220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên
24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký và 24% tổng vốn
thực hiện của cả nước. trong đó thì Hà nội đứng đầu với 987 dự án với tổng
vốn đăng ký là 12,4 tỷ USD chiếm 51% tổng vốn đăng ký và 50% vốn thực
hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải phòng với 268 dự án với tổng vốn đăng
8
8
ký 2,6 tỷ USD, Vĩnh phúc 140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ uSD, Hải
dương 271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD.,hà tây 74 dự án với tổng
vốn đăng ký 1,5 tỷ USD, Bắc ninh 106 dự án với tổng vốn đăng ký o,93 tỷ
USD và Quảng Ninh 94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 ty USD
Vùng trọng điểm phía nam thu hút 5293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87
tỷ USD chiếm 54 % tổng vốn đăng ký, trong đó thành phố Hồ chí minh dẫn
đầu ca nước (2398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 Tỷ USD) chiếm 36,9%
tổng vốn đăng ký của vùng. Tiếp theo là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn

đăng ký 11,6 tỷ USD) chiếm 25,95 vốn đăng ký của vùng, Bình dương
(1570 dự án với tổng vốn đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký
của vùng. Bà rịa- vũng tàu (159 dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ) chiếm
13,6%, Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% .
Điều này minh chứng cho việc triển khai thực hiện nghị quyết 9/2001/NQCP
ngày 28/08/2001 của chính phủ và chỉ thị 19/2001/CP-TTG ngày 28/082001
của chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu qua đầu tư nước ngoài
thời kỳ 2001-2005
Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng
ký 8,6 tỷ USD qua hơn 20 năm thực hiện Luật đầu tư , chiếm 6% với tổng
vốn đăng ký của cả nướcm trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng
ký 1,9 tỷ USd) Đà NẴng (113 dự an với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD),
Quảng Nam ( 15 dự án với tổng vốn đăng ký 1,1 tỷ USD) đẫ có nhiều tiến
bộ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư vào các khu du lịch, trung
tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hut vốn đầu tư nước ngoài còn khiêm
tốn như Vùng Đông bắc và Tây bắc, trong đó tuy Lâm đồng (93 dự an với
tổng vốn đăng ký 318,4 triệu USd) đứng đầu các tỉnh khu vực tây nguyên
nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án.
Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn thấp hơn so
với các vùng khác, chiếm 3,6% vê số dự án và 4,4 % về vốn đăng ký và
3,2% vốn thực hiện của cả nước.
Nnhư vậy các thành phố lơn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộc
các vùng kinh tế trọng điểm phía bắc và nam vẫn là những địa phương dẫn
đầu thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó 5 địa phươn dẫn đầu theo thứ tự:
+ Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 27,6% về số dự án và 20 % tổng vốn
đăng ký
+ Hà Nội chiếm 11,6 % về số dự án và 14,9% tổng vốn đăng ký
+ Đồng nai chiếm 10,5 % về số dự án và 13,7% tổng vốn đăng ký
+ Bình dương chiếm 18,2% về số dự án và 13,7% tổng vốn đăng ký

+ Bà rịa- Vũng tàu chiếm 1,8% về số dự án và 7,2% tổng vốn đăng ký
9
9
Qua số liệu trên cho ta thấy mức độ chênh lệch của các vùng về thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài là tương đối lớn. tuy nhà nước đã có chính sách
ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều kiện địa lý, kinh tế khó khăn nhưng
việc thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ phát triển kinh tế tại các địa bàn này
rất thấp. như vậy đây cũng là một trong nhưng vấn đề rất cần được chú ý
điều chỉnh hoạt động của chúng ta trong thời gian tới.
2.1.2.6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam phân theo ngành
kinh tế
Nhận xét trên bình diện tổng thể, ta thấy cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam thời gian qua đã có sự chuyển biến tích cực ơhù hợp
với yêu cầu chuyển dịch cơ câu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nếu ở thời kỳ đầu, các dự án đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào lĩnh
vực khách sạn, văng phòng cho thuê… thì thời gian từ 1995, 1996 đến nay
các dự án tập trung vao lĩnh vực sản xuất vật chất nhiều hơn. Tính cả thời ky
1988-2008, các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất
cả về số dự án lân vốn đầu tư, tiếp theo là lĩnh vực khách sạn, du lịch và các
dịch vụ, ngành nông lâm ngư nghiệp có số dự án thấp hơn. Cụ thể như sau:
Bảng 4: cơ cấu vốn FDI tại Việt Nam từ 1988-2008 phân chia theo
ngành kinh tế(chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy cơ cấu vốn FDI phân theo ngành kih tế có
sự thay đổi:
Cơ cấu đầu tư có chuyến biến tích cực theo hương tăng tỷ trọng đầu tư
vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin. Tính đến ngày
22/10/2008 (chỉ tính các dự án còn hiệu lực) lĩnh vưc công nghiệp và xây
dựng có tỷ trọng lớn nhất với 6340 dự án , tổng vốn đăng ký hơn 84 triệu
USD, chiếm 65,5% về số dự án, 58,7% về tổng vốn đăng ký và 57,5% vốn
thực hiện.

Trong lĩnh vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực, đáp ứng ngày càng
tốt hơn như cầu sản xuất, tiêu dùng và đời ssống nhân dân, góp phần đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế trong khu vực dịch vụ,đầu tư trực tiếp nước ngoài
chủ yếu tập trung vào kinh doanh bất động sản, bao gồm xây dựng nhà ở,
văn , phòng, phát triển các khu đô thịmơi, kinh doanh hạ tầng khu công
nghiệp (lĩnh vực dịch vụ chiếm 24,4% số dự án, 37,9% số vốn đăng ký và
38% vốn thực hiện)
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp đã
được chú ý trong ngay từ khi có luật đầu tư nước ngoài năm 1987. tuy nhiên
đến nay do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao
trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút đầu tư vào lĩnh vực này chưa đạt kết
10
10

×