Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.4 KB, 30 trang )

Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Ngân hàng
thương mại
1.1. Ngân hàng thương mại trong hoạt động ngoại thương
1.1.1. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Mô hình hệ thống mà các nước trên Thế giới hiện nay đang duy trì là hệ
thống ngân hàng hai cấp : ngân hàng trung ương có nhiệm vụ phát hành tiền và
quản lý các NHTM, còn hệ thống các NHTM thực hiện kinh doanh như một
doanh nghiệp với nguyên liệu đặc biệt là “tiền tệ”. Hệ thống ngân hàng Việt
Nam cũng không nằm ngoài qui luật trên. Đứng đầu là Ngân hàng nhà nước
Việt Nam, có chức năng phát hành tiền và đưa ra chính sách quản lý vĩ mô đối
với toàn hệ thống ngân hàng. Sau đó là hệ thống các NHTM gồm có NHTM đô
thị, NHTM nông thôn, NHTM cổ phần, NHTM liên doanh và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một tổ chức kinh tế hoạt động kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chủ yếu và nhận tiền gửi của khách
hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư, thực
hiện các nghiệp vụ thanh toán và các nghiệp vụ trung gian khác nhằm thu lợi
nhuận tối đa trên cơ sở đảm bảo khả năng thanh toán. Ngày nay các hoạt động
cơ bản của NHTM không chỉ dừng lại ở các hoạt động nhận tiền gửi, hoạt động
tín dụng đầu tư, hoạt động thanh toán nữa mà đã mở rộng thêm nhiều nghiệp vụ
mới phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế và nhu cầu của khách hàng
như : cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp, cho vay đi du học nước ngoài, cho
thuê tài chính, cho vay đầu tư chứng khoán ... và rất nhiều các hoạt động khác
1.1.2. Ngân hàng thương mại với hoạt động xuất nhập khẩu
Xuất nhập khẩu (XNK) là hoạt động trao đổi hàng hóa giữa các nước với
các nước khác thông qua hoạt động mua bán vượt ra khỏi phạm vi biên giới của
một nước . Nếu như hoạt động xuất khẩu là hoạt động khai thác triệt để lợi thế
so sánh của mỗi quốc gia , đạt quy mô tối đa cho ngành sản xuất, tạo điều kiện
xây dựng các ngành kinh tế mũi nhọn, nầng cao năng xuất lao động và hạ giá
thành sản phẩm, thúc đẩy các nhân tố phát triển theo chiều sâu thì hoạt động
xuất nhập khẩu lại tạo cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế


giới thành nơi cung cấp các yếu tố đầu vào và tiêu thụ các yếu tố đầu ra cho nền
kinh tế quốc dân trong hệ thống kinh tế quốc tế. Hoạt động XNK phần nào giải
quyết được mâu thuẫn giữa quy mô sản xuất với ranh giới có hạn của thị trường
nội địa, giữa tốc độ phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật với khả năng có hạn
về sức lao động và trình độ của thị trường nội địa.Trong điều kiện hội nhập và
phát triển kinh tế thế giới, tăng cường và mở rộng quan hệ XNK sẽ thúc đẩy sự
tăng trưởng và tạo sự cân đối cho nền kinh tế trong nước
Ngày nay chiến lược kinh tế đối ngoại của nhiều nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam, là sản xuất thay nhập khẩu và sản xuất hướng tới xuất
khẩu. Để đáp ứng nhu cầu này đòi hỏi các NHTM tham gia vào hoạt động ngoại
thương với chức năng tài trợ ngoại thương thể hiện ở các loại hình dịch vụ như:
cung cấp các khoản bảo lãnh hoặc tín dụng, trung gian thanh toán, tư vấn, quản
lý rủi ro tín dụng, cung cấp các phương thức đảm bảo cho khả năng thanh toán.
Do mỗi nước có hệ thống tiền tệ riêng, năng lực tài chính của người mua và
người bán ở mỗi nước có đặc điểm riêng, ngoài ra còn hạn chế về ngôn ngữ,
môi trường văn hóa, phong tục tập quán, môi trường pháp lý của các quốc gia
khác nhau…nên dịch vụ thanh toán quốc tế của NHTM ra đời làm cho quá trình
thanh toán diễn ra suôn sẻ và thuận lợi hơn
1.2. Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế
1.2.1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế (TTQT) là một hoạt động chi trả bằng tiền (ngoại tệ
thoả thuận) liên quan tới hàng hoá, dịch vụ, tư bản của cá nhân, tổ chức, chính
phủ nước này đối với đối tác của mình trên thế giới bằng các hình thức chuyển
tiền hoặc bù trừ trên các tài khoản tại ngân hàng
Sự ra đời của hoạt động TTQT như một tất yếu khách quan trong quá
trình phát triển của nền kinh tế Thế giới. Các quan hệ TTQT được chia làm ba
loại bao gồm thanh toán mậu dịch, thanh toán phi mậu dịch và thanh toán nợ cũ.
TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ là một hình thức của thanh toán mậu
dịch, một hình thức thanh toán phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu.

Hiện nay, trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam (NHCTVN),
TTQT được hiểu là quá trình thực hiện các nghiệp vụ như: chuyển tiền, thanh
toán thẻ, nhờ thu, thanh toán L/C và các nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế khác
bằng ngoại tệ trong nội bộ hệ thống NHCTVN, giữa NHCT với các tổ chức tài
chính khác ở trong và ngoài nước thông qua mạng IBS (hệ thống nghiệp vụ
ngân hàng quốc tế của NHCTVN), mạng SWIFT (mạng tài chính viễn thông
liên ngân hàng toàn cầu) hoặc các hệ thống khác
1.2.1.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế
a. Đối với hoạt động kinh tế đối ngoại
Thanh toán quốc tế (TTQT) là khâu then chốt, khâu cuối cùng để khép
kín một chu trình mua bán hàng hoá hoặc trao đổi dịch vụ giữa các tổ chức, cá
nhân thuộc các quốc gia khác nhau trên toàn Thế giới.
TTQT là cầu nối trong mối quan hệ kinh tế đối ngoại, có thể nói nếu
không có hoạt động TTQT thì không có hoạt động kinh tế đối ngoại. TTQT thúc
đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển. Vì vậy, việc tổ chức TTQT được tiến
hành nhanh chóng, chính xác sẽ làm cho các nhà sản xuất yên tâm và đẩy mạnh
hoạt động XNK của mình, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát
triển, đặc biệt là hoạt động ngoại thương.
Đồng thời, hoạt động TTQT góp phần hạn chế rủi ro trong quá trình thực
hiện hợp đồng ngoại thương. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, do vị trí địa lý
của các đối tác thường là xa nhau nên việc tìm hiểu các khả năng tài chính, khả
năng thanh toán của người mua gặp nhiều khó khăn. Nếu tổ chức tốt công tác
TTQT thì sẽ giúp cho các nhà kinh doanh hàng hoá XNK hạn chế được rủi ro,
giảm bớt chi phí trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại, nhờ đó
thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.
Vì thế, có thể nói rằng kinh tế đối ngoại có mở rộng được hay không một
phần nhờ vào hoạt động TTQT có tốt hay không. TTQT tốt sẽ đẩy mạnh hoạt
động xuất nhập khẩu, qua đó phát triển sản xuất trong nước, khuyến khích các
doanh nghiệp mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hang hóa.
b. Đối với hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại

Đối với hoạt động của Ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động
TTQT mà nhất là hình thức tín dụng chứng từ có vị trí đặc biệt quan trọng. Nó
không chỉ thuần tuý là dịch vụ mà còn được coi là một hoạt động không thể
thiếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
+ Trước hết, hoạt động TTQT tế giúp Ngân hàng thu hút thêm được
khách hàng có nhu cầu giao dịch quốc tế. Trên cơ sở đó, Ngân hàng phát triển
thêm quy mô, tăng thêm nguồn thu nhập, tăng khả năng cạnh tranh trong cơ chế
thị trường.
+ Thứ hai, thông qua hoạt động TTQT, Ngân hàng có thể đẩy mạnh hoạt
động tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng được nguồn vốn huy động tạm thời
do quản lý được nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân có quan hệ TTQT
với Ngân hàng.
+ Thứ ba, TTQT sẽ giúp Ngân hàng thu được một nguồn ngoại tệ lớn từ
đó tạo tiền đề cho Ngân hàng có thể phát triển tốt các nghiệp vụ kinh doanh
ngoại hối, bảo lãnh và nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế khác.
+ Thứ tư, hoạt động TTQT giúp Ngân hàng tăng tính thanh khoản thông
qua lượng tiền ký quỹ. Mức ký quỹ phụ thuộc vào độ tin cậy, an toàn của từng
khách hàng cụ thể. Tuy nhiên xét về tổng thể thì các khoản ký quỹ này phát sinh
một cách thường xuyên và ổn định.Vì vậy trong thời gian chờ đợi thanh toán,
Ngân hàng có thể sử dụng các khoản này để hỗ trợ thanh khoản khi cần thiết,
thậm chí có thể sử dụng để kinh doanh, đầu tư ngắn hạn để kiếm lời.
+ Ngoài ra, hoạt động TTQT còn giúp Ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu
cầu của khách hàng trên cơ sở nâng cao uy tín của Ngân hàng.
Tóm lại, trong xu thế ngày nay hoạt động TTQT có vai trò hết sức quan
trọng trong hoạt động ngân hàng nói riêng và hoạt động kinh tế đối ngoại nói
chung. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trang để có biện pháp thực hiện nghiệp vụ
TTQT có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm phục vụ tốt hơn cho công cuộc
CNH_HĐH, đổi mới nền kinh tế Đất nước.
1.2.2. Các điều kiện trong thanh toán quốc tế
Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến

quyền lợi và nghĩa vụ mà đôi bên phải đề ra để giải quyết và thực hiện được quy
định lại thành những điều kiện gọi là: Điều kiện thanh toán quốc tế.
Mặt khác, nghiệp vụ TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT.
Những điều kiện này được thể hiện ra trong các điều khoản thanh toán của các
hiệp định thương mại, các hiệp định trả tiền giữa các nước, của các hợp đồng
mua bán ngoại thương ký kết giữa người mua và người bán.
Các điều kiện thanh toán quốc tế bao gồm : Điều kiện tiền tệ, điều kiện
về địa điểm, điều kiện về thời gian, điều kiện về phương thức thanh toán.
a. Điều kiện về tiền tệ
Trong TTQT các bên tham gia phải sử dụng đơn vị tiền tệ nhất định của
một nước nào đó. Vì vậy, trong các hiệp định và hợp đồng đều có quy định tiền
tệ. Điều kiện này quy định việc sử dụng đồng tiền nào để thanh toán trong hợp
đồng ngoại thương và hiệp định ký kết giữa các nước. Đồng thời điều kiện này
cũng quy định cách xử lý khi giá trị đồng tiền đó biến động. Người ta thường
chia thành hai loại tiền sau:
+ Đồng tiền tính toán (Account Currency): Là loại tiền được dùng để thể
hiện giá cả và tính toán tổng giá trị hợp đồng.
+ Đồng tiền thanh toán (Payment Currency): Là loại tiền để chi trả nợ
nần, hợp đồng mua bán ngoại thương. Đồng tiền thanh toán có thể là đồng tiền
của nước nhập khẩu, của nước xuất khẩu hoặc có thể là đồng tiền quy định
thanh toán của nước thứ 3.
b. Điều kiện về địa điểm thanh toán:
+ Địa điểm thanh toán được quy định rõ trong hợp đồng ký kết giữa các
bên. Địa điểm thanh toán có thể là nước nhập khẩu hoặc nước người xuất khẩu
hay có thể là một nước thứ 3.
+ Tuy nhiên, trong TTQT giữa các nước, bên nào cũng muốn trả tiền tại
nước mình, lấy nước mình làm địa điểm thanh toán. Sở dĩ như vậy vì thanh toán
tại nước mình thì có nhiều điểm thuận lợi hơn.Ví dụ như có thể đến gần thời
hạn thanh toán mới phải chi tiền, vì thế đỡ đọng vốn nếu là người nhập khẩu,
hoặc có thể thu tiền về nhanh nên luân chuyển vốn nhanh nếu là người xuất

khẩu, qua đó có thể tạo điều kiện nâng cao được địa vị của thị trường tiền tệ
nước mình trên Thế giới
+ Trong thực tế, việc xác định địa điểm thanh toán là sự so sánh lực
lượng giữa hai bên quyết định, đồng thời còn thấy rằng dùng đồng tiền của nước
nào thì địa điểm thanh toán là nước ấy
c. Điều kiền về thời gian thanh toán :
Điều kiện thời gian thanh toán có quan hệ chặt chẽ với việc luân chuyển
vốn, lợi tức, khả năng có thể tránh được những biến động về tiền tệ thanh toán.
Do đó, nó là vấn đề quan trọng và thường xẩy ra tranh chấp giữa các bên trong
đàm phán ký kết hợp đồng.
Thông thường có 3 cách quy định về thời gian thanh toán:
+ Trả tiền trước là việc bên nhập khẩu trả cho bên xuất khẩu toàn bộ hay
một phần tiền hàng sau khi hai bên ký kết hợp đồng hoặc sau khi bên xuất khẩu
chấp nhận đơn đặt hàng của bên nhập khẩu.
+ Trả tiền ngay là việc người nhập khẩu trả tiền sau khi người xuất khẩu
hoàn thành nghĩa vụ giao hàng trên phương tiện vận tải tại nơi quy định hoặc
sau khi người nhập khẩu nhận được hàng tại nơi quy định.
+ Trả tiền sau là việc người nhập khẩu trả tiền cho người xuất khẩu sau
một khoảng thời gian nhất định kể từ khi giao hàng.
d. Điều kiện về phương thức thanh toán:
Điều kiện về phương thức thanh toán là cách thức nhận trả tiền hàng trong
từng món giao dịch, mua bán giữa người mua và người bán. Trong quan hệ mua
bán quốc tế có nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền hoặc để trả
tiền như: chuyển tiền, nhờ thu, thư tín dụng...
Có thể nói rằng TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT.
Trong các điều kiện trên, phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất.
Phương thức thanh toán là người bán dùng cách nào để thu tiền về, người mua
dùng cách nào để trả tiền. Trong quan hệ mua bán, người ta có thể chọn nhiều
phương thức khác nhau để thu tiền hoặc trả tiền, nhưng xét cho cùng việc lựa
chọn phương thức thanh toán nào cũng xuất phát từ yêu cầu của người bán là

thu tiền đầy đủ và đúng hạn, người mua là nhận hàng đúng số lượng, chất lượng
và đúng hạn.
1.2.3. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu
Có rất nhiều phương thức thanh toán quốc tế nhưng hiện nay có ba
phương thức được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới cũng như ở Việt Nam là:
chuyển tiền, nhờ thu và tín dụng chứng từ. Việc lựa chọn sử dụng phương thức
nào tùy theo mức độ tin cậy giữa các đối tác
1.2.3.1. Phương thức thanh toán chuyển tiền
a. Khái niệm:
Phương thức thanh toán chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản
nhất trong đó một khách hàng (người trả tiền, người mua, nhà nhập khẩu) yêu
cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người thụ hưởng
ở một địa điểm xác định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
Nhà nhập khẩu có thể lựa chọn một trong hai hình thức chuyển tiền là
chuyển tiền bằng thư (Mail transfer-M/T) hoặc chuyển tiền bằng điện
(Telegraphic transfer – T/T). Ngày nay, phương thức chuyển tiền T/T được sử
dụng nhiều hơn do thời gian nhanh hơn nhiều mặc dù chi phí chuyển tiền M/T
thấp hơn.
b. Nhận xét
+ Trong phương thức này, Ngân hàng chỉ là trung gian thanh toán theo
ủy nhiệm để hưởng phí hoa hồng và về cơ bản không chịu ràng buộc gì
thêm.
+ Việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người mua, do vậy nếu dùng
phương thức này thì quyền lợi của người bán không được đảm bảo.
+ Rủi ro xảy ra với người mua trong trường hợp người mua áp dụng
thanh toán trả tiền trước cho người bán mà không nhận được hàng theo
đúng hợp đồng.
+ Rủi ro xảy ra với người bán khi người mua nhận hàng rồi nhưng không
thanh toán tiền, hoặc từ chối thanh toán khi không muốn nhận hàng.
Do có nhiều rủi ro khi áp dụng phương thức này nên nó ít được sử dụng.

Người ta chỉ áp dụng phương thưc này khi thanh toán các khoản tương đối nhỏ
(như thanh toán chi phí xuất nhập khẩu, vận chuyển, bảo hiểm, bồi thường thiệt
hại hoặc dùng trong thanh toán phi mậu dịch…) hoặc thanh toán giữa công ty
mẹ với công ty con, giữa các đối tác có quan hệ buôn bán lâu năm, biết rõ và có
sự tin cậy lẫn nhau.
1.2.3.2. Phương thức ghi sổ
a. Khái niệm
Phương thức ghi sổ (phương thức mở tài khoản) là phương thức TTQT
mà trong đó người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người
mua sau khi người bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hay dịch vụ. Việc
thanh toán các khoản nợ này được thực hiện theo định kỳ (tháng, quí, nửa
năm..)
Đây là hình thức cấp tín dụng thương mại của nhà xuất khẩu cho nhà
nhập khẩu. Ưu điểm là phương thức rất thuận lợi nếu người mua có tín nhiệm
thanh toán với người bán. Bên mua sẽ được sử dụng hàng hóa thường xuyên,
thậm chí cả lúc chưa đủ tiền còn người bán sẽ tiêu thụ được hàng hóa và giữ
được thị trường truyền thống.
Nhược điểm của phương thức này là quyền lợi của người xuất khẩu
không được bảo đảm còn người nhập khẩu phải mua hàng với giá cao.
Cũng giống như phương thức chuyển tiền, phương thức này chỉ áp dụng
với những đối tác có quan hệ lâu dài, tin cậy lẫn nhau như:
+ Thanh toán nội địa
+ Dùng cho phương thức hàng đổi hàng, nhiều lần, thường xuyên trong
một thời kì nhất định (6 tháng hoặc 1 năm)
+ Thanh toán tiền cước phí vận tải, tiền phí bảo hiểm, tiền hoa hồng
trong nghiệp vụ môi giới, ủy thác, tiền lãi cho vay và đầu tư.
1.2.3.3. Phương thức thanh toán nhờ thu
a. Khái niệm
Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán mà nhà xuất
khẩu sau khi giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ nào đó cho nhà nhập khẩu sẽ tiến

hành ủy thác cho Ngân hàng phục vụ thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu hoặc các
chứng từ do nhà xuất khẩu lập.
b. Có hai hình thức nhờ thu
+ Nhờ thu trơn (Clean Collection)
Bộ chứng từ hàng hóa sẽ được gửi thẳng đến người mua, không qua Ngân
hàng. Người bán ủy thác cho Ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua
căn cứ vào hối phiếu do chính người bán lập ra. Phương thức này không được
áp dụng nhiều do mức độ rủi ro lớn, vì việc nhận hàng của người bán hoàn toàn
độc lập với việc thanh toán. Cả người mua và người bán đều chịu rủi ro. Người
mua chịu rủi ro khi hối phiếu đến trước chứng từ hàng hóa, họ phải thanh toán
ngay mà không được đảm bảo sẽ nhận hàng đúng chất lượng, qui cách và mẫu
mã. Người bán gặp rủi ro khi người mua nhận hàng nhưng chây ỳ không thanh
toán, chiếm dụng vốn của người bán.
+ Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection)
Khác với nhờ thu trơn, trong trường hợp này bộ chứng từ hàng hóa được
người bán gửi đến ngân hàng nhận ủy thác thu. Ngân hàng này tiến hành thu hộ
tiền ở người mua không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng
từ hàng hóa với điều kiện người mua phải thanh toán ngay hoặc chấp nhận trả
tiền (nếu là hối phiếu có kì hạn) thì mới được nhận bộ chứng từ để nhận hàng.
Phương thức này đảm bảo an toàn cho người bán hơn vì họ đã nhờ Ngân
hàng khống chế bộ chứng từ. Tuy vậy, người bán vẫn phải đối mặt với rủi ro khi
người mua thay đổi ý định hoặc khi tình hình kinh doanh sa sút, người mua
không nhận hàng và không chịu thanh toán. Rủi ro mà người bán không nhận
được tiền là do NHTM trong trường hợp này chỉ đóng vai trò trung gian thu tiền
hộ và nhận trách nhiệm giữ chứng từ, ngoài ra không chịu trách nhiệm gì khác.
1.2.3.4. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
a. Khái niệm
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận mà trong đó Ngân
hàng (Ngân hàng phát hành) đáp ứng nhu cầu của khách hàng (người xin mở
L/C - Nhà nhập khẩu) cam kết hay cho phép Ngân hàng khác chi trả hoặc chấp

nhận những yêu cầu của người hưởng lợi khi những điều kiện qui định trong thư
tín dụng được thực hiện đúng và đầy đủ.
Phương thức L/C là một phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng
rộng rãi nhất và ưu việt hơn cả trong TTQT, chiếm khoảng 70 % giá trị thanh
toán. Lý do là nó đảm bảo quyền lợi một cách tương đối cho cả người mua và
người bán.
b. Nhận xét
- Ưu điểm của phương thức L/C
+ Đối với nhà nhập khẩu:
Chắc chắn nhà xuất khẩu phải đáp ứng các qui định của L/C, người mua
chỉ phải thanh toán khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và
điều khoản của LC để nhận hàng. Người mua được sự trợ giúp của ngân hàng
trong việc bảo đảm các điều kiện của LC được tuân thủ, dễ dàng được ngân
hàng tài trợ vốn, được các điều khoản UCP500 bảo vệ.
+ Đối với nhà xuất khẩu
Được bảo đảm thanh toán khi tuân thủ các điều khoản và điều kiện của
L/C ngay cả khi nhà nhập khẩu cố tình không thanh toán và nhận được thanh
toán nhanh nhất. Được Ngân hàng giúp đỡ và tư vấn, giảm thiểu được các rủi
ro. Ngoài ra, người bán có thể sử dụng L/C như là một phương thức tài trợ cho
xuất khẩu như: chiết khấu bộ chứng từ, bán bộ chứng từ cho ngân hàng hay vay
vốn ngân hàng bằng thế chấp bộ chứng từ…
+ Đối với ngân hàng
Khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng cũng thu được lợi ích khá lớn từ
các khoản thu phí dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng tín dụng, bảo lãnh quốc tế
kinh doanh ngoại tệ
- Nhược điểm của phương thức L/C
Nhược điểm lớn nhất của phương thức L/C là phải thanh toán theo một
qui trình tỉ mỉ, máy móc, đòi hỏi các bên phải tiến hành cẩn thận, nhất là khâu
lập và kiểm tra chứng từ. Chỉ cần một sơ xuất nhỏ cũng trở thành nguyên nhân
bác bỏ việc thanh toán.

Ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ nên buộc phải thanh toán bất
kể hàng hóa tốt hay xấu, rủi ro thuộc về phía người mua. Nếu người bán cố ý
lập một bộ chứng từ hàng hóa giả tạo nhưng hoàn hảo theo các điều kiện và
điều khoản của L/C thì ngân hàng vẫn sẽ phải thanh toán cho người bán và rủi
ro sẽ thuộc về người mua do họ đã chọn nhầm đối tác lừa đảo.
Ngoài ra, Ngân hàng còn bị ràng buộc bởi trách nhiệm của mình đối với
người mua và người bán với tư cách là một thành viên tham gia vào phương
thức này.
Tín dụng chứng từ là một kỹ thuật thanh toán chắc chắn nhưng nặng nề.
Chi phí cho người nhập khẩu tương đối tốn kém. Mặt khác, thủ tục hành chính
nghiêm ngặt đôi khi gây khó khăn cho người xuất khẩu trong quá trình lập
chứng từ.
Sau khi phân tích những lợi ích và bất lợi của các phương thức thanh toán
quốc tế nói chung và của phương thức L/C nói riêng, ta thấy phương thức L/C
là ưu việt hơn cả bởi nó đã dung hòa, cân bằng quyền lợi và nghĩa vụ của các
bên tham gia hợp đồng mua bán ngoại thương. Nghĩa vụ và trách nhiệm được
đan xen, ràng buộc lẫn nhau tạo nên một sự đảm bảo và chắc chắn hơn cả cho
việc thanh toán tiền hàng, nâng cao quyền bình đẳng trong quan hệ thanh toán
giữa người mua và người bán. Hơn nữa, trong phương thức L/C các Ngân hàng
tham gia không chỉ đơn thuần là trung gian thanh toán mà chính là thành viên
thực sự của quá trình thanh toán, cam kết trả tiền thay cho người bán thay cho
người mua. Vì vậy đôi khi Ngân hàng cũng phải chịu những rủi ro trong quá
trình thực hiện nghiệp vụ này.
1.2.4. Những rủi ro thường gặp trong thanh toán quốc tế
a. Khái niệm rủi ro trong thanh toán quốc tế
Rủi ro trong TTQT là những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện
TTQT liên quan đến các giao dịch quốc tế, nguyên nhân phát sinh từ quan hệ
giữa các bên tham gia TTQT như: nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, các Ngân
hàng, tổ chức, tác nhân trung gian…hoặc do những yếu tố khách quan khác gây
ra như thiên tai, chiến tranh, chính trị…

Rủi ro trong TTQT cũng giống như rủi ro trong giao dịch thương mại
trong nước, nhưng khoảng cách về địa lý, những khác biệt về văn hóa, luật
pháp…làm tăng thêm khó khăn liên quan đến giao dịch quốc tế.
b. Phân loại rủi ro
Để đánh giá được rủi ro và đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm phòng
ngừa và hạn chế, chúng ta có thể phân loại rủi ro theo những nguyên nhân phát
sinh ra nó.
+ Rủi ro thương mại
Loại rủi ro này hiện diện trong tất cả giao dịch giữa các thương gia. Rủi
ro này xảy ra với nhà xuất khẩu khi gặp phải những khuyết tật trong khâu thanh
toán, khi con nợ rơi vào tình trạng suy yếu tài chính hay gặp những rắc rối vì
qui định pháp lý. Còn đối với nhà nhập khẩu thì rủi ro xảy ra khi vi phạm các
điều khoản của hợp đồng thương mại như: thời hạn gửi hàng, số lượng hàng,

×