Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở XÍ NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.18 KB, 28 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở XÍ NGHIỆP 22 –
CÔNG TY 22, TCHC - BQP
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÍ NGHIỆP 22
1. Quá trình hình thành và phát triển
Xí nghiệp 22 nằm trên quốc lộ 5 thuộc địa phận thị trấn Sài Đồng, huyện
Gia Lâm, thành phố Hà Nội, là một xí nghiệp chế biến thực phẩm thuộc ngành
hậu cần quân đội, được ra đời ngày 22 /12 /1970 do yêu cầu phục vụ chiến
đấu trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Trong những ngày đầu thành lập Xí nghiệp có tên là ” Xưởng chế biến thực
phẩm 22 ” gọi tắt là Xưởng 22, đặt dưới sự chỉ đạo và chỉ huy trực tiếp của
Tổng kho 205 - Tổng cục hậu cần. Với nhiệm vụ trọng tâm là sản xuất các sản
phẩm khô / sơ chế : Lương khô, cơm sấy, thịt ướp, mắm cô hành quân K50, bột
cháo, nước quả ép… để cung cấp cho bộ đội ở khắp các chiến trường.
Bước sang năm 1973 sau khi hiệp định Paris được kí kết quân đội Mĩ rút
hoàn toàn ra khỏi Miền nam Việt nam, theo quyết định số 375 từ nay Tổng kho
205 không trực tiếp quản lý Xưởng 22 nữa mà Xưởng sẽ trở thành một đơn vị
sản xuất độc lập có tên là ” Xí nghiệp chế biến thực phẩm 22 ” được gọi tắt là Xí
nghiệp 22 do Cục quân nhu trực tiếp chỉ đạo và chỉ huy.
Đến năm 1980, Cục quân nhu được tách ra làm hai cục: Cục quân lương và
Cục quân trang. Xí nghiệp 22 được Cục quân lương trực tiếp chỉ đạo và chỉ huy.
Bước sang năm 1987, khi tình hình biên giới có phần dịu đi, bộ đội làm
nghĩa vụ quốc tế cũng lần lượt trở về tổ quốc thì đó cũng là lúc số lượng và cơ
cấu hàng quốc phòng giảm mạnh. Đây là hiện tượng bình thường đối với một
xí nghiệp quốc phòng khi đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình song
đây là giai đoạn rất khó khăn đối với Xí nghiệp. Đồng thời đây cũng là năm
đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng về đường lối đổi mới tư duy
kinh tế. Được sự đồng ý của Lãnh đạo tổng cục, ngoài những mặt hàng thuộc
diện trên giao, cấp trên cho phép Xí nghiệp được bán một số sản phẩm ra thị
trường, được tự do tham gia liên doanh, liên kết hoặc nhận gia công cho một
số đơn vị kinh tế khác có nhu cầu. Như vậy từ đây, sản phẩm của Xí nghiệp sẽ
gồm 2 loại:


Thứ nhất : Sản phẩm quốc phòng được sản xuất theo kế hoạch năm / kế
hoạch dài hạn của Bộ quốc phòng.
Thứ hai : Sản phẩm kinh tế được sản xuất theo nhu cầu của thị trường.
Trên tinh thần Nghị định 15CP của Chính phủ – ngày 4 / 8 / 1993 Bộ
trưởng Bộ quốc phòng đã quyết định thành lập lại Xí nghiệp 22, cùng với quyết
định giao vốn Xí nghiệp cũng được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
Điều này sẽ tạo điều kiện cho Xí nghiệp có đầy đủ tư cách pháp nhân và tự chủ
hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy từ nay Xí nghiệp 22 vừa tồn
tại với tư cách là một doanh nghiệp Nhà nước vừa tồn tại với tư cách là một xí
nghiệp quốc phòng được tự do sản xuất kinh doanh theo pháp luật của Nhà
nước và các qui định của Bộ quốc phòng.
Theo Quyết định số 568 QĐ - QP ngày 24 /4 /1996 Xí nghiệp 22 được đổi
tên thành Công ty 22. Trên tinh thần Nghị định 338 / HĐBT ngày 20/11/1991
và Quyết định số 78-QĐ16 ngày 11/ 5 /1996 Xí nghiệp 24 được sáp nhập vào
Công ty 22. Như vậy từ nay Công ty 22 sẽ gồm có hai xí nghiệp thành viên là Xí
nghiệp 22 và Xí nghiệp 24.
Trong đội hình Công ty 22, Xí nghiệp 22 luôn khẳng định được vị trí và sức
mạnh của mình. Năm 1997 làm ăn còn chệch choạc do cơ chế chưa phù hợp,
nhưng từ năm 1998 trở lại đây Xí nghiệp liên tục làm ăn có hiệu quả bảo đảm
lãi năm sau cao hơn năm trước, những sản phẩm do Xí nghiệp sản xuất ra
được Bộ quốc phòng đánh giá cao và thị trường chấp nhận.
Hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành đó là chặng đường tuy chưa phải là
dài, nhưng đối với Xí nghiệp đó là khoảng thời gian quan trọng để Xí nghiệp
vươn lên tự khẳng định mình và lớn mạnh về mọi mặt.
2.Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban, phân
xưởng
Xí nghiệp 22 tổ chức bộ máy quản lý của mình theo mô hình trực tuyến
chức năng. Với mô hình tổ này, người lãnh đạo Xí nghiệp là người chịu trách
nhiệm về mọi mặt hoạt động, có toàn quyền quyết định mọi vấn đề trong phạm
vi Xí nghiệp. Các phòng ban chức năng có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc,

nhưng không có quyền ra lệnh cho người thừa hành ở các đơn vị cấp dưới, mối
quan hệ giữa các phòng ban là mối quan hệ ngang cấp. Dưới đây là mô hình tổ
chức quản lý của Xí nghiệp 22
Mô hình tổ chức quản lý của Xí nghiệp 22
Giám đốc
PGĐ Chính trị
PGD KD - KT
P. T i chínhàP. H nh chínhà P. Kinh doanh
P. Kĩ Thuật
Nh à ăn caTổ bảo vệ
Phân xưởng DV Phân xưởng 2 PX cơ điện
Phân xưởng 1
Giám đốc : là người lãnh đạo cao nhất, trực tiếp điều hành toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp, là người vạch ra kế hoạch năm và kế
hoạch dài hạn trên cơ sở định hướng / chiến lược kinh doanh do Công ty đề ra.
Giám đốc là người có quyền quyết định cuối cùng và cũng là người đại diện
cho mọi quyền lợi và trách nhiệm của Xí nghiệp trước Công ty, trước pháp luật
của Nhà nước và các qui định của Bộ quốc phòng.
Phó giám đốc chính trị : Là người trực tiếp chỉ đạo các hoạt động liên quan
đến công tác Đảng, công tác chính trị, là người bảo đảm cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của Xí nghiệp theo đúng pháp luật của Nhà nước và các qui
định của Bộ quốc phòng. Đồng thời Phó giám đốc chính trị cũng là người kiêm
nhiệm tham mưu cho Giám đốc công tác lao động tiền lương và các vấn đề liên
quan đến chế độ chính sách cho người lao động.
Phó giám đốc kinh doanh kĩ thuật : Là người tham mưu cho Giám đốc xây
dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh ngắn hạn / dài hạn, là người phụ trách
và chỉ đạo công tác tạo nguồn, mua sắm vật tư và thiết bị, điều độ sản xuất, dự
trữ sản phẩm… Đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm về công tác kĩ thuật
của Xí nghiệp trong việc triển khai phổ biến công nghệ và qui trình kĩ thuật cho
cán bộ công nhân viên, kiểm tra chỉ đạo công tác đánh giá chất lượng nguyên,

nhiên, vật liệu đầu vào và chất lượng sản phẩm đầu ra, công bố định mức kinh
tế kĩ thuật…
Phòng tài chính : Là nơi thực hiện công tác hạch toán kế toán toàn Xí
nghiệp theo chế độ hạch toán của Nhà nước, có nhiệm vụ quản lý, phân phối và
sử dụng mọi nguồn vốn theo nguyên tắc bảo đảm vốn phục vụ cho sản xuất
kinh doanh có hiệu quả, thực hiện các chính sách, chế độ và kỉ luật tài chính,
chế độ thu nộp ngân sách Nhà nước và Bộ quốc phòng.
Phòng kinh doanh : Là trung tâm điều phối mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của Xí nghiệp từ : nghiên cứu thị trường; bảo đảm nguyên nhiên vật liệu
đầu vào cho sản xuất; ban hành lệnh sản xuất tới từng phân xưởng sản xuất và
đôn đốc thực hiện; tổ chức công tác vận chuyển, bốc xếp nguyên nhiên vật liệu
vào kho và lên phương tiện vận chuyển đối với sản phẩm đem tiêu thụ; trực
tiếp bán sản phẩm cho khách hàng, tổ chức và thực hiện các hoạt động yểm trợ
và xúc tiến bán hàng…
Phòng hành chính : Là nơi quản lý và tiếp nhận các loại công văn đi và đến,
tổ chức tiếp khách / hội nghị, giải quyết tiêu chuẩn quân trang cho chiến sĩ và
quần áo bảo hộ cho người lao động.
Phòng kĩ thuật : Là nơi trực tiếp kiểm tra đánh giá chất lượng nguyên vật
liệu đầu vào và chất lượng sản phẩm đầu ra, thiết kế các sản phẩm mới, xây
dựng các định mức kinh tế kĩ thuật, tổ chức và trực tiếp tham gia đào tạo /
đào tạo lại cho cán bộ công nhân viên nhằm nâng cao tay nghề cho người lao
động…
Nhà ăn ca : là nơi tổ chức các bữa ăn giữa ca cho toàn thể cán bộ công
nhân viên.
Tổ bảo vệ : Có nhiệm vụ phòng chống cháy nổ, ngăn ngừa phòng chống tội
pham, bảo đảm an ninh và trật tự trong toàn Xí nghiệp.
Phân xưởng 1 : Có nhiệm vụ sản xuất bánh qui Hương thảo 500g, lương
khô hàng kinh tế…
Phân xưởng 2 : Có nhiệm vụ sản xuất bánh qui Hương thảo 300g, lương
khô hàng quốc phòng…

Phân xưởng Dịch vụ : là nơi có nhiệm vụ sản xuất bia, rượu và tổ chức bán
sản phẩm của Xí nghiệp tại cửa hàng giới thiệu sản phẩm.
Phân xưởng cơ điện : Có nhiệm vụ sản xuất một số hàng quốc phòng : Xe
đạp tiếp phẩm, bàn ăn mặt Inox K99…ngoài ra phân xưởng còn có nhiệm vụ
cung cấp điện máy nổ cho các phân xưởng và khu tập thể của cán bộ công
nhân viên khi mất điện lưới quốc gia, sản xuất nước phụ vụ cho sản xuất, tham
gia sửa chữa, bảo dưỡng, lắp đặt máy móc thiết bị khi cần thiết…
3. Điều kiện kinh doanh của Xí nghiệp
* Cơ sở vật chất kĩ thuật
Hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành có quá nửa thời gian Xí nghiệp đã
dành toàn bộ năng lực sản xuất của mình cho nhiệm vụ sản xuất các sản phẩm
phục vụ sức chiến đấu của bộ đội ở khắp các chiến trường. Vì thế cho đến nay,
cơ sở vật chất của Xí nghiệp vẫn còn tồn tại những máy móc, dây truyền thiết
bị sản xuất và phục vụ sản xuất có từ những ngày đầu thành lập nên thông số
kĩ thuật không còn bảo đảm nữa. Chính vì vậy, sản phẩm sản xuất ra có kiểu
dáng chưa đẹp, độ đồng đều chưa cao, chất lượng không ổn định.
Là một doanh nghiệp sản xuất nên máy móc, dây truyền thiết bị, công nghệ
sản xuất và phục vụ sản xuất có tầm quan trọng đặc biệt, nó quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của Xí nghiệp khi tham gia kinh doanh trên thương
trường. Nhận thức được sâu sắc điều này, trong thời gian qua được sự đồng ý
của Lãnh đạo Tổng cục và Giám đốc Công ty Xí nghiệp đã mạnh dạn đầu tư
mua mới một số dây truyền thiết bị và xây dựng mới / sửa chữa / nâng cấp cơ
sở hạ tầng như : Nhà xưởng, nhà kho, hệ thống thông gió, đường sá… Năm
1993, Xí nghiệp đầu tư mua mới một dây truyền sản xuất kẹo của Trung quốc,
năm 1996 Xí nghiệp đầu tư một dây truyền sản xuất bánh bích qui của Italy,
công nghệ sản xuất của Anh, năm 1998 cùng một lúc Xí nghiệp đầu tư hai dây
truyền một dây truyền sản xuất bột canh và dây truyền sản xuất bia hơi đều do
trong nước sản xuất. Nhờ đó đến nay sản phẩm do Xí nghiệp sản xuất ra đã
phong phú và đa dạng hơn, năng suất và chất lượng được nâng cao phần nào
đã thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng.

Do yêu cầu đổi mới và tăng trưởng thường xuyên nên trong thời gian tới Xí
nghiệp đã có kế hoạch mua thêm một dây truyền sản xuất bánh bích qui nữa
của các nước EU, nhằm nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các loại hình sản
phẩm để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng một cách tốt nhất.
* Lao động
Theo Kenichi Ohmae, trong ba yếu tố cơ bản : con người, vốn liếng và tài
sản thì con người là yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của bất kì một doanh nghiệp nào. Chính con người với năng lực thật sự
của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng các sức mạnh khác mà họ
đã và sẽ có : vốn, tài sản, kĩ thuật, công nghệ,.. một cách có hiệu quả để khai
thác và vượt qua cơ hội. Nhận thức được sâu sắc điều này, trong thời gian qua
Xí nghiệp đã chủ động phát triển sức mạnh của con người về mọi mặt thông
qua chiến lược con người và phát triển nguồn nhân lực. Dưới đây sẽ là đôi nét
về nguồn nhân lực của Xí nghiệp 22.
Biểu 2 : Tình hình quân số và thu nhập của Xí nghiệp 22
Năm Tổng số
CBCNV
(người)
Lao
động nữ
(người)
Lao
động
biên chế
(người)
Lao
động hợp
đồng
(người)
Lao

động
HĐNH
(người)
Thu nhập
bình quân
tháng (đồng)
1999
2000
2001
387
430
456
220
252
270
226
227
227
161
203
229
30
62
55
866.520
1.084.555
1.205.150
Nguồn:Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh năm 1999, 2000, 2001.
Qua biểu trên có thể nhận thấy:
Qui mô lao động có xu hướng tăng dần qua các năm, năm 2000 tăng so với

năm 1999 là 43 người (430 - 387) tức là tăng 11,11% và năm 2001 tăng so với
năm 2000 là 26 người (6,05%), điều này cho thấy qui mô sản xuất của doanh
nghiệp không ngừng được mở rộng. Trong lực lượng lao động của Xí nghiệp
do tính chất đặc thù của sản phẩm, đòi hỏi phải có sự khéo léo kiên trì của phụ
nữ nên lao động nữ chiếm một tỉ lệ cao hơn so với nam giới. Năm 1999 lao
động nữ chiếm 56,85%, năm 2000 chiếm 58,60% và năm 2001 là 59,21%, có
nghĩa trong thời gian qua lực lượng lao động nữ được Xí nghiệp tuyển dụng
nhiều hơn so với nam giới.
Về công tác tổ chức lao động, nếu như trước Quyết định 217 / HĐBT Xí
nghiệp chỉ áp dụng hình thức lao động biên chế và chỉ tiêu biên chế do ngành
qui định, thì nay Xí nghiệp đã chuyển sang chế độ hợp đồng lao động. Do đó,
lực lượng lao động biên chế của Xí nghiệp hầu như không tăng mà chỉ có lao
động hợp đồng tăng lên mà thôi, trong lao động hợp đồng thì có hai loại : lao
động hợp đồng ngắn hạn và lao động hợp đồng dài hạn, trong đó lực lượng lao
động hợp đồng ngắn hạn năm 1999 chỉ chiếm 18,63% trên tổng số lao động
hợp đồng nhưng đến năm 2000 chiếm 30,54% và năm 2001 là 24,02% điều
này cho thấy tốc độ tăng của qui mô sản xuất và tiêu thụ năm 2000 lớn hơn
năm 2001 đặc biệt là năm 1999.
Nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả nên mức thu nhập bình
quân người / tháng của Xí nghiệp 22 không ngừng được tăng lên, năm 2000
tăng so với năm 1999 là 218.305 đồng (25,20%) và năm 2001 so với năm 2000
tăng 120.595 đồng (11,12%). Lương được tính theo khối lượng công việc và hệ
số đối với công nhân sản xuất trực tiếp và tính theo cấp bậc và bằng cấp đối
với cán bộ quản lý sản xuất ở phân xưởng và cán bộ, nhân viên ở các phòng
ban.
Bên cạnh tốc độ tăng của thu nhập và qui mô lao động thì chất lượng lao
động trong thời gian qua cũng được nâng cao. Số người có trình độ đại học,
cao đẳng, trung học và đào tạo nghề…cũng được tăng lên đáng kể qua các
năm. Hàng năm Xí nghiệp thường xuyên mở các lớp đào tạo mới và đào tạo lại
cho cán bộ công nhân viên do các nhân viên phòng kĩ thuật có trình độ và kinh

nghiệm kết hợp với các giảng viên của một số trường đại học ở Hà nội: Đại học
bách khoa, Học viện hành chính quốc gia…trực tiếp giảng dạy. Sau khoá học có
tổ chức kiểm tra và cấp chứng chỉ, năm 2001 có 46 người được đào tạo nghề
và 66 người được đào tạo lại. Còn đối với một số cán bộ công nhân viên có nhu
cầu tham gia các khoá học đào tạo bên ngoài doanh nghiệp thì cũng được Xí
nghiệp trợ cấp một phần học phí.
Nhờ có chiến lược con người và phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, trong
thời gian qua Xí nghiệp đã thu hút và tạo dựng được cho mình một lực lượng
lao động hùng hậu có trình độ nghiệp vụ, có khả năng phân tích và sáng tạo, có
tính kỉ luật và đoàn kết tốt, yêu nghề, trung thành và hết lòng vì Xí nghiệp. Đây
chính là điều kiện tiền đề giúp cho Xí nghiệp phát triển và lớn mạnh về mọi
mặt trong thời gian tới.
II.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở XÍ NGHIỆP 22
1. Đặc điểm về sản phẩm của Xí nghiệp
Xí nghiệp 22 là một doanh nghiệp vừa tồn tại với tư cách là một xí nghiệp
quốc phòng, vừa tồn tại với tư cách là một doanh nghiệp Nhà nước. Nên sản
phẩm do Xí nghiệp sản xuất ra gồm hai loại chính:
Thứ nhất : Sản phẩm quốc phòng bao gồm Lương khô bay, lương khô BB
794… được sản xuất theo kế hoạch năm / kế hoạch dài hạn của Bộ quốc phòng.
Đối với nhóm sản phẩm này, Xí nghiệp được tự do khai thác nguồn cung ứng
nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất, nhưng lại có sẵn nơi tiêu thụ cho
sản phẩm đầu ra. Vì thế sản phẩm sản xuất ra đến đâu đều tiêu thụ hết đến đó.
Thứ hai : Sản phẩm kinh tế bao gồm Bánh bơ xốp hộp các loại, bột canh,
kẹo, bánh trung thu… được sản xuất theo nhu cầu của thị trường. Đây là nhóm
sản phẩm mà Xí nghiệp phải tự mình vận động để tìm kiếm nguồn cung ứng
yếu tố vật chất đầu vào cũng như thị trường để tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Vì
vậy, công tác tiêu thụ sản phẩm đối với sản phẩm ở nhóm hai hoàn toàn khác
so với nhóm một, nó đòi hỏi phải có sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ công
nhân viên trong việc hướng tới thực hiện mục tiêu thoả mãn tốt nhu cầu của
khách hàng thông qua đó doanh nghiệp sẽ tìm kiếm lợi nhuận. Dưới đây sẽ là

những qui cách và chủng loại của một số sản phẩm chính do Xí nghiệp 22 sản
xuất ra.
Qua bảng 3, ta nhận thấy cơ cấu mặt hàng quốc phòng chiếm một tỉ lệ nhỏ
so với tổng số lượng mặt hàng mà Xí nghiệp sản xuất ra. Sở dĩ có hiện tượng
này là do đất nước đã chuyển từ thời chiến sang thời bình đã lâu, tình hình
chính trị xã hội tương đối ổn định nên cơ cấu hàng quốc phòng giảm mạnh là
điều có thể giải thích được.
Biểu 3 : Qui cách và chủng loại của một số sản phẩm chính
Tên sản phẩm Trọnglượng
1gói (g)
1 Thùng
Số gói Trọng lượng
(kg)
A.Sản phẩm quốc phòng
1.Bàn ăn mặt inox K99
2.Bàn pha thái
3.Lương khô BB 974
4.Lương khô bay
5.Xe đạp tiếp phẩm
250
360
40
26
10
9,3
B.Sản phẩm kinh tế
I.Bánh bích qui các loại
1.Hương thảo 500g
2.Hương thảo 300g
3.Hươngthảo300g (có

khay)
4.Bánh qui 22
5.Vừng vòng
6.Sam pa
7.Bánh qui bơ 150g
8.Bánh qui bơ 300g
9.Bánh bơ xốp 300g
10.Bánh bơ xốp 400g
11.Bánh bơ xốp 450g
12.Bánh blend
13.Bánh qui dứa
14.Bánh qui vừng
15.Bánh qui hương trái cây…
II. Lương khô
1.Lương khô quân nhu
2.Lương khô Ka cao
3.Lương khô đậu xanh
4.Lương khô quân đội
5.Bánh ép
III. Các loại khác
500
300
300
200
200
400
150
300
300
400

450
400
250
300
180
200
200
200
200
200
30
20
30
50
50
24
48
30
30
24
24
24
30
30
50
50
50
50
50
50

9
10
9
10
10
8,4
7,2
9
9
9,6
10,8
9,6
7,5
9
9
10
10
10
10
10
Nguồn:Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh 1999, 2000, 2001.
Quan sát bảng trên ta có thể nhận thấy sản phẩm của Xí nghiệp được chia
ra làm ba loại:
Thứ nhất: Bánh bích qui các loại, đây là nhóm sản phẩm được Xí nghiệp
sản xuất quanh năm có khối lượng tiêu thụ và sản xuất là lớn nhất. Trong đó
phải kể đến hai mặt hàng Hương thảo 300g và Hương thảo 500g, đây là hai
mặt hàng có nhu cầu rất lớn nhưng công suất máy không theo kịp với nhu cầu
nên sản phẩm sản xuất ra đến đâu đều tiêu thụ hết đến đó, chính vì thế đây là
hai sản phẩm bán chạy nhất Xí nghiệp. Còn các loại bánh khác mặc dù có chất
lượng cao, kiểu dáng khá đẹp, lại được bao gói trong các hộp giấy / sắt… rất

độc đáo nhưng khối lượng sản xuất và tiêu thụ chưa cao bởi vì phần lớn các
sản phẩm này đều là các sản phẩm mới đưa ra thị trường song giá cả lại
tương đối cao, phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp sản xuất
bánh kẹo trong nước : Kinh đô, Vinabico, Hải châu, Hữu nghị…cũng như những
sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài.
Thứ hai : Lương khô các loại, đây cũng là nhóm sản phẩm được Xí nghiệp
sản xuất quanh năm, có khối lượng tiêu thụ đứng thứ hai. Mặc dù lương khô
được coi là sản phẩm truyền thống của Xí nghiệp được sản xuất từ những
ngày đầu thành lập, nhưng vài năm trở lại đây nó mới được phép bán ra thị
trường nên khối lượng sản xuất và tiêu thụ chưa xứng với tiềm năng. Đến nay,
Xí nghiệp đã đưa ra thị trường được 5 loại lương khô, các phong lương khô
được đóng theo thỏi có trọng lượng 200g / phong.
Thứ ba : Các loại khác, đây là nhóm sản phẩm có nhiều chủng loại khác
nhau, nhưng chúng đều có một điểm chung là khối lượng sản xuất và tiêu thụ
không nhiều. Các sản phẩm thuộc nhóm này bao gồm:
+ Sản phẩm mới đưa ra thị trường : Kẹo cam, kẹo dâu, kẹo cốm, kẹo cà phê
có trong lượng 250g cho mỗi gói, kẹo hương trái cây có khối lượng 750g / gói.

×