Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM MÁY MÓC TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.66 KB, 31 trang )

TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM MÁY MĨC TẠI
CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI
I. VÀI NÉT VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA BẢO
HIỂM MÁY MĨC.
Như đã nói ở trên, ngành kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam chỉ thực sự
bắt đầu vào năm 1965 khi Nhà nước ra quyết định 179/CP ngày 17/12/64 của
Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập cơng ty bảo hiểm đầu tiên ở Việt Nam
vào ngày 15/01/65 dưới tên giao dịch là Bảo Việt. Như vậy so với lịch sử phát
triển của ngành tài chính nước ta thì bảo hiểm ra đời muộn hơn hết nhưng sau
hơn 30 năm hoạt động, Bảo Việt đã phát triển và lớn mạnh khơng ngừng,
đóng góp một phần đáng kể vào sự phát triển của xã hội và đem lại sự an tâm
lớn cho những người tham gia.
Để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm ngày càng lớn mạnh, năm 1981 công ty
bảo hiểm Việt Nam đã cho thành lập thêm các chi nhánh ở các Tỉnh, địa
phương. Hoạt động của các chi nhánh này không những giúp Bảo Việt triển
khai bảo hiểm trên cả nước mà cịn hình thành một mạng lưới đảm bảo an
tồn tài chính cho những người tham gia. Một trong những chi nhánh luôn
dẫn đầu trong việc hoàn thành và vượt mức kế hoạch phải kể đến chi nhánh
Bảo hiểm Hà Nội, nay là Công ty bảo hiểm Hà Nội (Bảo Việt Hà Nội - BVHN).
Được thành lập ngày 17/11/1980 theo quyết định số 1125/BTC của Bộ
tài chính với phạm vi kinh doanh trong địa bàn Hà Nội, ban đầu chi nhánh bảo
hiểm Hà Nội chỉ được coi là một bộ phận nhỏ của công ty BHVN và dưới sự
điều hành tổ chức của công ty. cùng với sự phát triển khơng ngừng của cả
nước nói chung và thủ đơ Hà Nội nói riêng, chi nhánh Hà Nội ngày càng mở
rộng phạm vi hoạt động, số nghiệp vụ tăng dần, doanh thu và lợi nhuận ngày
càng lớn. Từ các nghiệp vụ ban đầu là trách nhiệm dân sự, tai nạn hành khách,
sau đó được mở rộng thêm các nghiệp vụ khác như bảo hiểm học sinh (1986),


bảo hiểm tàu sông tàu cá (1987), bảo hiểm hàng hoá XNK, tàu biển (1988) và
một số nghiệp vụ khác.


Đến ngày 27/04/1989 chi nhánh bảo hiểm Hà Nội được nâng lên thành
Công ty bảo hiểm Hà Nội theo quyết định số 27/TC-BTC của Bộ tài chính cho
phù hợp với tầm vóc hoạt động của nó. Để xứng đáng là Cơng ty thành viên
của Tổng công ty BHVN, Công ty Bảo Việt Hà Nội đã có những bước chuyển
mình, khơng ngừng phấn đấu vươn lên, ln hồn thành và vượt mức kế hoạch
trên giao. Số lượng các nghiệp vụ cũng được tăng thêm như bảo hiểm cháy
năm 1989, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt 1992, bảo hiểm đầu tư năm 1996 ...
nhằm thoả mnhững nhu cầu ngày càng tăng của các tổ chức kinh tế trong và
ngoài nước cũng như mọi tầng lớp nhân dân.
Trải qua 17 năm hoạt động, dù bất kỳ hoàn cảnh nào bất kỳ điều kiện
nào, cán bộ của Cơng ty ln đồn kết nhất trí trên dưới một lịng hồn thành
nhiệm vụ. “Phục vụ khách hàng như phục vụ người thân” là khẩu hiệu được đề
ra và ngấm sâu vào mỗi thành viên trong Công ty đồng thời được cụ thể hoá
thành những mục tiêu, những công việc cụ thể cho mỗi bộ phận mỗi cán bộ của
Công ty. Cho tới nay Công ty đã trở thành một đơn vị kinh tế hùng mạnh với
hơn 130 cán bộ,12 văn phòng đại diện ở các quận huyện cùng với mạng lưới
đại lý và cộng tác viên phủ kín các địa bàn dân cư của Thành phố, sẵn sàng đáp
ứng mọi nhu cầu và trở thành một trong bốn đơn vị chủ lực cuả Tổng Công ty
BHVN.
Trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường bảo hiểm vốn đang sooi
động hiện nay, BVHN luôn phải đổi mới phong cách phục vụ, tự mình vươn lên
nắm lấy thời cơ và đẩy nhanh tốc độ phát triển. Trước một thực tế khả quan về
sự phát triển kinh tế của Việt Nam, số lượng đầu tư ngày càng lớn và nhu cầu
về sử dụng máy móc tăng nhanh, BVHN đã biết khai thác và đi sâu vào mảng
thị trường này, tiến hành triển khai nghiệp vụ bảo hiểm máy móc.


Như vậy nghiệp vụ BHMM ra đời ở BVHN theo yêu cầu củng cố và tăng
vị thế của Bảo Việt trên thị trường. Đây là lýdo chính, song cũng phải nói đến
vấn đề tăng doanh thu và lợi nhuận cho Cơng ty. Nhu cầu về sử dụng máy móc

cho q trình Cơng nghiệp hố ở Việt Nam đang tăng nhanh hứa hẹn nguồn
thu phí lớn và đây chính là sự quan tâm của người làm công tác lãnh đạo.
Trên địa bàn Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung nhu cầu về BHMM là
rất lớn và không ngừng tăng lên trong tương lai. Điều này cũng dễ hiểu vì Hà
Nội là trung tâm của kinh tế và chính trị của cả nước. Với diện tích 920 km2,
dân số 3,5 triệu người, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 11% /năm, Hà
Nội đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Cụ
thể số vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép hoạt động ở Hà Nội như
sau :
Đơn vị : 1000 USD
Năm
Số vốn

1994
2.557.610

1995
3.354.584

1996
4.141.000

1997
951.000

Biểu số 3 : Vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà Nội.
Như vậy mặc dù số vốn đầu tư nước ngồi năm 97 có giảm so với các
năm trước nhưng nhìn chung vốn đầu tư vvào Hà Nội vẫn tăng so với cả nước.
Trong năm 97 với 80 dự án và 951 triệu USD Hà Nội vẫn đứng thứ ba sau
TP.HCM và Đồng Nai, điều này một mặt thể hiện sự lớn mạnh về kinh tế của Hà

Nội, mặt khác tạo điều kiện cho nghiệp vụ bảo hiểm có nguồn thu tăng dần.
II. THỰC TẾ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM MÁY MĨC Ở
CƠNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI.
1. Công tác khai thác.
Đây là bước đầu tiên và khơng thể thiếu đối với bất kỳ loại hình bảo
hiểm nào, khâu tiếp cận khách hàng để ký kết hợp đồng có ý nghĩa quyết định
đến khả năng tồn tại và phát triển của nghiệp vụ.


Khai thác chính là sự huy động, tập trung nguồn đóng góp từ các đơn vị,
cá nhân muốn tham gia bảo hiểm. Nguồn đóng góp này cùng với một phần lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh của Công ty sẽ tạo nên quỹ dự trữ tài chính
cần thiết cho Cơng ty. Nếu quỹ dự trữ này lớn sẽ cho phép Công ty bồi thường
những rủi ro lớn và do vậy mức giữ lại sẽ tăng lên. Khâu khai thác này chi phối
rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngành bảo hiểm vì quỹ dự trữ
có ý nghĩa như là một nguồn vốn đảm bảo cho các Công ty hoạt động có hiệu
qủa.
Hiện nay cơng tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm máy móc ở BVHN do
nhóm bảo hiểm kỹ thuật thuộc phòng cháy và rủi ro kỹ thuật chịu trách nhiệm.
Trong khai thác việc đề ra một quy trình khai thác hợp lý là rất cần thiết.
Nó bao gồm cơng việc bám sát tìm hiểu thị trường, hướng dẫn kê khai đơn bảo
hiểm, tiến hành xác định và đánh giá rủi ro để tính phí. Sau khi cấp đơn bảo
hiểm, NBH phải thơng báo thu phí và thu xếp hợp đồng tái bảo hiểm trong
trường hợp cần thiết. Để thực hiện tốt quy trình này, Cơng ty đã có nhiều biện
pháp tích cực như đào tạo và tuyển dụng cán bộ có năng lực với cơng việc
thơng qua các cơ quan quản lý để nắm bắt các thông tin thị trường.
Đánh giá công tác khai thác của Công ty bảo hiểm Hà Nội trong thời
gian qua, để có được các kết quả như hiện nay, Cơng ty có được những thuận
lợi về nhiều mặt song cũng khơng ít khó khăn địi hỏi phải có biện pháp thích
hợp để vượt qua và vươn lên.

Với số vốn đầu tư không ngừng tăng lên và với chủ trương “nội địa hố
sản phẩm” của Đảng và Nhà nước ngày càng có nhiều nhà máy xí nghiệp mọc
lên ở Hà Nội cũng như các vùng lân cận. Điều này tất nhiên sẽ kéo theo một
lượng máy móc lớn cần thiết cho hoạt động sản xuất. Hơn nữa nghị định 332/
HĐBT ngày 25/ 01/91 của Hội đồng Bộ trưởng về việc Nhà nước xố bỏ hồn
tồn việc bao cấp vốn cho các DNNN kể cả trường hợp bị thiên tai, tai nạn bất
ngờ gây cho doanh nghiệp đó, đã buộc các doanh nghiệp quan tâm nhiều đến


việc bảo hiểm tài sản cho đơn vị mình. Tất cả những điều này đã tạo điều kiện
thuận lợi trong công tác khai thác.
Bên cạnh những thuận lợi đã nêu, việc khai thác bảo hiểm máy móc ở
BVHN cũng gặp những khó khăn nhất định.
Trong khâu khai thác thì việc nắm bắt thơng tin ban đầu là rất quan
trọng, nó liên quan đến việc có ký được hợp đồng hay khơng. Để làm việc này
cơng ty đã có những mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan chức năng liên quan
như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bọ công nghiệp, Bộ tài chính ... thơng qua đây cơng
ty có những thơng tin chính xác để chủ động quan hệ trực tiếp với chủ doanh
nghiệp nhằm đàm phán bảo hiểm.
Với các Công ty liên doanh nếu công ty khai thác trực tiếp sẽ có nhiều trở
ngại vì trong liên doanh vốn góp của bên Việt Nam thường chiếm tỷ lệ thấp (từ
30 đến 40%) mà chủ yếu lại bằng quyền sử dụng đất và tài sản sẵn có vì vậy
quyền điều hành cơng ty và do đó quyền thu xếp bảo hiểm do bên nước ngoài
nắm giữ. Trong lĩnh vực này người nước ngồi thường có nhiều kinh nghiệm
hơn các doanh nghiệp trong nước, hơn thế nữa họ có quyền tham gia bảo hiểm
ở bất kỳ một công ty nào được phép hoạt động ở Việt Nam chứ không nhất
thiết phải tham gia ở BVHN.
Trong luật đầu tư nước ngoài ban hành năm 1990 để hấp dẫn các nhà
đầu tư, ta không bắt buộc họ phải mua bảo hiểm ở các công ty trong nước. Tại
điều 9 chương II của luật này quy định : “... tài sản của xí nghiệp liên doanh

được bảo hiểm tại các Công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc tại một Công ty bảo
hiểm khác do hai bên thoả thuận”, điều này không mang lại thuận lợi cho Cơng
ty. Bên nước ngồi có thể tham khảo phí của nhiều Cơng ty bảo hiểm khác
nhau, cả trong nước và nước ngồi, Cơng ty nào mà họ cảm thấy có lợi nhất thí
họ sẽ tham gia. Trường hợp nếu họ tham gia tại BVHN thì lại thường gây áp
lực với cơng ty về phí và phạm vi bảo hiểm, thậm chí cả về phương thức tái bảo
hiểm. Cũng có trường hợp, một phần các nhà đầu tư nước ngoài chưa hoàn


tồn tin tưởng vào Cơng ty, một phần họ lợi dụng sự thiếu hiểu biết của bên
Việt Nam trong liên doanh mà tham gia bảo hiểm với các Công ty của nước họ.
Khi tổn thất xảy ra họ sẽ giữ lại số tiền được bồi thường trong khi vẫn phân bổ
thiệt hại cho hai bên cùng gánh chịu. Đây không phải là trường hợp hiếm thấy
trong các liên doanh với nước ngồi ở Việt Nam. Vì vậy để thu hút khách hàng
về phía mình Cơng ty phải có những chính sách, chiến lược cạnh tranh thích
hợp.
Với các xí nghiệp, nhà máy trong nước - mặc dù Cơng ty đã có những
mối quan hệ với các cơ quan, Bộ chủ quản để thu nhận thông tin và tổ chức
tuyên truyền quảng cáo nhưng thực tế cũng rất khó khăn trong ký hợp đồng.
Thứ nhất là do các cơ quan này đã quen với sự bảo trợ của nhà nước ở thời ký
bao cấp, từ đó nảy sinh tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước. Với mục tiêu lợi
nhuận, họ chỉ thấy được cái lợi trước mắt mà quên đi những thiệt hại lớn và
lâu dài khi máy móc bị hỏng. Đây một trong những hậu quả của cơ chế bao cấp
kéo dài mà khơng dễ gì mất đi trong ngày một ngày hai. Mặc dù nghị định
233/HĐBT đã ra đời, trong đó quy định rõ khơng cho phép các DNNN ghi giảm
vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà các cơng ty bảo
hiểm trong nước đã triển khai nhưng nghiệp vụ bảo hiểm tương ứng nhưng
thức tế các hoạt động thúc đẩy việc thức hiện nghị định vẫn khơng có kết quả
khả quan. Hơn nữa, hiện nay khơng có một văn bản pháp lý nào bắt buộc các xí
nghiệp nhà máy phải mua bảo hiểm cho tài sản của mình. Thứ hai, do BHMM

mới được triển khai ở Việt Nam trong thời gian tương đối ngắn, chưa thực sự
đi vào các hoạt động sản xuất, lại mang tính kỷ thuật liên quan đến máy móc
nên rất ít người hiểu được nghiệp vụ này. Nếu khơng có cơng tác TTQC thích
hợp để giới thiệu rõ về nó thì cơng ty sẽ gặp khó khăn trong thuyết phục khách
hàng mua bảo hiểm.
Một khó khăn nữa trong qúa trình khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm nói
chung và BHMM nói riêng là tập quán bảo hiểm mới được hình thành ở Việt


Nam trong thời gian ngắn, chưa tạo thành thói quen thường trực của các tổ
chức và đơn vị kinh doanh. Trong khi đó có rất ít các máy móc bị tổn thất trực
tiếp do đỗ vỡ từ bên trong mà phần lớn tổn thất xảy ra với máy móc hoạt động
ở Việt Nam là do các nguyên nhân từ bên ngoài như hoả hoạn, bão lụt ...
Những rủi ro từ bên ngồi này trong một số trường hợp, có vẻ phù hợp với loại
hình bảo hiểm khác hơn chẳng hạn như đơn bảo hiểm hoả hoạn- một loại hình
bảo hiểm đã được triển ở Việt Nam từ lâu và trở nên rất phổ biến. So với
BHHH thì BHMM có phạm vi hẹp hơn, chỉ bảo hiểm cho những tổn thất xảy ra
từ nguyên nhân bên trong như chập điện, sai sót trong thiết kế, tính tốn chế
tạo, vỡ do lực ly tâm, đoản mạch, thiếu nước trong nồi hơi ... và một số tổn thất
xảy ra từ nguyên nhân bên ngồi như bão lụt, đóng băng, tan băng. Trong khi
đó nếu tham gia BHHH và thêm các ĐKBS thì NĐBH vẫn có thể được bảo hiểm
cho một phần những rủi ro này. Như vậy tổn thất xảy ra ít, thiệt hại đêm lại
khơng thường xun đủ để các chủ xí nghiệp, nhà máy cảm thấy sự cần thiết
quan trọng của BHMM nên trong nhiều trường hợp họ cố tình quên vấn đề bảo
hiểm để tiết kiệm được một khoản chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thực tế để khắc phục hạn chế này, tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã
đưa vào áp dụng một số điều khoản bổ sung nhằm thoả những nhu cầu đa
dạng của khách hàng và tổng công ty cũng đã cho phép các cơng ty thành viên
áp dụng các ĐKBS đó. Ví dụ trong đơn cấp cho bệnh viện quốc tế Bạch Mai để
bảo hiểm cho các máy móc và thiết bị điện tử, hệ thống chiếu sáng của bệnh

viện với giá trị bảo hiểm là 1.975.270USD, công ty đã áp dụng thêm hai ĐKBS
là ĐKBS006: ”bảo hiểm cho các chi phí làm thêm giờ, làm đêm, làm ngày lễ chủ
nhật” và ĐKBS006: ”bảo hiểm cho cước phí vân chuyển nhanh bằng hàng
khơng”.
Ngồi ra cịn có một thực trạng ở Việt Nam làm hạn chế quy trình khai
thác BHMM đó là phần lớn máy móc đều ở trong trạng thái cũ và điêù kiện
hoạt động kém an toàn. Theo thống kê, cả nước chỉ có khoảng 30% máy móc là


thay thế mới cịn phần lớn có thời gian sử dụng quá dài, công nghệ lạc hậu và
điều kiện hoạt động kém an toàn. Nếu chiếu theo đơn tiêu chuẩn của Munich
Re mà hiện nay ta đang áp dụng thì cơng ty chỉ bảo hiểm cho những máy móc
có thời gian sử dụng không quá 20 năm, đặt trong điều kiện hoạt động tốt,
không bảo hiểm cho những máy quá cũ và giá trị còn lại dưới 40%. Mặc dù
ĐKBS có thể bảo hiểm cho những máy móc cũ quá 20 năm nhưng phải có điều
kiện là trước đó đã tham gia bảo hiểm trong một thời gian dài với thống kê
tổn thất trong quá khứ tốt. Điều kiện này thật là mâu thuẫn với thực tế Việt
Nam mới triển khai BHMM hơn 2 năm nên nó hạn chế rất nhiều số đơn được
cấp. Tỷ lệ máy mới rất thấp lại nằm chủ yếu ở các công ty liên doanh và cơng
ty 100% vốn nước ngồi, đây chính là đối tượng chủ yếu của công ty do vậy
công ty phải có biện pháp nhằm khai thác có hiệu quả đối tượng này. hiện nay
công ty liên doanh ôtô HITC ở Từ liêm là một trong những khách hàng lớn với
giá trị bảo hiểm lên tới hàng chục triệu USD.
Về phía thị trưịng cơng ty gặp trở ngại lớn đó là sự ra đời của nhiếu
công ty bảo hiểm sau Nghị định 100-CP của Chính phủ. Giờ đây, ngồi hệ
thống Bảo Việt cịn có các cơng ty lớn khác như PJICO, PVIC, Bảo Minh, Bảo
Long.. và gần đây nhất là công ty liên doanh United Insurance Cooperation of
Việt Nam được thành lập ngày 11 tháng 3 năm 1998 đẫ làm cho công ty mất
phần lớn khách hàng là các liên doanh với Nhật. Thị trường bảo hiểm Việt
Nam vốn đã sôi động lại càng trở nên gay gắt vì khơng chỉ có sự canh tranh

giữa các cơng ty trong nước mà cịn có cả nước ngồi. Trên địa bàn Hà nội,
ngồi Tổng cơng ty và BVHN cịn có trụ sở chính hoặc văn phịng đại diện của
các cơng ty nêu trên và một số văn phịng bảo hiểm nước ngồi như AIG ( Mỹ),
GAN (Pháp).. các văn phòng đại diện nước ngoài này chưa được phép hoạt
động kinh doanh tại thị trường Việt nam nhưng trên thực tế, lợi dụng sự sơ hở
trong pháp luật của ta họ vẫn chuyển những dịch vụ bảo hiểm trong nước cho


các cơng ty bảo hiểm nước ngồi gây thất thốt cho các công ty trong nước.
Công ty bảo hiểm Hà nội cũng khơng nằm ngồi tình trạng đó.
Đối với các cơng ty được thành lập sau Nghị định 100-CP thì thực sự
cơng ty đang trong tình trạng cạnh tranh khốc liệt. Ngồi việc hạ phí một cách
vơ tội vạ nhiều cơng ty mới ra đời cịn nhận bảo hiểm thơng qua cơng ty mơi
giới nước ngồi và tái bảo hiểm cho họ với tỷ lệ tái rất cao có khi lên tới 70
đến 75% nhưng tỷ lệ hoa hồng lại thấp từ 5-7%. Với tỷ lệ hoa hồng thấp như
vậy các cơng ty gốc khơng đủ bù đắp chi phí khai thác song vì mới ra đời nên
họ vẫn sẵn sàng nhận bảo hiểm để quảng cáo cho công ty mình và chia sẻ thị
phần Bảo việt cũng như với BVHN.
Ngồi những khó khăn xuất phát từ phía khách hàng và thị trường ở
trên thì cơng tác khai thac của BVHN cũng có một số trở ngại xuất phát từ chủ
quan của cơng ty. Đó là hiện nay số lượng cán bộ chủ chốt, thực sự có năng lực
cịn thiếu. Bảo hiểm máy móc là loại hình bảo hiểm kỹ thuật nên nó địi hỏi cán
bộ khai thác khơng những nắm vững nghiệp vụ mà còn phải hiểu biết về máy
móc để có những quyết định chính xác về mở rộng hay thu hẹp phạm vi bảo
hiểm và cho khách hàng những lời khuyên giá trị về đề phòng và hạn chế tổn
thất cũng như bảo quản máy. về vấn đề này cơng ty đã có một số giải pháp như
mở lớp đào tạo nghiệp vụ và tham gia các lớp tập huấn do Tổng cơng ty tổ
chức.
Khó khăn thứ hai xuất phát từ phía cơng ty là việc xác định tỷ lệ phí cho
mỗi đơn bảo hiểm. Khi xác định tỷ lệ này cho mỗi đối tượng trên thực tế cơng

ty ít sử dụng biểu tỷ lệ phí thơng thường của Munich Rc mà thơng qua một
chương trình tính phí đã được cơng ty tái bảo hiểm này xây dựng và cài đặt
trong máy vi tính. Khi khách hàng yêu cầu bảo hiểm, họ phải điền vào bảng câu
hỏi mà công ty yêu cầu, các dữ liệu từ bảng câu hỏi này được đưa vào máy tính
và chương trình xử lý sẽ tính ra số phí cho mỗi máy được bảo hiểm.


Khi tính phí theo phương pháp này địi hỏiNĐBH khi khai báo phải theo
nguyên tắc trung thực tuyệt đối, nhưng trên thực tế không phải khách hàng
nào cũng thực hiện đúng mà đơi khi vì lợi ích cá nhân họ khai báo sai lệch thực
tế nhằm hạ thấp mức phí phải chịu. Thêm vào đó nếu cơng ty khơng tiến hành
đánh giá rủi ro thì kết quả sẽ cho một mức phí có lợi cho NĐBH nhưng lại
khơng đảm bảo tài chính cho cơng ty. Trong thực tế với những máy móc đơn
giản, ít chi tiết thì cơng ty tự tiến hành điều tra nhưng với những máy móc lớn,
phức tạp thì sẽ phối hợp cùng Tổng cơng ty hoặc các cơ quan chức năng,
những chuyên gia, cán bộ kỹ thuật có chun mơn như kỹ sư máy móc, các nhà
sản xuất. Ngồi cách tính phí trên cơng ty có thể sử dụng biểu phí thơng
thường trong đơn bảo hiểm tiêu chuẩn và áp dụng cho tất cả các máy móc
cùng loại dù hoạt động ở những địa điểm khác nhau.
Dù tính theo cách nào thì so với các loại hình bảo hiểm khác, mức phí
này vẫn cao hơn rất nhiều. Đây chính là một trong những nguyên nhân trực
tiếp gây khó khăn cho cơng tác khai thác. Mức phí này do Munich Re xây dựng
trên cơ sở thống kê tổn thất thực tế xảy ra ở Đức trong khi đó xác suất rủi ro
này khơng phải ở đâu cũng như nhau. Có thể ở Đức do nổ vật lý, do lực ly tâm
gây xé đứt hay do đóng băng tan băng là chính thì ở Việt nam với khí hậu khô
hanh, tay nghề công nhân chưa cao, điều kiện làm việc khơng an tồn những
rủi ro về điện, cháy nổ hay thiếu nước trong nồi hơi lại phổ biến. Từ sự khác
biệt nhau về xác suất rủi ro chắc chắn biểu phí sát thực và chính xác cho hai
khu vực sẽ khác nhau. Biết là vậy nhưng trên thực tế chúng ta vẫn phải áp
dụng theo họ vì chưa làm được công tác thống kê tổn thất nên không thể tự

mình xây dựng một biểu phí riêng. Hơn nữa Munich Re là công ty nhận tái bảo
hiểm trực tiếp từ Việt nam do đó họ sẽ nhận với tỷ lệ tái và tỷ lệ phí trên căn
cứ biểu phí của họ được áp dụng cho đơn bảo hiểm gốc.
Tuy nhien theo kinh nghiệm thực tế của công ty bảo hiểm Hà nội, để đảm
bảo yếu tố cạnh tranh trên thị trường, khi tính phí cơng ty có thể thay đổi cho


phù hợp với từng khách hàng và với phạm vi bảo hiểm cụ thể. Với đơn bảo
hiểm cấp cho bệnh viện quốc tế Bạch Mai

nói trên tỷ lệ phí được xác định

chung cho tất cả các loại máy là 0,424% chứ khơng tính riêng cho từng máy
riêng biệt.
Khi tiến hành khai thác vận động khách hàng tham gia bảo hiểm, các
cán bộ không thể không quan tâm đến vấn đề ”khấu trừ”. đối với bất kỳ loại
hình bảo hiểm tài sản nào thì mức khấu trừ này hết sức cần thiết, nó liên quan
đến tỷ lệ phí của hợp đồng bảo hiểm. Như đã nói ở trên, mức miễn thường này
một mặt có tác dụng nâng cao trách nhiệm của NĐBH với tài sản của mình,
mặt khác tránh cho NBH khỏi phải giải quyết các tổn thất nhỏ tiết kiệm những
chi phí khơng cần thiết. Trong điều kiện thực tế hiện nay khấu trừ cịn là một
cơng cụ đắc lực trong việc cạnh tranh, điều đó thể hiện khi hai công ty cùng
mời chào một khách hàng với cùng các điều khoảnm, mưc phí, thời hạn bảo
hiểm như nhau thì cơng ty có mức khấu trừ thấp chắc chắn sẽ dành được hợp
đồng. Trong một vài trường hợp khi công ty nhận thấy số phí và các điều kiện
bảo hiểm chưa thật hợp lý thì cách tốt nhất để tiếp tục hợp đồng là tăng mức
khâu trừ. Thực tế khi xác định mức khấu trừ này cho những hạng mục máy
móc được bảo hiểm gồm nhiều máy khác nhau thì không nên xác định riêng
cho từng máy một mà nên lấy một giá trị trung bình, với các máy hoạt động
ngoài trời hay số ca làm việc trong một ngày nhiều thì áp dụng mức khấu trừ

cao hơn.
Ví dụ đơn bảo hiểm cấp cho công ty xây dựng thi công nhà máy xi măng
Nghi Sơn- Thanh hoá với danh mục máy móc được bảo hiểm lên tới hàng chục
máy, cơng ty không thể xác định mức khấu trừ cho mỗi máy mà dùng chung
một mức là 1000USD hoặc 10% giá trị cuả mỗi máy, lấy mức nào thấp hơn.
Hiện nay cơng ty bảo hiểm Hà Nội khuyến khích khai thác trực tiếp
nhưng vẫn có một số đơn phải thơng qua mơi giới. Khi khai thác trực tiếp thì
cơng ty khơng phải trả hoa hồng môi giới nhưng nhiều khi lại gặp khó khăn từ


phía khách hàng. Có nhiều khách hàng khơng tin tưởng công ty và họ chỉ mua
bảo hiểm thông qua môi giới mà thơi hoặc cũng có khi cơng ty khơng hiểu rõ
khách hàng lắm. Điều này dễ khắc phục bằng cách tuyên truyền quảng cáo giới
thiệu công ty hoặc thông qua bộ chủ quản. Nếu qua mơi giới thì có thuận lợi là
họ quan hệ với khách hàng rộng hơn và hiểu rõ nhu cầu của khách hàng. Đối
với nhưng đối tượng bảo hiểm phức tạp mà công ty chưa có điền kiện kiểm tra
thì cách tốt nhất là qua môi giới. Tuy nhiên khách hàng là người chỉ định mơi
giới cho mình và mơi giới bảo vệ quyền lợi cho khách hàng nên mặt trái của sự
am hiểu này là sức ép về phí và điều kiện bảo hiểm mà cơng ty phải chịu. Ngồi
tiền hoa hồng phải trả cho môi giới (thường từ 10 - 15% tuỳ thuộc vào từng
đối tượng cấp đơn) thì khi nhận dịch vụ qua môi giới công ty buộc phải tái bảo
hiểm cho những công ty tái mà môi giới chỉ định. Về điều này rất bất lợi cho
cơng ty vì khi tái bảo hiểm theo chỉ định công ty họ sẽ ép tỷ lệ tái trong khi
mình chưa hiểu rõ về họ nhiều.
Hiện nay ở Việt Nam chỉ có một cơng ty mơi giới được phép hoạt động
chính thức, dó là cơng ty Inchinbrock với phạm vi hoạt động chưa rộng nhưng
bước đầu cũng tạo điều kiịen cho các công ty bảo hiểm của Việt Nam vốn quen
hoạt động trong điều kiện độc quyền tiếp xúc mạnh hơn với cạnh tranh và góp
phần thúc đẩu sữ phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Như vậy, quy trình ký kết hợp đồng BHMM trải qua rất nhiều giai đoạn

nhưng quan trọng nhất vẫn là khâu tiếp xúc với khách hàng để đàmg phán là
đi đến ký kết. Công tác khai thác này đang cịn nhiều khó khăn địi hỏi phải có
sự nỗ lực của mỗi cá nhân và cơng ty phải có biện pháp đúng đắn để đạt kết
quả tốt hơn.
2. Công tác giám định tổn thất.
Khâu giám định tổn thất có vị trí quan trọng đối với cơng tác bồi
thường, nếu giám định đúng nguyên nhân gây tai nạn cũng như xác địng đúng


mức độ tổn thất sẽ giúp NBH bồi thươngf chính xác tránh được những bất lợi
cho cả hai bên.
Trên thực tế, chưa có vụ tổn thất nào xảy ra thuộc tránh nhiệm của công
ty nhưng trên cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm của các công ty trong nước cũng
như nước ngồi, nếu có tổn thất xảy ra cơng ty bảo hiểm Hà Nội sẽ tiến hành
theo các bước sau:
Khi nhận được giấy báo tổn thất từ NĐBH, giám định viên của công ty sẽ
xuống ngay hiện trường để nắm tình hình và điều tra tai nạn. Nếu xác định
rằng đây là tổn thất nhỏ thì giám định viên của công ty sẽ tiến hành thực hiện,
nếu là tổn thất lớn, khó xác định ngun nhân cơng ty sẽ mời giám định đã
thoả thuận với NĐBH .
Muốn thực hiện nghĩa vụ bồi thường với khách hàng cơng ty phải có đầy
đủ thông tin, chứng từ cần thiết liên quan đến rủi ro đã gây ra tổn thất cho đối
tượng được bảo hiểm, nghĩa là phải có một hồ sơ giám định đầy đủ và chính
xác. Tuỳ theo tính chất phức tạp của từng vụ tổn thất mà hồ sơ giám định bao
gồm:
- Tờ khai tai nạn: Tờ khai này do người đứng máy hay sử dụng máy trực
tiếp vào thời điểm xảy ra tai nạn khai, trong đó ghi đầy đủ diễn biến tai nạn và
nguyên nhân ban đầu, có thể có cả chữ ký của người làm chứng.
Tờ khai tai nạn phải bao gồm: ngày giờ xảy ra tai nạn; địa điểm đặt máy
và tình trạng hoạt đọng của máy đó.

- Biên bản giám định tổn thất: Biên bản này do giám định viên của công
ty hoặc do giám định viên được mời lập. Trong đó ghi rõ những thiệt hại do tai
nạn đó gây ra và nguyên nhân chính xác của nó, đồng thời thống kê một cách
chi tiết các hạng mục máy móc và thiết bị bị thiệt hại trong mỗi sự cố.


- Dự toán thanh toán được lập trên cơ sở thơng kê những thiệt hại nói
trên bao gồm các khoản chi phí dự tính cho những thiệt hại thuộc tránh nhiệm
bảo hiểm mà NBH phải chi trả toàn bộ hay một phần.
- Biên bản nghiệm thu kỷ thuật: Sau khi sửa chữa hoặc thay thế các
hạng mục máy móc bị tổn thất thì phải có biên bản giám định để chứng minh
việc sữa chữa thay thế đã được thực hiện theo đúng quy định. Trong biên bản
này bao gồm các hoá đơn chi mua các bộ phận , chi tiết thay thế; chi mua
nguyên vật liệu sữa chữa; chi tiền cơng chi cơng nhân và các hố đơn về chi
thuế hải quan, chi phí vận chuyển đến địa điểm sữa chữa.. Biên bản nghiệm thu
kỹ thuật phải có chữ ký của NĐBH và đơn vị nhận thi công sữa chữa, thay thế.
Đơn vị này có thể do NĐBH hoặc cơng ty bảo hiểm Hà Nội đứng ra thuê, nhưng
dù ai th thì đều phải có sự giám sát của cả hai bên về mức độ sữa chữa. Đây
là cơ sở để cơng ty chính thức có quyết định bồi thường.
Chú ý rằng việc chỉ định công ty giám định trong những trường hợp cần
thiết là không thể xem nhẹ. Việc xác định nguyên nhân tổn thất và chứng minh
trách nhiệm của NBH nhiều khi rất khó khăn và địi hỏi không chỉ giám định
một lần, kể cả những công ty giám định có uy tín trên thế giới. Đã từng có
trường hợp khơng trùng khớp nhau về ngun nhân và mức độ tổn thất giữa
các biên bản giám định chi cùng một sự cố giữa các công ty giám định hay
thậm chí của cùng một cơng ty giám định.
Nếu khi NĐBH khơng nhất trí với các kết quả giám định của nhà bảo
hiểm, họ có thể mời giám định viên của mình để giám định lại. Kết quả giám
định lần này có thể khơng thống nhất với kết quả giám định lần trước. Lúc đó
giám định viên của hai bên sẽ phải cùng bàn bạc và đi đến một kết luận hoặc

cùng nhau chỉ một giám định viên chung để đưa ra quyết định cuối cùng.
Đối với những tổn thất nhỏ hay do gặp khó khăn khơng thể giám định
kịp thời cơng ty có thể chấp nhận biên bản giám định tổn thất do NĐBH lập.


Theo quy định của Tổng công ty với những tổn thất ước tính trên 10.000
USD thì cơng ty phải thơng báo ngay cho Tổng công ty để nhân viên giám định
của Tổng công ty xuống giám định. Với tổn thất ước tính trên 100.000 USD,
Tổng cơng ty sẽ mời chun viên giám định.
3. Công tác bồi thường.
Bồi thường là nghĩa vụ của NBH đối với NĐBH khi có tổn thất xảy ra với
những tài sản đã được bảo hiểm, nó thể hiện mục đích phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh và đời sống con người của bảo hiểm. Hoạt động này rất có
ý nghĩa và là nguồn động viên lớn nhất đối vời người bị nạn. Thông qua đó, các
chủ xí nghiệp, nhà máy, chủ thầu mới nhận thấy được ý nghĩa tác dụng và lợi
ích của việc tham gia bảo hiểm cho tài sản của mình, từ đó khuyến khích họ tự
nguyện, chủ động tham gia bảo hiểm.
Để phát huy được vai trò và tác dụng của mình, cơng tác bồi thường
phải đáp ứng được các u cầu sau:
- Nhanh chóng: Bất kỳ một NĐBH nào khi tham gia bảo hiểm đều mong
muốn rằng khi chẳng may gặp rủi ro gây tổn thất sẽ được NBH nhanh chóng
bồi thường để kịp thời khắc phục hậu quả và ổn định sản xuất và đời sống. Đối
với các máy móc trong hoạt động sản xuất, một sự ngắt quãng kéo dài sẽ ảnh
hưởng lớn đến doanh thu và làm chậm trễ cả một q trình thi cơng.
- Chính xác: chính xác có nghĩa là số tiền bồi thường phải phù hợp với
tránh nhiệm của NBH đồng thời cũng phải bảo đảm quyền lợi cho NĐBH.
Ngồi ra bồi thường chính xác là bồi thường đúng đối tượng và phù hợp với
điều kiện của đơn bảo hiểm.
Trong thực tế, vì chưa có tổn thất xảy ra thuộc trách nhiệm của cơng ty
nên chưa có vụ bồi thường nào nhưng cơng ty luôn xác định đây là một trong

nhưng nhiệm vụ quan trọng và thực hiện theo quy trình sau:


Khi nhận được hồ sơ giám định và giấy đòi bồi thường, các cán bộ phụ
trách nghiệp vụ sẽ kiểm tra, xem xét hồ sơ có đầy đủ và hợp lệ hay không. Nếu
thuộc tránh nhiệm bảo hiểm nhưng chưa đầy đủ họ sẽ yêu cầu khách hàng bổ
sung thêm kịp thời và hẹn ngày trả lời khách hàng.
Trường hợp trong mức phân cấp các cán bộ sẽ tập hợp chi phí hợp lý
thuộc trách nhiệm bảo hiểm; xem xét có điểm loại trừ nào tác động và ảnh
hưởng đến khiếu nại đó hay khơng, có điều kiện bảo hiểm nào bị vi phạm làm
vơ hiệu hố hoặc thu hẹp phạm vi bảo hiểm không. Sau khi tổng hợp lại nếu
tổng chi phí đó nằm dưới mức khấu trừ thì phòng sẽ gửi quyết định từ chối bồi
thường.
Theo quyết định 468/BH/QĐ- TCKT 98 của Tổng công ty bảo hiểm Việt
Nam thì BVHN chỉ được phép xét bồi thường với giá trị không quả 5.000
USD/vụ.
Đối với các đơn vị bảo hiểm có liên quan đến tái bảo hiểm, nếu tái bảo
hiểm có thơng qua Tổng cơng ty thì BVHN sẽ phối hợp cùng Tổng cơng ty
nhanh chóng cung cấp đủ thơng tin, giấy tờ pháp lý để họ đền bù cho chủ máy
móc. Nếu tái bảo hiểm đó khơng thơng qua Tổng công ty (khi tỷ lệ tái bảo hiểm
thấp dưới 50% cơng ty có quyền quan hệ trực tiếp với cơng ty tái bảo hiểm) thì
cơng ty sẽ cùng với nhà tái bảo hiểm phân chia tránh nhiệm cho mỗi bên một
cách nhanh chóng, kịp thời chia sẽ rủi ro với NĐBH.
Sau khi tính số tiền bồi thường phịng sẽ trình giám đốc duyệt và sẽ
được chính thức chi trả cho NĐBH. Việc chi trả có thể bằng tiền mặt, séc hoặc
chuyển khoản.
Đối với công ty BHHN, trong bảo hiểm máy móc nói riêng và các nghiệp
vụ khác nói chung thì cơng tác khai thác và bồi thường có vị trí hết sức quan
trọng. Nếu khai thác là tập trung khả năng giao dịch và sự hiểu biết của mình
để ký hợp đồng nhằm tập trung phí bảo hiểm về quỹ cơng ty thì bồi thường lại

thể hiện quy luật phân phối trong bảo hiểm nghĩa là từ quỹ tập trung được


qua thu phí cơng ty sẽ bồi thường cho những khách hàng không may gặp rủi
ro. Giữa khai thác và bồi thường có mối quan hệ mật thiết và tác động lẫn
nhau. Khai thác được nhiều sẽ hình thành quỹ lớn cho phép công ty bồi thường
được tổn thất lớn mà không phải tái bảo hiểm. Ngược lại bồi thường nhanh
chóng, chính xác sẽ tạo niềm tin chi khách hàng và khuyến khích họ tham gia
nhiều hơn.
4. Cơng tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Đề phòng và hạn chế tổn thất là hoạt động của con người nhằm ngăn
ngừa, hạn chế, giảm bớt rủi ro có thể gây ra thiệt hại cho máy móc sử dụng. Về
ngun tác thì khơng có một đơn vị than gia bảo hiểm nào lại mong muốn
mình gặp phải tổn thất để được bồi thường vì hai lý do: Thứ nhất, cho dù được
bồi thường thì cơng việc của họ vẫn bị gián đoạn, điều này có khi gây ra thiệt
hại lớn hơn so với rủi ro được bồi thường; thứ hai, do NĐBH phải chịu mức
khấu trừ theo hợp đông bảo hiểm đã quy định nên dù có bồi thường họvẫn
phải chịu một phần thiệt hại trực tiếp từ rủi ro đó.
Ngày nay, một trong những nhiệm vụ cơ bản của NBH máy móc là bằng
những nghiên cứu có tính chất phịng ngừa kịp thời phát hiện những sai sót
trong máy móc và thiết bị, qua đó hạn chế xác suất xảy ra tổn thất ở mức tối
thiểu. Nếu cơng tác này có hiệu quả thì chắc chắn số tổn thất sẽ giảm đi và do
đó số chi bồi thường sẽ giảm theo. Vì vậy, đề phịng và hạn chế tổn thất được
cả NBH và NĐBH hết sức quan tâm chú trọng.
Hiện nay, BVHN thực hiện công tác này thông qua kiểm tra định kỳ máy
móc được bảo hiểm, phối hợp cũng các cơ quan hữu quan trong việc đề phòng
hạn chế tổn thất, lập quỹ dự trữ để chi cho mục đích này...
Đối với các máy móc sản xuất hoạt động trong nhà ở một địa điểm cố
định thì rủi ro hay gặp nhất là các rủi ro do chập điện, đoản mạch, do ý thức,
tay nghề của công nhân kém do vậy công ty cho người tiến hành kiểm tra định

kỳ, nhắc nhở những người có trách nhiệm thường xuyên theo dõi hoạt động


của máy, nếu có sự nghi ngờ về khả năng xảy ra tổn thất phải dừng ngay máy
để tiến hành kiểm tra, xem xét.
Đối với những máy móc lưu động, di chuyển theo các cơng trình thì cơng
ty thường xun nhắc nhở chủ thầu phải kiểm tra độ an toàn, các thông số kỷ
thuật trước khi đưa máy vào sử dụng.
Cần chú ý rằng ở Việt Nam rủi ro cháy là rất dễ xảy ra, vì vậy riêng với
rủi ro này, cơng ty đã có một bản ghi nhớ với cảnh sát PCCC Hà Nội, hai bên
thoả thuận sẽ giúp đỡ nhau trong cơng cơng việc đề phịng hạn chế rủi ro cháy
và cung nhau phối hợp hành động khi có hoả hoạn xảy ra.
Tuy nhiên trong thời gian đầu thực hiện nghiệp vụ BHMM, chi phí cho đề
phịng và hạn chế tổn thất chưa được chú ý đúng với vai trị của nó. Chi phí này
khơng được coi là một khoản chính thức mà được tính chung vào chi phí quản
lý nghiệp vụ.
5. Tái bảo hiểm.
BVHN hiện nay vẫn hoạt đọng với tư cách là một chi nhánh của Tổng
công ty nên vẫn chưa được phép thiết lập các mối quan hệ trực tiếp với các
công ty tái bảo hiểm nước ngồi. Muốn tái bảo hiểm cơng ty phải thông qua
Tổng công ty.
Hiện hay Tổng công ty thu xếp tái bảo hiểm theo hình thức tỷ lệ mức dơi
và áp dụng theo mẫu đơn của Munich Re hoặc Swiss Re. Mức giữ lại cho mỗi
đơn BHMM là 500.000 USD/ đơn, giới hạn tránh nhiệm cao nhất là 15.000.000
USD/đơn.
Trong trường hợp công ty nhận bảo hiểm qua môi giới và phải tái bảo
hiểm theo chỉ định của mơi giới thì Tổng công ty quy định:
- Nếu tỷ lệ tái bảo hiểm chỉ định lớn hơn 50% thì cơng ty phải báo cho
Tổng công ty để Tổng công ty thu xếp tái bảo hiểm tiếp.



- Nếu tỷ lệ tái bảo hiểm chỉ định bé hơn 50% thì cơng ty có thể trực tiếp
thu xếp tái bảo hiểm nhưng với tỷ lệ phí, hoa hồng tái bảo hiểm phải thông qua
Tổng công ty.
6. Kết quả khai thác.
*Khai thác
Trước khi đưa ra con số cụ thể về kết quả đạt được của Bảo Việt Hà Nội
ta hãy quan sát thị phần của Bảo Việt trên thị trường .
Hiện nay trong hệ thống Bảo Việt ngoài tổng cơng ty thì chỉ có bốn cơng ty
nghiệp vụ đó là: Bảo Việt Hà Nội , Bảo Việt Hải Phòng, Bảo Việt Sài Gòn và Bảo
Việt Đồng Nai. Bắt đầu từ năm 1995 đến nay Bảo Việt đã thu được một số kết
quả sau:
Nghiệp vụ BHMM được triển khai ở BVHN từ năm 1996, với một thời
gian ngắn như vậy công ty đã thu được một số kết quả nhất định, thể hiện qua
bảng sau:
Năm

Số đơn cấp

Số tiền

Tỷ lệ phí BH

BH(USD)

Tổng phí gốc

trung
bình(%)


1995

8

20.000.000

0,45

90.000

1996

10

22.500.000

0,435

98.000

1997

13

30.800.000

0,406

125.000


Biểu số 4 : Kết quả khai thác NV BHMM của tồn hệ thồng Bảo Việt
(Nguồn: Phịng BH Cháy & RR kỷ thuật - công ty BHHN)
Qua bảng số liệu trên ta thssỹ doanh thu phí của nghiệp tăng qua các
năm. Riêng năm 1998 chưa có con số thồng kê chính xác nhưng nhìn chung có
xu hường giảm, điều này do ảnh hườn chung của tình hình kinh tế xã hội. Năm
1998 số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm so với năm 1997, đặc biệt
là hai nước Nhật và Nam Triều Tiên có các liên doanh là khách hàng chủ yếu.


Do ảnh hưởng cảu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nên số vốn đầu
tư vào Việt Nam giảm niều làm ảnh hưởng đêan hoạt động bảo hiểm.
Đối với Bảo Hiểm Việt Nam nghiệp vụ bảo hiểm máu móc mới triển khai
đầu năm 1996, với hai hình thức khai là trực tiếp và qua môi giới doanh thu
của công ty được thể hiện như sau:
Chỉ tiêu

Đơn

1996

1997

Tỷlệ

vị

97/96(
%)

1. Số đơn bảo hiểm cấp


đơn

3

4

150

2.Số tiền bảo hiểm

USD

4.740.600

6.518.490

137,5

%

0,42

0,42

100

4.Doanh thu số bảo hiểm gơc

USD


19.910,52

27.377,658

137,5

5.Số tiền bảo hiểm/một đơn

USD

1.580.200

1.629.622,5

103,1

6.Số phí chuyển nhượng

USD

12.939,3

19.946,7

154,2

%

64,98


72,86

112,1

USD

6.971,22

7430,958

106,6

3.Tỷ lệ phí bảo hiểm trung bình

7.Tỷ lệ phí chuyển nhượng
8.Tổng phí giữ lại

Bảng 5. Kết quả khai thác NV bảo hiểm máy móc của Bảo Việt Hà Nội
(Nguồn: Phịng BH Cháy & RR kỷ thuật - công ty BHHN)
Thủ đô Hà Nội luồn là nơi thu hut các nhà đầu tư nước ngồi số lượng
nhà máy, xí nghiệp và số vốn đầu lớn nhất miền Bắc và chỉ sau thành phố Hồ
Chí Minh nhưng nhìn chung kết quả thu được từ nghiệp vụ cịn thấp so với các
tỉnh phỉa Nam, ta có thể thấy trong bảng sau (đơn vị %):
Năm

Tỷ lệ số đơn cấp

Tỷ lệ số tiền bảo hiểm


Tỷ lệ doanh thu phí
bảo hiểm gốc

1995

-

-

-

1996

30

21

20,32


1997

30,7

21

21,9

Bảng 6. Kết quả khai thác NV BHMM của BHHN so với toàn hệ thống
Để xứng đáng là một trong những công ty hàng đầu của Bảo Việt. Trong

thời gian tới cơng ty Bảo Hiểm Hà Nội cần có các biện pháp khai thác hữu
hiệu hơn để đẩy nhanh tốc độ phát triển của nghiệp vụ.
*Chênh lệch thu chi:
-Về thu: Số thu của nghiệp vụ gồm ba nguồn
+Tổng phí giữ lại: Trong bảng cân đối thu chi của công ty khơng bao gồm
doanh thu phí bảo hiểm gốc mà chỉ là phần phí giữ lại từ doanh thu đó sau khi
đã trừ đi phần nhượng tái bảo hiểm.
+ Thu từ hoa hồng tái bảo hiểm: Là số tiền mà công ty nhận được từ các nhà
tái bảo hiểm do mình chuyển nhượng một khoản phí cho họ. Số tiền này
thương được thu từ hai hợp đồng là hợp đồng tái bảo hiểm số thành và tái bảo
hiểm cố định.
Trước hết phải tái bảo hiểm theo chỉ định theo hợp đồng số thành cho
các sông ty nhận tái do môi giới chỉ định, tỷ lệ này thường từ 30 - 50 %. Sau đó
nếu số tiền giữ lại vẫn lớn hơn mứ trách nhiệm tối đa của công ty (Quy định
của tổng công ty là 300.000USD / 1 đơn bảo hiểm ) thì cơng ty tiếp tục tái bảo
hiểmm theo hợp đồng cố định cho các nhà tái bảo hiểm nước ngoài ( chủ yếu là
cho Munich Re ) với mức giữ lại là 300.000USD khoản thủ tục phí nhận được
từ hoạt động tái bảo hiểm không đều giữa các năm va giữa các họp đồng
trung bình hanhgf năm là 23 % (lớn nhất là 28,5%)
+ Thu từ dự phịng phí năm trước chuyển sang hàng năm từ số phí giữ kại
cơng ty sẽ trích khoảng 40% co dự phịng do động lớn. Nừu năm đó dùng
khơng hết sẽ được chuyển sang năm sau thành số thu đầu năm của năm sau.
Các khoản thu của công ty gồm:


Năm

1996

1997


1.Tổng phí giữ lại

6.971,22

7.430,958

2.Thủ tục phí

2.976,038

4.687,475

-

2.788,488

9.947,259

14.906,921

Chỉ tiêu

3. Dự phịng năm trước
chuyển sang
4. Tổng thu

Bảng 7. Số thu thực tế NV BHMM của Bảo Việt Hà Nội
(Nguồn: Phòng BH Cháy & RR kỷ thuật - công ty BHHN)
- Về chi:

Cho đến thời điểm này chưa có vụ tổn thất nào xảy ra thuộc trách nhiệm
của công ty nên chưa tiến hành bồi thường (kể cả Tổng cơng ty cũng chưa có
vụ bồi thường nào). Phần lớn các khoản chi của nghiệp vụ là cho quản lý và
các hoạt động tăng cường phát triển nghiệp vụ. Cụ thể:
+ Chi cho quản lý: 5% từ phí giữ lại
+ Chi dự phịng: 40% từ phí giữ lại
+ Chi hoa hơng mơi giới: trung bình 11% so với phí gốc
+ Chi cho thuế doanh thu: 4% phí gốc
+ Chi khác
Ta có bảng chi sau:

Đơn vị:

USD
Năm

Quản lý

Hoa hồng

Dự

Thuế

Chi

mơi giới

phịng


doanh

Tổng chi

khác

thu
1996

348,561

2.190,16

2788,4

796,42

418,27

6.562.899

1997

371,55

3.011,5

2.972,3

1.095,1


445,86

7.896,4


Đến 5-98

63,45

916,73

88,83

333,36

-

-

Bảng 8 : Thực tế chi của NV BHMM ở cơng ty BHHN
(Nguồn: Phịng BH Cháy & RR kỷ thuật - công ty BHHN)
-Chênh lệch thu chi:
Đơn vị :USD
Năm

Tổng thu

Tổng chi


Chênh lệch thu chi

1996

9.947,259

6.561,899

3.385,36

1997

14.906,921

7.896,4

7.010,521

Bảng9 : Chênh lệch thu chi NV BHMM của công ty BHHN
* Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng.
Đơn vị :%
Chỉ tiêu

Tốc độ tăng

Doanh thu phí bảo hiểm gốc

37,5

Tổng thu


49,86

Tổng chi

20,34

Chênh lệch thu chi

107%

Bảng 10: Một số chỉ tiêu tăng của NV BHMM
Với các số liệu nêu trên, nghiệp vụ BHMM mới triển khai trong hai năm
1996,1997 nhưng đem lại kết quả tương đối.
Chỉ với một số cán bộ thuộc nhóm kỷ thuật của phịng bảo hiểm Cháy &
Rủi ro kỷ thuật phụ trách khai thác đã đem lại cho công ty 3.385,36USD chênh
lệch thu chi năm 96 và 7.010,521 năm97. Đây là con số hết sức thuyết phục đối
với bất kỳ một nghiệp vụ nào.
Xét về mặt giá trị đơn, số đơn cấp từng năm của nghiệp vụ BHMM khơng
giữ vị trí quan trọng như đối với các nghiệp vụ khác như bảo hiểm học sinh,


bảo hiểm trách nhiệm dân sự... song nhìn chung, số đơn cấp của mỗi nghiệp vụ
bảo hiểm đã phản ánh một cách chính xác mức độ phổ biến của loại hình đó và
ở một khía cạnh nào đấy, số đơn tăng lên đồng thời làm cho phí thu được cũng
tăng lên. Thời gian qua, mặc dù số đơn BHMM cấp khơng nhiều nhưng giá trị
mỗi đơn cao (trung bình 2,3 triệu USD năm 96 và 2,2 triệu năm 97) nên số phí
thu được tương đối lớn. Trong năm 98, mặc dú đến nay mới cấp được 1 đơn
nhưng với quyết tâm phấn đấu và khả năng tiếp cận khách hàng tốt, công ty sẽ
không dừng ở con số này mà sẽ vượt qua và có kết quả tốt hơn.

III/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ CÔNG TÁC TRIỂN KHAI NGHIỆM VỤ BẢO HIỂM
MÁY MÓC TRONG THỜI GIAN TỚI
Nghiệp vụ BHMM mới được triển khai ở Công ty BHHN trong thời gian
chưa đầy 3 năm , đây không phải là khoảng thời gian dai để nói nên điều gì
song qua phân tích những kết quả cũng như hạn chế mà công ty có được trong
khoảng thời gian đó chúng ta thấy được phần nào vị trí của nghiệp vụ trong sự
phát triển chung của Công ty.
Bước sang giai đoạn phát triển mới mà trước mắt là trong năm 98 này,
với những bước chuyển biến tích cực của cả nước nói chung và thủ đơ Hà nội
nói riêng cho phép ngành bảo hiểm phát triển tốt hơn . Tuy nhiên cùng với nó
là khơng ít khó khăn mà cịn ty phải đối đầu.
Thời gian tới cả nước tiếp tục thực hiện nghị quyết Đại hội VIII của
Đảng, tạotiền đề cho nền kinh tế chuyển sang thời kỳ CNH- HĐH với những đặc
điểm sau:
1* Tình hinh KT-XH của cả nước vẫn tiếp tục theo chiều hướng tôt, tạo điều
kiện thuận lợi cho kinh doanh bảo hiểm. Nhu cầu sử dụng maý móc cho
CNH- HĐH sẽ khơng ngừng tăng lên và điều này khuyến khích BHMM phát
triển mạnh hơn nữa.


2* Thị trường bảo hhiểm tiếp tục được đa dạng hố; một số cơng ty mơi giới
baỏ hiểm có thể ra đời; một số chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước
ngồi có thể đợc phép hoạt động kinh doanh tại Việt nam và dự đốn cơng
ty bảo hiểm bưu điện sẽ thành lập trong thời gian tới. tất cả sẽ khiến cho
tính cạnh tranh trên thị trường trở nên ác liệt hơn.
3* Đầu tư năm1998 có xu hướng giảm so với năm 1997 sẽ gây khó khăn cho
việc phát triển bảo hiểm nói chung và BHMM nói riêng.
4* Bộ tài chiníh ban hành thơng tư số 27/TT-BTC ngày 4/3/1998 về việc
hướng dẫn hoạt động khai thác và quản lý phí bảo hiêm tiến hành trên lãnh
thổ Việt nam sẽ ảnh hưởng tích cực tới hoạt động này, các doanh nghiệp

bảo hiểm sẽ phải đi vào hoạt động có nề nếp hơn.
5* Việc thực hiện nghị định 59/CP về quy chế tài chính doanh nghiệp và nghị
định 28/CP về tiền lương trong DNNN buộc các doanh nghiệp phải chú ý
đến hiệu quả kinh doanh. Thu nhập chủ yếu cảu cán bộ công nhân viên sẽ
phụ thuộc chủ yếu vào hiệu quả của họ, điều này sẽ khuyến khích mỗi người
phải có ý thức trách nhiệm hơn trong cơng tác của mình.
Với những đặc điểm kinh tế xã hội như vậy chúng ta sẽ không vô lý khi
đặt hy vọng vào sự phát triển của ngành kinh doanh bảo hiêm nói chung và
BHMM nói riêng.
Với mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của
nghiệp vụ nhằm biến niềm tin ấy thành sự thật, tôi xin nêu một số ý kiến của
mình- là những việc mà chúng ta cần xem xét và thực hiện.

1/ Công tác đào tạo và tổ chức nhân sự.
BHMM cũng giống như các loại hình BHKT khác là nó địi hỏi cán bộ
ngồi kiênd thức cần thiết về bảo hiểm cịn phải có sự hiểu biết về mayd móc
đặc biệt đối với cán bộ khai thác phải trung thực ,liêm chính và có tinh thần


×