Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

THỰC TRẠNG KINH DOANH VÀ XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC MARKETING Ở KHÁCH SẠN ATS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.36 KB, 29 trang )

THỰC TRẠNG KINH DOANH VÀ XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC MARKETING Ở
KHÁCH SẠN ATS-HÀ NỘI
2.1 Khái quát về khách sạn
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Công ty du lịch dịch vụ quân khu thủ đô là một doanh nghiệp nhà nước,
được thành lập theo quyết định số 96/QDUB của Uỷ ban nhân dân thành phố
Hà nội ngày 14/1/1994, trực thuộc sự quản lý của ban tài chính quản trị
Thành Uỷ Hà nội. Có trụ sở tại 33B Phạm Ngũ Lão, Hoàn Kiếm Hà nội. Khách
sạn ATS là tên giao dịch của công ty.
Được thành lập từ 14/1/1994 nhưng công ty chính thức đi vào hoạt
động kinh doanh từ tháng 2/1995, với hoạt động kinh doanh chủ yếu là lưu trú
và ăn uống. Có quy mô ban đầu là 40 phòng, sau hơn một năm hoạt động được
sự đồng ý của cơ quan chủ quản, đến tháng 7/1996 công ty đã mở rộng quy
mô lên đến 56 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đầu năm 1996 công ty dưa thêm
vào sử dụng một phòng ăn lớn với hơn 300 chỗ ngồi. Do vậy công ty cũng đã
mở thêm dịch vụ phục vụ hội nghị, hội thảo và tiệc.
2.1.2 Chức năng nhiệm vụ của công ty
Chức năng:
Kinh doanh khách sạn là nhiệm vụ chính của công ty Du lịch dịch vụ
Quân khu thủ đô. Ngoài ra còn tổ chức hướng dẫn các đoàn khách du lịch nội
địa và quốc tế tham quan các di tích lịch sử văn hoá nghệ thuật, các danh lam
thắng cảnh.
Phục vụ chính là cho thuê phòng ngủ, văn phòng, phục vụ ăn uống, tổ
chức tiệc, hội thảo trong nước và quốc tế, kinh doanh hàng lưu niệm, điện
thoại, fax và internet.
Nhiệm vụ:
Kết hợp tổ chức, xây dựng các trung tâm dịch vụ du lịch, nghỉ ngơi, giải
trí, phải tự chịu trách nhiệm bù đắp về mặt tài chính, đảm bảo kinh doanh có
hiệu quả và có tích luỹ. Tuân thủ đúng pháp luật và quy chế về hoạt động du
lịch của nhà nước. Tích cực hoạt động nâng cao đời sống của người lao động
và đảm bảo thường xuyên có công ăn việc làm cho nhân viên công ty.


Đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực, chuyên môn giỏi, và
có phẩm chất đạo đức; ứng dụng khoa học kỹ thuật vào thực tế đảm bảo chất
lượng phục vụ và uy tín trong kinh doanh.
Giám đốc và phó giám đốc công ty đều được bổ nhiệm từ Thành uỷ Hà
nội, là người có trách nhiệm lớn trước cơ quan pháp luật, cơ quan hành chính
và chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ kinh doanh đạt hiệu quả.
2.1.3 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của khách sạn ATS
Tổ chức bộ máy của khách sạn được chia theo chức năng từng bộ phận,
thực hiện theo từng nhiệm vụ riêng biệt.
Sơ đồ cơ cấu tổ chứa bộ máy quản lý ở khách sạn ATS: (xem hình 2.1)
Bộ máy điều hành từ giám đốc đến các phó giám đốc và các bộ phận đều
kết hợp chặt chẽ, đi vào chuyên môn hoá cao, nằm dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của trưởng các bộ phận. Hai phó giám đốc kiểm tra, đôn đốc và nhận báo cáo
từ các bộ phận.
- Giám đốc: là người chịu trách nhiệm chính của công ty.
- Phó giám đốc hành chính: chịu trách nhiệm trước công ty về công tác
tổ chức lao động, làm công tác khen thưởng và kỷ luật, quản trị hành chính,
lưu trữ văn thư.
- Phó giám đốc kinh doanh: chuyên sâu về vấn đề tổ chức kinh doanh của
công ty để đạt hiệu quả cao đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty.
Sơ đồ bộ máy tổ chức ở khách sạn ATS: (xem hình 2.1).
Hình 2.1: Sơ đồ tổ chức ở khách sạn ATS.
- Bộ phận kế toán: có một kế toán trưởng có trách nhiệm thực hiện các
hoạt động về kế hoạch tài chính và công tác kế toán, cụ thể là lập kế hoạch tài
chính dự trữ ngân sách hàng năm, tổ chức theo dõi việc thu chi của công ty, chi
trả lương và kiểm soát các hoạt động tài chính.
- Bộ phận lễ tân: gồm một tổ trưởng và 6 tổ viên, có nhiệm vụ đón tiếp
khi khách đến, làm các thủ tục nhập phòng, giới thiệu cho khách về các dịch vụ
của khách sạn và sử lý các thông tin cần thiết khi khách yêu cầu, chịu trách
nhiệm thanh toán với khách khi khách rời khỏi khách sạn.

Bộ
phận
an
ninh.
Giám đốc
Tổ
sửa
chữa
Tổ
bếp.
Tổ
tầng
phòng
Tổ giặt

Tổ tạp
vụ
Nhà
h ngà
Bộ
phận
buồng
Phó giám
đốc kinh
doanh.
Bộ
phận
ăn
uống.
Bộ

phận
nhân
sự.
Phó giám
đốc h nhà
chính.
Bộ phận
kế toán.
Bộ phận
marketing
Bộ
phận
lễ tân.
Tổ
bảo
vệ
Bộ phận này còn có nhiệm vụ làm công tác tiếp thị cho khách sạn và đảm
bảo làm việc cả ngày lẫn đêm.
- Bộ phận buồng phòng: nhiệm vụ của họ là đón nhận khách từ lễ tân và
hướng dẫn cho khách sử dụng các trang thiết bị của phòng ngủ, làm vệ sinh
sạch
sẽ ở các phòng ngủ và xung quanh khu vực sinh hoạt của khách sạn, nhận yêu
cầu giặt là khi khách có yêu cầu. Phục vụ 24/24 giờ.
- Bộ phận nhà hàng và bếp: hai bộ phận này là một vì nó phải kết hợp
chặt chẽ với nhau để phục vụ khách khi khách có nhu cầu về ăn uống. Người
phụ trách bộ phận này còn phải có trách nhiệm khai thác các nguồn khách
khác ngoài khách lưu trú tại khách sạn như: khách đặt hội nghị, hội thảo, tiệc
cưới và mọi nguồn khách có nhu cầu ăn uống khác.
- Bộ phận an ninh, sửa chữa: chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn về tài
sản và tính mạng cho khách trong thời gian họ lưu trú tại khách sạn. Ngoài ra

phải thường trực 24/24 giờ trong ngày để đảm bảo an ninh cho khách sạn, kịp
thời sử lý những sự cố về thiết bị cho khách và công ty.
- Bộ phận nhân sự: không trực tiếp trong kinh doanh nhưng nó đóng vai
trò quan trọng trong hoạt động của công ty. Bộ phận này chịu trách nhiệm
trước công ty về tuyển dụng và sa thải người lao động, tổ chức đào tạo và phát
triển nhân sự .
2.1.4 Các lĩnh vực kinh doanh và khách hàng hiện tại của khách
sạn
Các lĩnh vực kinh doanh:
- Kinh doanh dịch vụ cho thuê phòng:
Đây là một lĩnh vực kinh doanh chính nên rất được chú trọng đầu tư, cải
tạo và nâng cấp. Hiệu quả kinh doanh mang lại tương đối cao trong những
năm qua.
- Kinh doanh ăn uống:
Trong kinh doanh khách sạn, kinh doanh ăn uống cũng là một lĩnh vực
kinh doanh quan trọng, đóng góp không nhỏ vào tổng doanh thu của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, đối với khách sạn ATS, do vị trí nằm ở ngõ cụt nên có ít
khách vào ăn uống. Vì vậy doanh thu của dịch vụ này ở khách sạn chưa cao.
- Kinh doanh cà phê BB:
Đây cũng là một hình thức kinh doanh ăn uống, nhưng được tách ra để
phục vụ chủ yếu cho đối tượng khách có nhu cầu ăn hải sản và đồ uống. Loại
hình kinh doanh này mới được đưa vào danh mục sản phẩm kinh doanh của
khách sạn mấy năm gần đây nhưng hiệu quả của nó cũng không nhỏ, góp phần
làm tăng tổng doanh thu cho khách sạn.
- Kinh doanh khác:
Ngoài các lĩnh vực kinh doanh chính nêu trên, khách sạn còn có các dịch
vụ khác như: tổ chức phục vụ hội thảo, hội nghị; hướng dẫn du lịch, cho thuê
xe; các dịch vụ trang trí, giặt là, thông tin… các dịch vụ này cũng góp phần làm
đa dạng, phong phú thêm các họat động kinh doanh của khách sạn, làm tăng
hiệu quả kinh doanh cho công ty.

Do đặc thù của doanh nghiệp là liên doanh giữa hai cơ quan Thành uỷ
Hà nội và Quân khu Thủ đô nên một số dịch vụ như : tắm hơi, masage, vũ
trường… chưa được kinh doanh.
Tình hình doanh thu của khách sạn ATS năm 2000-2001
(Đơn vị tính: triệu đồng)
STT Các dịch vụ 2000 2001 So sánh
2000/200
1
1 Kinh doanh phòng 2240 3057 817
2 Kinh doanh ăn uống 210 313 103
3 Kinh doanh cà phê BB 180 191 11
4 Kinh doanh khác 170 189 19
5 Tổng doanh thu 2800 3750 950
Bảng 2.1. Tổng doanh thu của khách sạn ATS năm 2000-2001.
Nhìn vào bảng tổng doanh thu của khách sạn ta thấy:
Do nắm bắt được tình hình phát triển của ngành, cán bộ công nhân viên
trong toàn khách sạn đoàn kết, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh,
nâng cao chất lượng phục vụ khách, nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ
ngoại ngữ, nắm bắt mở rộng quan hệ bạn hàng, tiếp thu cầu thị ý kiến đóng
góp của khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ trong điều kiện cho phép…
Chính nhờ sự cố gắng này, tổng doanh thu của khách sạn năm 2001 tăng đáng
kể so với năm 2000, lượng tăng là 950 trđ.
Về công tác kinh doanh phòng ngủ của khách sạn: từ ngày đi vào hoạt
động đến năm 1997 là tương đối thuận lợi. Vì trong thời gian đó các công ty
nước ngoài đầu tư vào Việt nam nhiều, do đó làm tăng số lượng khách thương
mại và đồng thời làm tăng cả lượng khách du lịch. Từ cuối năm 97 trở lại đây,
do
khủng hoảng kinh tế khu vực làm giảm đáng kể lượng khách vào Việt nam.
Mặt khác, các khách sạn hiện đại liên doanh với nước ngoài mọc lên quá nhiều,
làm mất cân đối giữa cung và cầu dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các

doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, trong đó có sự cạnh tranh về giá cả.
Trước tình hình đó, ban giám đốc khách sạn đã lấy chất lượng phục vụ lên
hàng đầu để làm phương tiện cạnh tranh. Đồng thời tổ chức học tập nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đẩy mạnh công tác quảng cáo tiếp thị, cải tạo
nâng cấp một số phòng ngủ của khách sạn thành phòng làm việc cho các công
ty nước ngoài thuê dài hạn (đã có các tổ chức, công ty nước ngoài thuê như: tổ
chức thầy thuốc từ thiện của Mỹ, ngân hàng Thuỵ sỹ….) . Đội ngũ nhân viên
ngày càng hoàn hảo về trình độ, đã quan tâm giúp đỡ mọi khách hàng một
cách tận tình chu đáo, nên đã để lại ấn tượng tốt trong tâm trí mỗi khách
hàng. Điều này đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của khách sạn.
Năm 2001 doanh thu phòng tăng 817trđ so với năm 2000, lượng tăng
khá cao trong lượng tăng tổng doanh thu toàn khách sạn.
Sở dĩ, doanh thu từ việc kinh doanh ăn uống của khách sạn mỗi năm một
tăng là do khách sạn đã có sự mở rộng và quan tâm đến hoạt động kinh doanh
này. Nhờ có sự đầu tư trang bị cho các phòng họp, hội nghị, hội thảo… thêm
đàng hoàng và sang trọng, nên đã thu hút được nhiều lượt khách đến đặt
hàng. Khách sạn đã tuyển dụng thêm các đầu bếp có tay nghề cao, đội ngũ
nhân viên trẻ, khoẻ, nhiệt tình, có trình độ ngoại ngữ, mạnh dạn tiếp thu ý kiến
khách hàng, khắc phục thiếu sót để ngày càng phục vụ tốt hơn. Tuy nhiên hình
thức kinh doanh này của khách sạn vẫn còn có mặt hạn chế như: cảnh quan
thiên nhiên, cách bài trí trong phòng ăn chưa thực sự gây hứng thú cao cho
khách nghỉ, do vậy đã làm mất đi một lượng khách khá lớn cho dịch vụ này.
Khách hàng hiện tại của khách sạn:
Từ năm 1997 trở về trước, đất nước ta ở giai đoạn đầu của thời kỳ mở
cửa, môi trường đầu tư chưa thật sự hấp dẫn, thủ tục xuất nhập cảnh còn
nhiều phức tạp, khách du lịch còn ít biết đến Việt nam. Nhưng những năm gần
đây dưới cái nhìn của người nước ngoài, nền văn hoá Việt nam có nhiều sắc
thái mới lạ, các lĩnh vực đầu tư hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao nhưng còn
đang bỏ ngỏ; thị trường Việt nam rất hấp dẫn với họ. Và đó trở thành một
trong những lý do khiến cho lượng khách nước ngoài vào Việt nam với mục

đích thương mại ngày một tăng .
Khách quốc tế ở khách sạn ATS chiếm tỷ trọng là 80,82%; xuất phát từ
điều kiện trang thiết bị và các đối tác, trước những năm 1997 khách của khách
sạn ATS chủ yếu nhằm vào các đối tượng là khách thương mại, kết hợp với một
số khách du lịch du lịch quốc tế. Từ những năm 1998 trở lại đây, nhiều khách
sạn hiện đại xuất hiện, nên doanh nghiệp chuyển sang thị trường khách du lịch
là chủ yếu và chỉ còn lại một số khách thương mại quen thuộc mà họ thường đi
lại và đến ở tại khách sạn.
Từ những khách hàng quen thuộc mà đã nhiều năm khách sạn là nơi tin
cậy của họ, cả khách thương mại lẫn khách du lịch. Họ thường xuyên trực tiếp
đến đặt tiệc tại khách sạn. Ngoài ra lượng khách du lịch còn thông qua một số
công ty trung gian như: Vinatour, Saigontour, OSC (công ty liên doanh với Nhật
Bản), công ty du lịch Bến Thành…
Hầu hết là tour du lịch quốc tế, cùng với các văn phòng đại diện của Mỹ,
Hàn Quốc, Đài Loan, Đan Mạch….
2.2 Những thuận lợi khó khăn trong kinh doanh của
khách sạn ATS
Nhận xét đánh giá những thuận lợi khó khăn trong kinh doanh sẽ cung
cấp những thông tin quan trọng có thể sử dụng trong quá trình lập kế hoạch
chiến lược và cho thấy tình thế hiện tại bên trong và bên ngoài công ty, nhằm
cố gắng ước đoán những phát triển nào trong tương lai có thể chi phối hoạt
động của công ty và nhận định những phương cách chuẩn bị cho những thay
đổi này.
Thông qua đó, đội ngũ quản lý cũng có thể hiểu rõ hơn về bản thân công
ty và môi trường hoạt động của công ty mình. Nắm được những nhân tố có thể
chi phối sự thành công của công ty, nhà quản lý có thể đưa ra những quyết
định có tính chất chiến lược một cách dễ dàng hơn.
Ngay từ khi đi vào hoạt động, ban lãnh đạo công ty đã có định hướng rõ
rệt trong kinh doanh. Doanh nghiệp đã tận dụng một cách tốt nhất tiềm năng
nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là bảo toàn và phát triển nguồn

vốn, nâng cao đời sống cho người lao động. Lập ra chính sách đổi mới, định
hướng đến năm 2005 là duy trì và phát triển tốt cơ sở vật chất, nghiên cứu sâu
sát thị trường, tạo cơ hội và phong cách phục vụ mới, tạo cho khách hàng cảm
giác thoải mái khi ở khách sạn, có chính sách thu hút khách hàng để lượng
khách đến với khách sạn ngày càng nhiều hơn. Hoạch định kế hoạch nhằm
nâng thu nhập bình quân đầu người tăng từ 5%-10%, nộp ngân sách nhà
nước tăng từ 10%-
12%. Tốc độ tăng trưởng hàng năm phấn đấu tăng từ 8%-10%. Công ty đề ra
đường lối cơ bản trong các hoạt động chung và từng bộ phận. Công ty đã lắp
đặt thang máy hiện đại (năm 1998) để tạo điều kiện phục vụ tốt hơn cho nhân
viên và thuận lợi cho khách, mở rộng phòng ăn lớn 300 chỗ ngồi, đào tạo cán
bộ kế cận và nòng cốt làm các đầu mối hoạt động của công ty, đào tạo nâng
cao trình độ nghiệp vụ công nhân viên để đáp ứng yêu cầu của thị trường và
môi trường kinh doanh; kiện toàn bộ máy tổ chức gọn nhẹ, khai thác đầu vào
bằng cách thúc đẩy công tác tiếp thị, phát động thi đua tiết kiệm, giảm thiểu
chi phí, tận dụng tối đa nguồn vốn.
Mục tiêu đề ra là như vậy nhưng làm thế nào để đạt được mục tiêu đã
đề ra thì đòi hỏi phải có sự cố gắng của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong
công ty, đòi hỏi những nhà quản lý phải nắm bắt được cơ hội của thị trường và
tận dụng nó để nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Điều quan
trọng trong kinh doanh là phải nhận định được các cơ hội và mối nguy cơ
trong môi trường hoạt động và biết được những điểm mạnh, điểm yếu của
doanh nghiệp mình.
Từ cuối năm 1997 trở lại đây, luật đầu tư của nước ta đã được sửa đổi,
tạo điều kiện hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư, nhất là ngành du lịch. Nhiều
điểm du lịch, khách sạn nhà hàng được nâng cấp, cơ sở hạ tầng như đường xá,
cầu phà được xây cất, phố xá được cải tạo; giúp cho việc đi lại của khách du
lịch và khách công vụ được thuận lợi hơn. Điều này cũng có tác động tích cực
tới hoạt động kinh doanh của khách sạn. Hơn nữa, ngành du lịch ngày nay
đang rất được coi trọng, là ngành kinh tế mũi nhọn được sự quan tâm của nhà

nước và lượng khách du lịch ngày càng nhiều hơn kéo theo đó là sự phát triển
của ngành kinh doanh khách sạn.
Do lợi thế cạnh tranh của ngành kinh doanh khách sạn có tính hấp dẫn,
nên có rất nhiều tư nhân và đặc biệt là liên doanh với nước ngoài đi vào kinh
doanh trong lĩnh vực này. Bên cạnh khách sạn ATS có tới 3 khách sạn tư nhân
và hai khách sạn quân đội hoạt động. Năm 1999 lại mọc thêm khách sạn Hilton
có tiêu chuẩn quốc tế 5 sao. Đây đều là những khách sạn có bề dày kinh nghiệm
trong kinh doanh, vốn đầu tư lớn, nhiều dịch vụ hoàn hảo và sẵn sàng thu hút
khách hàng có thu nhập thấp. Chính vì vậy, gần đây đối thủ cạnh tranh của
khách sạn không chỉ là những khách sạn đồng hạng như ( khách sạn Thắng
Lợi, Thuỷ Tiên, Sài Gòn, Nhà khách quân đội…) mà còn phải cạnh tranh với
toàn bộ các khách sạn hiện có trên địa bàn Hà nội. Đây là một thách thức lớn
đối với
khách sạn. Hơn nữa, do khách sạn là một doanh nghiệp nhà nước nên các dịch
vụ như: karaoke, masage, cắt tóc… chưa được kinh doanh, làm cho các dịch vụ
trong khách sạn bị hạn chế và đây cũng là một khó khăn trong kinh doanh của
khách sạn.
Bên cạnh những khó khăn gặp phải trong kinh doanh, khách sạn ATS lại
có một vị trí địa lý tương đối thuận lợi cho việc kinh doanh lưu trú và ăn uống.
Nằm gần hồ Hoàn Kiếm, bảo tàng lịch sử, bảo tàng Cách Mạng, nhà hát lớn…
và có nhiều lợi thế ở trung tâm thành phố, trong một quần thể môi trường
trrong lành, nhiều cây xanh và yên tĩnh, an ninh đảm bảo, không gian thoáng
mát rất phù hợp với đối tượng khách không thích ồn ào, sôi động.
Khách sạn luôn coi trọng mối quan hệ đối tác nên các nhà cung ứng
thường xuyên cung cấp cho khách sạn các dịch vụ cũng như các phương tiện
phục vụ hoạt động kinh doanh kịp thời và có chất lượng cao.
Do khách sạn thường xuyên phải dùng các sản phẩm như: xà phòng, kem
đánh răng, dầu gội đầu, rượu bia và các đồ uống khác nên khách sạn đã có kế
hoạch cho từng thời kỳ và chọn nhà cung cấp có uy tín; đảm bảo chất lượng,
mẫu mã đẹp, giao hàng đúng hạn với giá cả phải chăng theo đúng thoả thuận

giữa họ với khách sạn nên luôn có chế độ ưu đãi.
Hơn nữa khách sạn ATS còn có cơ cấu tổ chức biên chế gọn nhẹ, đội ngũ
nhân viên có trách nhiệm, có định hướng kinh doanh đúng đắn, cơ sở vật chất
đồng bộ, khai thác tốt và được sự ủng hộ của cơ quan chủ quản về vốn và
nguồn khách. Biết tranh thủ các cơ hội trong kinh doanh, tránh được những
rủi ro lớn một cách cao nhất. Luôn đảm bảo chữ tín với khách hàng, luôn có
công xuất phòng ở tỷ lệ khá, duy trì tốt hiệu quả kinh doanh. Luôn đảm bảo đời
sống vật chất tinh thần cho người lao động; nội bộ đơn vị đoàn kết; làm tròn
nghĩa vụ nộp ngân sách, chấp hành đầy đủ chính sách nhà nước và đảm bảo an
toàn tuyệt đối trong kinh doanh.
Tuy nhiên, khách sạn ATS còn có tồn tại đó là: việc đầu tư nghiên cứu
chiến lược kinh doanh lúc đầu chưa thật chính sác, phải điều chỉnh nhiều lần
nên có gây tốn kém và thất thoát tài sản ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phải biết được điểm mạnh, điểm yếu của mình và các đối thủ cạnh
tranh; phải tận dụng được những cơ hội của thị trường và tránh được những
rủi ro mà thị trường mang lại, có như vậy chúng ta mới kinh doanh hiệu quả.
Trong kinh doanh hiện đại '' Biết mình, biết người trăm trận trăm
thắng''.
2.3 Đánh giá việc xây dựng chiến lược marketing ở
khách sạn ATS
Trong điều kiện kinh doanh khó khăn hiện nay, một doanh nghiệp kinh
doanh thành công không phải chỉ cố gắng tìm mọi cách đáp ứng tốt nhất nhu
cầu của khách hàng mà còn phải khơi dậy những nhu cầu về sản phẩm của
doanh nghiệp mình với những khách hàng tiềm năng.
Cũng vậy, hoạt động marketing ngày càng trở nên quan trọng hơn bởi vì
cạnh tranh ngày càng gia tăng, khách hàng ngày càng khó tính hơn, sở thích
của họ lại luôn thay đổi và thành công chỉ đến với những doanh nghiệp biết
phục vụ tốt nhất những nhóm khách hàng riêng biệt.
Có rất nhiều con đường để đến đích, nhưng chúng ta phải biết chọn cho

mình đường đi ngắn nhất, phù hợp với khả năng của mình nhất và tốn ít công
sức tiền của nhất. Các chiến lược marketing như là những con đường dẫn ta
đến thành công.
2.3.1 Nội dung xây dựng chiến lược marketing ở khách sạn ATS
Mặc dù mới được thành lập, nhưng phòng marketing ở khách sạn đã
đóng góp một phần không nhỏ vào hiệu quả kinh doanh của khách sạn.
2.3.1.1 Công tác nghiên cứu, phân đoạn và lựa chọn thị trường mục tiêu
Chúng ta đều biết rằng, một sản phẩm nào đó chỉ phù hợp với một số đối
tượng khách nhất định chứ không thể phù hợp với tất cả các đối tượng khách;
bởi vì nhu cầu của con người rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Trong kinh
doanh, chúng ta phải biết sản phẩm của doanh nghiệp mình phù hợp với đối
tượng khách nào, phải biết khơi dậy nhu cầu và thu hút những đối tượng
khách quan tâm đến sản phẩm của doanh nghiệp mình.
Khách sạn ATS là khách sạn có quy mô nhỏ, cũng như hầu hết các khách
sạn nhỏ ở Việt nam, hoạt động marketing vẫn chưa được coi trọng và cần
thiết. Khách sạn không tiến hành công tác nghiên cứu phân đoạn và lựa chọn
thị trường mục tiêu- một công việc quan trọng trong việc xây dựng chiến lược
marketing.
Khách sạn cũng thu thập thông tin nhưng chủ yếu về các khách hàng
hiện tại của doanh nghiệp, chưa thực sự nghiên cứu kỹ về nhu cầu, thị hiếu của
khách
hàng. Khách sạn có tổ chức trao đổi ý kiến, sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến với
khách hàng ... nhưng nó chưa phát huy được hiệu quả.

×